Tại Công văn số 321/BTP-VP ngày 6 tháng 2 năm 2017 và Công văn số 1235/BTP-VP ngày 13 tháng 4 năm 2017 của Bộ Tư pháp về việc trả lời kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV:
1. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ảnh việc người dân khi cần chứng thực sổ hộ khẩu thì phải photo tất cả các trang theo quy đinh tại Điều 7 Thông tư 20/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp làm hao tốn chi phí của người dân. Cử tri kiến nghị cần xem xét lại quy định trên nhằm đơn giản thủ tục hành chính, đồng thời xem lại giá chứng thực để giảm bớt chi phí cho người dân khi đi chứng thực.
Trả lời:
Cử tri kiến nghị cần xem xét lại quy định về chứng thực sổ hộ khẩu nhằm đơn giản thủ tục hành chính; xem lại giá chứng thực để giảm bớt chi phí cho người dân
- Xem xét lại quy định về chứng thực sổ hộ khẩu nhằm đơn giản thủ tục hành chính: Trước đây, để tạo thuận lợi, tiết kiệm cho người dân, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn khi chứng thực bản sao Sổ hộ khẩu, không nhất thiết phải chứng thực bản sao cả quyển. Tuy nhiên, từ sự tạo thuận lợi này, trên thực tế đã có nhiều người dân lợi dụng quy định trên, như: không chụp đủ số trang của Sổ hộ khẩu theo yêu cầu của cơ quan hữu quan, mà cố ý bớt số lượng trang của các thành viên có mặt trong Sổ hộ khẩu nhằm mục đích gian dối. Chính vì vậy, Thông tư số 20/2015/TT-BTP ngày 29/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã quy định: khi chứng thực bản sao từ Sổ hộ khẩu, phải sao cả quyển để ngăn chặn tình trạng gian dối nêu trên.
- Xem lại giá chứng thực để giảm bớt chi phí cho người dân: Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí chứng thực. Hiện tại, quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí chứng thực được thực hiện theo Thông tư số 226/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Do vậy, nếu có vướng mắc, đề nghị cử tri phản ánh về Bộ Tài chính để được hướng dẫn.
2. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo kiểm tra rà soát lại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay để tranh chống chéo, mâu thuẫn khi thực hiện.
Trả lời:
Về việc kiểm tra rà soát lại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay để tránh chồng chéo, mâu thuẫn
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao, trên cơ sở xác định rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật trong việc đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp luôn coi trọng việc quan tâm, hướng dẫn, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định của Chính phủ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, đồng bộ, thống nhất, khả thi của văn bản QPPL.
Năm 2014, trên cơ sở kết quả của Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (2003 - 2013), Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 191/BTP-KTrVB ngày 20/01/2014 về việc “Tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL” gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để đề nghị triển khai thực hiện đồng bộ 4 giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, bao gồm: (1) Chỉ đạo thực hiện nghiêm quy định của pháp luật; (2) Tăng cường tự kiểm tra và kiểm tra văn bản QPPL theo thẩm quyền, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc, xử lý triệt để, kịp thời những văn bản trái pháp luật đã được phát hiện hoặc được thông báo; (3) Quan tâm bố trí nhân lực, kinh phí và các điều kiện đảm bảo khác trong thực hiện công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; (4) Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả với Bộ Tư pháp trong thực hiện công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
Hàng năm, Bộ Tư pháp đều phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ tổ chức các Đoàn công tác liên ngành thực hiện kiểm tra, nắm tình hình về việc triển khai thực hiện công tác xây dựng, ban hành và kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương để kịp thời hướng dẫn, giải quyết các vấn đề khó khăn vướng mắc, rút kinh nghiệm trong thực hiện công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; trao đổi, làm rõ các văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, thẩm quyền, hiệu lực và đề nghị cơ quan, người ban ban hành tự tổ chức kiểm tra, xử lý và thông báo kết quả xử lý cho Bộ Tư pháp.
Đồng thời với việc hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương và Bộ, ngành khác trong công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, hàng năm Bộ Tư pháp đã thực hiện kiểm tra hàng nghìn văn bản QPPL theo thẩm quyền, phát hiện hàng trăm văn bản không phù hợp với quy định của pháp luật[1] ; thực hiện rà soát văn bản thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp, ban hành các Quyết định công bố Danh mục văn bản QPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần[2]…
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri, thực tiễn hiện nay vẫn còn tồn tại những quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thống nhất trong toàn hệ thống văn bản QPPL. Theo quy định tại Điều 111 và 139 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tự kiểm tra văn bản do mình ban hành hoặc liên tịch ban hành ngay sau khi ban hành văn bản và thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản do mình ban hành hoặc chủ trì soạn thảo. Vì vậy, để hạn chế tình trạng chồng chéo trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của các cơ quan từ Trung ương đến địa phương, đề nghị các Bộ, ngành, địa phương, trong quá trình áp dụng pháp luật, nếu phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp cần kiến nghị ngay tới cơ quan có thẩm quyền (cơ quan đã ban hành hoặc tham mưu soạn thảo, trình ban hành văn bản, cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề mà văn bản điều chỉnh) để cơ quan này kịp thời thực hiện kiểm tra, rà soát, có giải pháp xử lý nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
3. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội cần sớm sửa đổi các sai sót của Bộ luật hình sự, đồng thời khi sửa đổi Bộ luật hình sự cần xem xét tăng mức hình phạt với các trường hợp trẻ em dưới 18 tuổi khi phạm pháp trọng án nghiêm trọng để giáo dục răn đe.
Trả lời:
Về việc sớm sửa đổi các sai sót của Bộ luật hình sự; xem xét tăng mức hình phạt với các trường hợp trẻ em dưới 18 tuổi khi phạm pháp trọng án nghiêm trọng
- Về việc sớm sửa đổi các sai sót của Bộ luật hình sự: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2 (tháng 10/2016), hiện nay dự thảo Luật đang được Ủy ban Tư pháp của Quốc hội phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội để trình Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017).
- Về tăng mức hình phạt với các trường hợp trẻ em dưới 18 tuổi khi phạm pháp trọng án nghiêm trọng:
Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là một trong những chính sách quan trọng của Bộ luật hình sự năm 2015. Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) trên tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có người chưa thành niên phạm tội. Chủ trương nhân đạo hóa đối với người chưa thành niên đã có sự thống nhất cao của Chính phủ, cũng như trong quá trình xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến nhân dân trước khi Bộ luật hình sự 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng nhận thấy, giáo dục, phòng ngừa vi phạm pháp luật hình sự ở lứa tuổi người chưa thành niên không thể chỉ dựa vào việc tăng nặng hình phạt mà cần phải có sự kết hợp đồng bộ các biện pháp như giáo dục ý thức cho bản thân người chưa thành niên và gia đình họ, lành mạnh hóa môi trường sống của người chưa thành niên, tạo điều kiện cho người chưa thành niên học tập, giải trí và lao động… Do đó, việc xem xét tăng mức hình phạt với các trường hợp trẻ em dưới 18 tuổi khi phạm pháp trọng án nghiêm trọng là chưa phù hợp với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta.
4. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri cho rằng Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có điểm x: “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” và điểm x: “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng” là chưa phù hợp. Cử tri đề nghị không áp dụng những tình tiết giảm nhẹ này đối với tội phạm tham nhũng, thay vào đó, cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng đối với những người phạm tội này..
Trả lời:
Về đề nghị không áp dụng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với tội phạm tham nhũng
Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là chính sách chung được áp dụng cho tất cả các đối tượng phạm tội cũng như tất cả các loại tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, dù một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý như tội phản bội tổ quốc hay tội ít nghiêm trọng do vô ý như tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu có tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 thì đều được áp dụng mà không có sự phân biệt giữa các loại tội phạm.
Hơn nữa, đây là tình tiết giảm nhẹ được thiết kế từ những Bộ luật hình sự trước đây của nhà nước ta đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn áp dụng và còn phù hợp; đồng thời, việc quy định trên cũng thể hiện tinh thần nhân đạo trong chính sách xử lý hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
5. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị thay thế quy định hình phạt “tử hình” bằng hình phạt “chung thân không xét giảm án” đối với các tội phạm về ma túy quy định tại Khoản 4, Điều 248, Bộ Luật hình sự; Đề nghị tăng hình phạt tiền đối với nhóm tội phạm xâm phạm quản lý trật tự kinh tế quy định tại Điều 153 – 181 của Bộ Luật hình sự.
Trả lời:
- Về đề nghị thay thế quy định hình phạt “tử hình” bằng hình phạt “chung thân không xét giảm án” đối với các tội phạm về ma túy: Qua báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 của Bộ Công an thì các tội phạm về ma túy nói chung và đặc biệt là tội sản xuất, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có diễn biến ngày càng phức tạp, với những hậu quả để lại cho xã hội hết sức nặng nề. Để trấn áp và răn đe loại tội phạm này cần có hệ thống chế tài đủ mạnh, do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định hình phạt tối đa là tử hình.
- Về kiến nghị tăng hình phạt tiền đối với nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế từ Điều 153 đến Điều 181 của Bộ luật hình sự: Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh đối với loại tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong thời gian vừa qua, Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt tiền đối với một số tội phạm cụ thể, ví dụ như sau:
+ Về Tội buôn lậu: Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt tiền ở khoản 1 là từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, hình phạt tiền bổ sung từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt tiền đối với cá nhân tại khoản 1 là từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, khoản 2 là từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng, khoản 3 là từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng và hình phạt tiền bổ sung là từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
+ Về Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới: Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức phạt tiền tại khoản 1 là 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, hình phạt tiền bổ sung là từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Điều 189 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức phạt tiền tại khoản 1 là 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, khoản 2 là 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, khoản 3 là 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; hình phạt tiền bổ sung là từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt tiền đối với một số tội phạm cụ thể trong nhóm tội phạm xâm phạm quản lý trật tự kinh tế so với Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
6. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng:
+ Khắc phục hỗ hổng pháp luật trước nay, nhất là đối với một số tội phạm hình sự như tội cố ý gây thương tích là chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và việc trưng cầu giám định y khoa là quyền của người bị hại, cơ quan chức năng rất khó vào cuộc đối với các vụ việc mà người có hành vi phạm tội và người bị hại thương lượng được với nhau hoặc vì một lý do nào đó, người bị hại không tiến hành yêu cầu trưng cầu giám định y khoa và yêu cầu khởi tố bị can. Đây là tình trạng khiếu vụ việc thanh toán lẫn nhau giữa các băng nhóm xã hội diễn ra ngày càng nhiều, tình trạng đâm thuê, chém mướn trong xã hội ngày càng nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
+ Đói với các tội phạm có nhiều khung hình phạt khác nhau, cần thiết quy định rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt, đồng thời tránh quy định theo hướng có sự giao thoa giữa các hình phạt liền kề nhằm tránh tình trạng cùng một tội như nhau, với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ như nhau nhưng do quan điểm xét xử của các địa phương khác nhau nên phán quyết đối với người phạm tội khác nhau. Quy định như vậy sẽ góp phần tạo tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật, cũng như hạn chế tối đa sự can thiệp từ ý chí chủ quan của những người tham gia xét xử trong các vụ án hình sự trong thời gian tới. Đồng thời, cũng tạo tính thống nhất trong triển khai thi hành Bộ luật hình sự tại các địa phương trên phạm vi cả nước.
Trả lời:
Về đề nghị xem xét, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2015
- Về khắc phục lỗ hổng pháp luật trong việc quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và việc trưng cầu giám định y khoa là quyền của người bị hại: Bộ Tư pháp nhận thấy, vấn đề khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự không quy định vấn đề này.
- Về kiến nghị rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt: Trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015, vấn đề về rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt cũng đã được quan tâm để điều chỉnh phù hợp. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có nhiều điều luật được rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt, ví dụ như:
+ Tội cố ý truyền HIV cho người khác Điều 118: Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 03 năm đến 10 năm; khoản 2 là từ 10 năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Điều 149 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 03 năm đến 07 năm, khoản 2 là từ 07 năm đến 15 năm; khoản 3 là từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
+ Tội mua bán người: Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 02 năm đến 07 năm; khoản 2 là từ 05 năm đến 20 năm. Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 05 năm đến 10 năm; khoản 2 là từ 08 năm đến 15 năm và khoản 3 là từ 12 năm đến 20 năm.
Việc quy định gối hình phạt trong các khung hình phạt của các điều luật nhằm đảo bảo sự linh hoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án. Với những tội danh như nhau, Tòa án căn cứ vào những yếu tố khác nhau, như: nhân thân người phạm tội, điều kiện phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhận thức của người phạm tội… để quyết định hình phạt. Do vậy, việc quy định gối khung như Bộ luật hình sự năm 2015 là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
- Về việc bổ sung Tội sản xuất, buôn bán hàng kém chất lượng:
Bộ luật hình sự năm 1985 trước đây đã có quy định tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất (Điều 177). Tuy nhiên đến Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ tội danh này do tính chất, mức độ vi phạm này không cao như vi phạm trong sản xuất, buôn bán hàng giả nên xử phạt vi phạm hành chính là đủ nghiêm khắc, đủ sức răn đe. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tội danh này, pháp luật quy định hành vi lưu hành sản phẩm kém phẩm chất bị xử phạt hành chính.
Văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính mới nhất đối với hành vi vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa. Theo đó, hành vi vi phạm quy định về hàng hóa có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố trong bán buôn, bán lẻ có thể bị phạt tiền đến 50.000.000 đồng nếu lô hàng vi phạm có giá trị từ trên 160.000.000 đồng (Điều 18).
Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm của hành vi trên, kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng kém chất lượng.
- Về việc tăng nặng hình phạt đối với các tội danh liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm:
So với quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, cụ thể: tăng mức phạt tù tối đa từ 15 năm tù (theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999) lên đến 20 năm tù; tăng mức tiền phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999) lên mức 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
7. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:
- Kiến nghị xem xét, sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng:
+ Bổ sung Tội sản xuất, buôn bán hàng kém chất lượng vào sau Điều 192 về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm tạo cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng trên thị trường hiện nay. Bởi, khái niệm về hàng giả và hàng kém chất lượng là khác nhau, nên nếu quy định như Bộ luật Hình sự 2015 sẽ dấn đến tình trạng khó truy cứu trách nhiệm hình sự của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng kém chất lượng, nhất là đối với các mặt hàng như: vàng, xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… trong khi lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh này mang lại là rất cao.
+ Tăng nặng hình phạt đối với các tội danh liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm, đề nghị quy định khung hình phạt cao nhất của các tội danh này phải là tử hình. Bởi, liên quan đến các tội danh này thì hậu quả của nó không chỉ tác động đến một người mà là một nhóm người, một cộng đồng người. Và người vi phạm hành vi này nếu đến mức xử lý hình sự thì không phải vi phạm lần đầu, nên cần quy định xử lý nghiêm, làm cơ sở thực hiện và tạo sự răn đe, nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng của mọi người, và đảm bảo sự phát triiển chung của toàn xã hội.
Trả lời:
Về đề nghị xem xét, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2015
- Về khắc phục lỗ hổng pháp luật trong việc quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và việc trưng cầu giám định y khoa là quyền của người bị hại: Bộ Tư pháp nhận thấy, vấn đề khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự không quy định vấn đề này.
- Về kiến nghị rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt: Trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015, vấn đề về rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt cũng đã được quan tâm để điều chỉnh phù hợp. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có nhiều điều luật được rút ngắn khoảng cách giữa các khung hình phạt, ví dụ như:
+ Tội cố ý truyền HIV cho người khác Điều 118: Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 03 năm đến 10 năm; khoản 2 là từ 10 năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Điều 149 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 03 năm đến 07 năm, khoản 2 là từ 07 năm đến 15 năm; khoản 3 là từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
+ Tội mua bán người: Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 02 năm đến 07 năm; khoản 2 là từ 05 năm đến 20 năm. Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt tại khoản 1 là từ 05 năm đến 10 năm; khoản 2 là từ 08 năm đến 15 năm và khoản 3 là từ 12 năm đến 20 năm.
Việc quy định gối hình phạt trong các khung hình phạt của các điều luật nhằm đảo bảo sự linh hoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án. Với những tội danh như nhau, Tòa án căn cứ vào những yếu tố khác nhau, như: nhân thân người phạm tội, điều kiện phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhận thức của người phạm tội… để quyết định hình phạt. Do vậy, việc quy định gối khung như Bộ luật hình sự năm 2015 là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
- Về việc bổ sung Tội sản xuất, buôn bán hàng kém chất lượng:
Bộ luật hình sự năm 1985 trước đây đã có quy định tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất (Điều 177). Tuy nhiên đến Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ tội danh này do tính chất, mức độ vi phạm này không cao như vi phạm trong sản xuất, buôn bán hàng giả nên xử phạt vi phạm hành chính là đủ nghiêm khắc, đủ sức răn đe. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tội danh này, pháp luật quy định hành vi lưu hành sản phẩm kém phẩm chất bị xử phạt hành chính.
Văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính mới nhất đối với hành vi vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa. Theo đó, hành vi vi phạm quy định về hàng hóa có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố trong bán buôn, bán lẻ có thể bị phạt tiền đến 50.000.000 đồng nếu lô hàng vi phạm có giá trị từ trên 160.000.000 đồng (Điều 18).
Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm của hành vi trên, kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng kém chất lượng.
- Về việc tăng nặng hình phạt đối với các tội danh liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm:
So với quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, cụ thể: tăng mức phạt tù tối đa từ 15 năm tù (theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999) lên đến 20 năm tù; tăng mức tiền phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999) lên mức 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
8. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Đề nghị tăng hình phạt đối với các hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hành vi sản xuất và bán các loại thuốc thú y, thuốc trừ sâu giả vì trong thực tế các hành vi này có dấu hiệu tăng nhanh, gây thiệt hại lớn cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Trả lời:
Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 đều quy định chế tài xử lý rất nghiêm khắc đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy, cụ thể: đã quy định hình phạt tối đa là tù chung thân, tử hình.
Đối với hành vi sản xuất và bán các loại thuốc thú y, thuốc trừ sâu giả: So với Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt đối với tội sản xuất và buôn bán hàng giả là thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Cụ thể, đã tăng mức phạt tù tối đa lên đến 20 năm so với 15 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
9. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Bộ luật Hình sự (sửa đổi) hiện đang lùi thời gian có hiệu lực để sửa đổi một số nội dung, do vậy việc quy định về xử lý hình sự đối với một số tội phạm về vệ sinh thực phẩm và tội phạm về môi trường chưa được thi hành. Đề nghị sớm thông qua các nội dung sửa đổi của Bộ luật Hình sự để có căn cứ xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trả lời:
Về đề nghị sớm thông qua các nội dung sửa đổi của Bộ luật hình sự để có căn cứ xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm
Hiện nay, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 đang được Ủy ban Tư pháp của Quốc hội phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, chỉnh lý để trình Quốc hội khóa XIV xem xét thông qua vào kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017). Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
10. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị sớm xem xét, sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2013, cụ thể: đối với các nội dung có liên quan đến xử lý người nghiện ma túy cần sửa đổi, bổ sung quy định cho phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta, nhằm khắc phục các hạn chế trong thời gian qua về xử lý vấn đề này. Bởi, hiện nay, tình trạng giết người hàng loạt với các phương thức dã man phần đông xuất phát từ các đối tượng nghiện ma túy. Tuy nhiên, theo các văn bản hướng dẫn thì người nghiện ma túy được xem như người bệnh và việc đưa những người này vào các trung tâm cai nghiện tập trung phải được Tòa án ra quyết định. Nhưng nếu thực hiện theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì từ lúc Tòa án họp cho đến lúc ra quyết định phải mất thêm từ 6 đến 12 tháng. Hơn nữa, thời gian từ khi bắt được một đối tượng nghiện ma túy đến khi đưa vào trung tâm cai nghiện tập trung theo Nghị định 221 có quy trình từ 37 đến 72 ngày, là quá dài và gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong việc quản lý người nghiện tại cộng đồng.
Trả lời:
Về kiến nghị sớm xem xét, sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý người nghiện ma túy cho phù hợp với tình hình thực tế:
Luật xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định về thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng áp dụng và thi hành quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; đối với thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp, Luật xử lý vi phạm hành chính không quy định mà giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trong một văn bản riêng, cụ thể là: Điều 106 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định “Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”.
Theo quy định tại Điều 7 và điểm h Khoản 2 Điều 20 của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân (Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13) thì, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền, Tòa án phải ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Bên cạnh đó, cũng theo quy định tại điểm h Khoản 2 Điều 20 của Pháp lệnh, tại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Thẩm phán công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp (tùy từng trường hợp cụ thể).
Như vậy, phản ánh của cử tri về việc thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính thì từ lúc Tòa án họp cho đến lúc ra quyết định phải mất thêm từ 6 đến 12 tháng là chưa phù hợp với quy định của Luật.
- Về việc xem xét, rút ngắn thời gian, quy trình đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP: Ngày 09/9/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo quy định của Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, thủ tục và thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được đơn giản hóa và rút ngắn. Cụ thể: Đã rút ngắn thời gian bổ sung tài liệu vào hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sau khi Trưởng phòng tư pháp kiểm tra tính pháp lý mà thấy rằng hồ sơ chưa đầy đủ, từ 05 ngày làm việc xuống còn 03 ngày làm việc; hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người có nơi cư trú ổn định, từ 09 tài liệu, giấy tờ rút xuống còn 04 loại; hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người không có nơi cư trú ổn định, từ 06 loại tài liệu, giấy tờ rút xuống còn 03 loại; người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy không bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề mà chỉ cần có giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán, điều trị cắt cơn nghiện ma túy do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Trong quá trình theo dõi công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp tiếp tục tổng hợp các phản ánh, kiến nghị có liên quan để báo cáo Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính trong thời gian tới.
11. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Tại khoản 1, Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính, quy định: “Trường hợp vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa;... buôn bán hàng giả mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai về việc xử phạt” nhưng Chính phủ chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ, ngành liên quan sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể làm cơ sở cho địa phương tổ chức thực hiện.
Trả lời:
Bộ Tư pháp nhận thấy, các vụ việc vi phạm hành chính rất đa dạng, phức tạp, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhằm ngăn chặn và răng đe các hành vi vi phạm, Luật xử lý vi phạm hành chính đã xác định một số tiêu chí nhằm tăng nặng trách nhiệm hành chính, như: “gây hậu quả lớn” hoặc “gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội”. Tuy nhiên, đúng như cử tri đã phản ánh, vì các tiêu chí trên mang tính định tính, do vậy chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ, đề xuất Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung quy định trong trường hợp cần thiết để có cơ sở áp dụng trên thực tế.
12. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Khoản 3 Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người nào khác”. Tuy nhiên, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không quy định rõ vấn đề này để áp dụng trong thực tiễn, do đó trong quá trình áp dụng, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương còn mập mờ, lúng túng. Ví dụ như ở cấp xã Trưởng Công an xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nhưng khi Trưởng Công an xã đi vắng có thể Ủy quyền cho Phó trưởng Công an xã được không? Vì Phó trưởng Công an xã không phải là công chức. Mặt khác, đối với các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính khác (tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính…), Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không quy định việc giao quyền cho cấp phó trong việc áp dụng các biện pháp này dẫn đến sự lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện. Đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về vấn đề giao quyền cho cấp phó trong công tác xử phạt vi phạm hành chính tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP để việc thực hiện được thống nhất.
Trả lời:
1. Về vấn đề giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
Bộ Tư pháp nhận thấy, Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó tại Điều 54 (Giao quyền xử phạt), khoản 2 Điều 87 (Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính), khoản 2 Điều 123 (Tạm giữ người theo thủ tục hành chính); Luật không quy định cụ thể về việc cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Việc cấp trưởng giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính là vấn đề phức tạp và áp dụng nhiều trong thực tiễn.
Trong quá trình triển khai, áp dụng quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, hiện có những cách hiểu và áp dụng khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nói trên, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP(Tờ trình số 65/TTr-BTP ngày 30/12/2016), trong đó đã quy định vấn đề nêu trên theo hướng: Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính thì cũng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định cưỡng chế theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Về việc hoàn chỉnh các quy định pháp luật chung về xử lý vi phạm hành chính; hướng dẫn thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP; tăng cường các lớp tập huấn về kỹ năng sử dụng và tích hợp số liệu xử lý vi phạm hành chính vào cơ sở dữ liệu quốc gia; bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
- Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan trong trường hợp cần thiết để bảo đảm thống nhất trong các quy định của pháp luật.
- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định quy trình cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin và khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính (dự thảo Thông tư đã được thẩm định và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đang xem xét để ký ban hành trong thời gian tới).
- Trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) tại các tỉnh Trà Vinh và Quảng Ninh cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại địa bàn một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc vùng Đồng bằng Bắc bộ và miền Tây Nam Bộ (Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp...). Bên cạnh đó, ngày 12/5/2016, Bộ Tư pháp có Công văn số 1526/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL về việc triển khai thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, chỉ đạo thực hiện một số hoạt động như: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung Nghị định số 20/2016/NĐ-CP đến các đối tượng áp dụng của Nghị định trong phạm vi quản lý của mình; chủ động tổ chức thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính; cử cán bộ tham gia đầy đủ các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp tổ chức… Trong thời gian tới, theo kế hoạch công tác, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) để tạo thuận lợi cho các địa phương trong tổ chức thực hiện.
- Để bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng Thông tư quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để ban hành trong thời gian tới.
3. Về việc tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP; đề nghị Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức và bổ sung biên chế làm công tác theo dõi thi hành pháp luật cho các địa phương
Đúng như cử tri đã phản ánh, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật còn một số khó khăn, hạn chế: Hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật ở một số Bộ, ngành, địa phương chưa có nhiều chuyển biến rõ nét, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật... Trong các nguyên nhân của khó khăn, hạn chế nêu trên có nguyên nhân từ thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã triển khai việc xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã triển khai xây dựng Khung theo dõi thi hành pháp luật, trong đó có các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật một các khách quan, chính xác và khoa học.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp cũng tiếp tục theo dõi, nắm bắt, tổng hợp tình hình tổ chức bộ máy làm công tác theo dõi thi hành pháp luật tại các địa phương để kịp thời có ý kiến với Bộ Nội vụ, qua đó góp phần bảo đảm cho công tác theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện hiệu quả.
13. Cử tri tỉnh Phú Thọ, Hà Nam kiến nghị: Thời gian qua, tình trạng phương tiện vận chuyển hàng giả, hàng lậu xảy ra nhiều nơi, diễn biến phức tạp nhưng chế tài xử lý chưa nghiêm, chưa đảm bảo yêu cầu giáo dục, răn đe nên vẫn còn nhiều trường hợp tái phạm. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, cử tri đề nghị Chính phủ tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm trên và xử lý kiên quyết tránh thất thu thuế cho nhà nước và bảo đảm tính mạng cho người bệnh, cần quy định “tịch thu phương tiện vận chuyển hàng lậu, hàng giả trong trường hợp người điều khiển phương tiện vận tải không khai báo và cơ quan chức năng không xác định được chủ sở hữu của số hàng lậu, hàng giả trên phương tiện vận tải đó”.
Trả lời:
- Về việc tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm vận chuyển hàng lậu, hàng giả:
Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật, trong đó có các phản ánh, kiến nghị nêu trên của cử tri để kiến nghị Bộ Công Thương (cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại) nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện quy định nêu trên trong thực tế; trên cơ sở đó, báo cáo Chính phủ phương án sửa đổi, bổ sung quy định này tại Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm bảo đảm tính răn đe.
- Về việc quy định tịch thu phương tiện vận chuyển hàng lậu, hàng giả:
Bộ Tư pháp nhận thấy, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính, trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm hành chính thuộc về người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Việc người điều khiển phương tiện vận tải không khai báo chủ sở hữu của số hàng lậu, hàng giả trên phương tiện vận tải không phải là căn cứ để có thể tịch thu phương tiện vi phạm hành chính; tuy nhiên, việc “tự nguyện khai báo” được coi là tình tiết trong quá trình xử lý trách nhiệm của người vi phạm (quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật xử lý vi phạm hành chính). Do vậy, kiến nghị của cử tri về việc quy định tịch thu phương tiện vận chuyển hàng lậu, hàng giả trong trường hợp người điều khiển phương tiện vận tải không khai báo và cơ quan chức năng không xác định được chủ sở hữu của số hàng lậu, hàng giả trên phương tiện vận tải đó là không phù hợp với quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
14. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Tại Khoản 1 Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền đối với từng chức danh xác định theo tỷ lệ phần trăm khi xử phạt cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Đối với tổ chức, thẩm quyền xử phạt này được xác định là gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân. Tuy nhiên thẩm quyền xử phạt tăng gấp đôi này lại chỉ được xác định trong trường hợp phạt tiền mà không đề cập đến gia trị tịch thu của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; chưa xác định giới hạn của thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tương xứng với việc xử phạt tiền của các chức danh; Tại Khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hành chính (nhưng thực chất chỉ có 05 ngày làm việc và 02 ngày nghỉ); với thời gian này, việc tham mưu trình lãnh đạo UBND tỉnh ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vụ việc vi phạm liên quan đến 02 ngành trở lên hoặc vượt thẩm quyền sẽ gặp khó khăn, sẽ không đảm bảo thời gian quy định; Tại Khoản I Điều 66 quy định thời hạn đề ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính: trong trường hợp phức tạp cần xác minh được gia hạn 30 ngày nhưng không quy định rõ như thế nào là trường hợp phức tạp nên dẫn đến tình trạng áp dụng quy định không thống nhất. Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội có giải pháp sửa đổi bổ sung những điểm bất cập trên để đảm bảo hệ hống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Trả lời:
Về sửa đổi bổ sung những điểm bất cập của Luật xử lý vi phạm hành chính
- Về quy định tại Khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính không đề cập đến thẩm quyền xử phạt tăng gấp đôi trong trường hợp tịch thu của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; chưa xác định giới hạn của thẩm quyền áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Đúng như ý kiến của cử tri đã nêu, Khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền xử phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần đối với cá nhân, trong khi đó, thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính lại được xác định theo mức tiền phạt (được quy định đối với cá nhân vi phạm hành chính). Do Luật xử lý vi phạm hành chính chưa quy định rõ về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện đối với tổ chức vi phạm hành chính nên hiện nay có hai cách hiểu và áp dụng khác nhau: (i) Thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức được xác định theo giá trị tang vật, phương tiện và bằng mức phạt tiền áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; (ii) Thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được xác định như thẩm quyền phạt tiền, tức là, thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện đối với tổ chức vi phạm hành chính cũng gấp 02 lần đối với cá nhân vi phạm hành chính.
Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên, căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính, trong quá trình soạn thảo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã bổ sung quy định cụ thể về về vấn đề nêu trên, theo đó, thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện đối với tổ chức vi phạm hành chính được xác định như thẩm quyền phạt tiền và gấp 02 lần giá trị tang vật, phương tiện bị tịch thu của cá nhân vi phạm hành chính. Dự thảo Nghị định đã được Bộ Tư pháp trình Chính phủ tại Tờ trình số 65/TTr-BTP ngày 30/12/2016.
- Về quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính là quá ngắn:
Bộ Tư pháp nhận thấy, thời hạn ra quyết định xử phạt thông thường đối với các vụ việc là 07 ngày. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Đối với những vụ việc phức tạp, phải định giá, xác minh, hàng hóa vi phạm lớn, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng khoản 1 Điều 66 của Luật xử lý vi phạm hành chính để giải quyết, theo đó, “người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày”. Như vậy, tổng thời gian để ra quyết định xử phạt trong trường hợp này là 60 ngày, về cơ bản phù hợp với hầu hết các vụ việc vi phạm hành chính trên thực tế.
- Đối với kiến nghị về việc chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là trường hợp vụ việc phức tạp: Bộ Tư pháp xin ghi nhận ý kiến của cử tri. Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ trong thời gian tới.
15. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Đề nghị Bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm về hành chính về “Quy định cụ thể yếu tố gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội của các vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc trường hợp phải công bố công khai quy định tại Khoản 1, Điều 72 Luật xử lý vi phạm hành chính”.
Trả lời:
Bộ Tư pháp nhận thấy, các vụ việc vi phạm hành chính rất đa dạng, phức tạp, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhằm ngăn chặn và răng đe các hành vi vi phạm, Luật xử lý vi phạm hành chính đã xác định một số tiêu chí nhằm tăng nặng trách nhiệm hành chính, như: “gây hậu quả lớn” hoặc “gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội”. Tuy nhiên, đúng như cử tri đã phản ánh, vì các tiêu chí trên mang tính định tính, do vậy chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ, đề xuất Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung quy định trong trường hợp cần thiết để có cơ sở áp dụng trên thực tế.
16. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Đề nghị tiếp tục hoàn chỉnh các quy định pháp luật chung về XLVPHC, xử lý kịp thời những bất cập, không khả thi, không thống nhất trong các văn bản pháp luật quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC nhằm tạo điều kiện cho các ngành, các cấp dễ áp dụng trong công tác xử lý vi phạm hành chính như quy định về xác định mức trung bình khung tiền phạt cho phù hợp đối với những vi phạm hành chính khi không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; hướng dẫn thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP ngày 30/3/2016 quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính và tăng cường các lớp tập huấn về kỹ năng sử dụng và tích hợp số liệu xử lý vi phạm hành chính vào cơ sở dữ liệu quốc gia; quy định về quản lý, sử dụng kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại các cơ quan, đơn vị theo nhiệm vụ được giao.
Trả lời:
1. Về vấn đề giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
Bộ Tư pháp nhận thấy, Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó tại Điều 54 (Giao quyền xử phạt), khoản 2 Điều 87 (Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính), khoản 2 Điều 123 (Tạm giữ người theo thủ tục hành chính); Luật không quy định cụ thể về việc cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Việc cấp trưởng giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính là vấn đề phức tạp và áp dụng nhiều trong thực tiễn.
Trong quá trình triển khai, áp dụng quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, hiện có những cách hiểu và áp dụng khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nói trên, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP(Tờ trình số 65/TTr-BTP ngày 30/12/2016), trong đó đã quy định vấn đề nêu trên theo hướng: Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính thì cũng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định cưỡng chế theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Về việc hoàn chỉnh các quy định pháp luật chung về xử lý vi phạm hành chính; hướng dẫn thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP; tăng cường các lớp tập huấn về kỹ năng sử dụng và tích hợp số liệu xử lý vi phạm hành chính vào cơ sở dữ liệu quốc gia; bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
- Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan trong trường hợp cần thiết để bảo đảm thống nhất trong các quy định của pháp luật.
- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định quy trình cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin và khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính (dự thảo Thông tư đã được thẩm định và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đang xem xét để ký ban hành trong thời gian tới).
- Trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) tại các tỉnh Trà Vinh và Quảng Ninh cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại địa bàn một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc vùng Đồng bằng Bắc bộ và miền Tây Nam Bộ (Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp...). Bên cạnh đó, ngày 12/5/2016, Bộ Tư pháp có Công văn số 1526/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL về việc triển khai thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, chỉ đạo thực hiện một số hoạt động như: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung Nghị định số 20/2016/NĐ-CP đến các đối tượng áp dụng của Nghị định trong phạm vi quản lý của mình; chủ động tổ chức thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính; cử cán bộ tham gia đầy đủ các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp tổ chức… Trong thời gian tới, theo kế hoạch công tác, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) để tạo thuận lợi cho các địa phương trong tổ chức thực hiện.
- Để bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng Thông tư quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để ban hành trong thời gian tới.
3. Về việc tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP; đề nghị Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức và bổ sung biên chế làm công tác theo dõi thi hành pháp luật cho các địa phương
Đúng như cử tri đã phản ánh, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật còn một số khó khăn, hạn chế: Hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật ở một số Bộ, ngành, địa phương chưa có nhiều chuyển biến rõ nét, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật... Trong các nguyên nhân của khó khăn, hạn chế nêu trên có nguyên nhân từ thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã triển khai việc xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã triển khai xây dựng Khung theo dõi thi hành pháp luật, trong đó có các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật một các khách quan, chính xác và khoa học.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp cũng tiếp tục theo dõi, nắm bắt, tổng hợp tình hình tổ chức bộ máy làm công tác theo dõi thi hành pháp luật tại các địa phương để kịp thời có ý kiến với Bộ Nội vụ, qua đó góp phần bảo đảm cho công tác theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện hiệu quả.
17. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị sớm thực hiện cải cách đơn giản hóa quy trình, thủ tục đối với việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam nhằm tạo thuận lợi cho người dân khi thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết.
Trả lời:
Về cải cách đơn giản hóa quy trình, thủ tục đối với việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam
Luật hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP của Chính phủ) đã có nhiều quy định mang tính cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, trong đó có thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Theo đó, khi thực hiện yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, người có yêu cầu có thể trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện hoặc gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính; trường hợp ủy quyền thì việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật; trường hợp người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền thì văn bản ủy quyền không phải công chứng, chứng thực, nhưng phải có giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người uỷ quyền. Người đề nghị cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ cần nộp Tờ khai (theo mẫu), đồng thời xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ chứng minh nơi cư trú (thời hạn giải quyết 03 ngày làm việc).
Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã tương đối đơn giản và được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi cho người dân. Mặt khác, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được coi là thủ tục chỉ thực hiện trong giai đoạn chuyển tiếp; sau khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc được đưa vào vận hành thống nhất thì người dân sẽ không cần thực hiện thủ tục này, không phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong rất nhiều thủ tục hành chính khác.
Đối với việc cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (quy định tại khoản 6, Điều 22 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP), việc yêu cầu cá nhân nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây khi làm thủ tục cấp lại trong nhiều trường hợp là không khả thi, khó khăn cho người dân. Để kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho các địa phương, bảo đảm quyền lợi cho người dân, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực - Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1657/HTQTCT-HT ngày 23/11/2016 hướng dẫn Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đảm bảo việc triển khai đồng bộ, thống nhất.
18. Cử tri tỉnh An Giang, Bắc Kạn, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thái Nguyên, Bình Phước và TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri kiến nghị, thời gian gần đây xảy ra một số vụ án oan với số tiền nhà nước phải bồi thường rất lớn như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn, số tiền bồi thường 7,2 tỷ đồng, vụ ông Huỳnh Văn Nén, số tiền bồi thường là 18 tỷ đồng….Theo quy định của Luật Bồi thường Nhà nước thì người thi hành công vụ gây ra thiệt hại chỉ hoàn trả lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền với mức từ 03-36 tháng lương của người đó, mức hoàn trả này quá ít so với khoản tiền bồi thường mà Ngân sách Nhà nước phải bỏ ra, quy định này chưa hợp lý, không có tính ràng buộc trách nhiệm của người thi hành công vụ. Đề nghị nghiên cứu quy định tăng mức hoàn trả ngân sách nhà nước của người thi hành công vụ khi xảy ra án oan để ràng buộc trách nhiệm của người thi hành công vụ, góp phần hạn chế tình trạng án oan xảy ra.
Trả lời:
Thực trạng mà cử tri kiến nghị là một trong những hạn chế, bất cập đã được đánh giá, nhận định trong quá trình tổng kết 06 năm thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trên cơ sở kết quả tổng kết, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến đối với dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 2, trong đó, các quy định thực hiện trách nhiệm hoàn trả đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức hoàn trả. Theo đó, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền từ 01 - 50 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả. Trong từng trường hợp cụ thể:
- Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả nhưng tối đa không quá 50% số tiền mà Nhà nước đã bồi thường.
- Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại, thì mức hoàn trả từ 03 đến 05 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả nhưng tối đa không quá 50% số tiền mà Nhà nước đã bồi thường.
Ngoài các trường hợp nêu trên, người thi hành công vụ gây thiệt hại phải hoàn trả 01 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả. Đặc biệt trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội, thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
19. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Hiện nay, việc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho lao động là hành vi diễn ra khá phổ biến của các chủ sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp đã chuyển đổi sang loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, đề nghị nghiên cứu, hình sự hóa hành vi này và quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự.
Trả lời:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp và có tư cách pháp nhân theo quy định tại Điều 73 của luật này. Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại Điều 216 và quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với tội danh này. Bộ Tư pháp xin thông tin để cử tri được biết.
20. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri phản ảnh sự bất cập, hạn chế phát sinh trong công tác chứng thực của UBND cấp xã và chứng thực tài liệu dịch thuật của Phòng Tư pháp cấp huyện. Việc thi hành Nghị định 79 trước đây và Nghị định 23 hiện nay dần dần đi vào nề nếp và đạt được kết quart nhất định; tuy nhiên nhằm giảm tải cho chính quyền cơ sở và hoàn thiện chế định công chứng (theo Nghị Quyết 49/NQ-TW), khắc phục những tồn tại có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhân dân về lâu dài; đề nghị Chính phủ và Bộ Tư pháp xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định 23/2015/NĐ-CP cho phù hợp với thực tế.
Trả lời:
Ngày 16/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch (thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ). Qua gần hai năm triển khai, Nghị định đã cho thấy bước chuyển biến mới trong công tác này, đặc biệt là việc cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân trong giải quyết các yêu cầu về chứng thực. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ chứng thực được các địa phương phản ánh như: việc xác định thế nào là bản chính; việc xác định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp; việc chứng thực chữ ký trong trường hợp người dịch tự dịch giấy tờ, văn bản phục vụ mục đích cá nhân...
Để giải quyết các khó khăn, vướng mắc nêu trên, Bộ Tư pháp đã kịp thời có văn bản hướng dẫn các địa phương trong việc tổ chức thực hiện; đồng thời tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác chứng thực... Đến nay, qua theo dõi cho thấy việc triển khai thực hiện Nghị định đang được các địa phương thực hiện cơ bản tốt; chưa phát sinh những hạn chế, bất cập lớn gây bức xúc.
Do đó, để có cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chứng thực nói chung, trong đó có Nghị định số 23/2014/NĐ-CP, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục theo dõi, tổng hợp các khó khăn, vướng mắc (nếu có); đồng thời tổ chức sơ kết tình hình thực hiện Nghị định theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trên cơ sở đó đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp.
21. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Luật Hộ tịch thay đổi liên tục như nguyên quán, quê quán, sinh quán thay đổi nhiều lần vẫn chưa thống nhất rõ ràng. Vì vậy, đề nghị nhà nước quy định thống nhất sử dụng một trong các từ ngữ trên. Về nơi sinh như hiện nay, văn bản quy định là ghi nơi sinh ra tại cơ sở y tế hay bệnh viện là cơ sở để sinh chứ không phải nơi họ sinh ra gắn liền với quê hương, làng xã, huyện, tỉnh là phù hợp mà đúng với thực tế của một con người khi sinh ra.
Trả lời:
Về đề nghị quy định thống nhất sử dụng một trong các khái niệm nguyên quán, quê quán, sinh quán
Bộ Tư pháp nhận thấy, hệ thống pháp luật về dân sự và hộ tịch từ trước đến nay chưa có quy định nào xác định nội hàm của khái niệm “quê quán”. Theo kết quả rà soát, có một số quy định của pháp luật về hộ tịch có sử dụng cụm từ trên, cụ thể:
- Quyết định 1203-QĐ/1998/TP-HT ngày 26/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành biểu mẫu, sổ sách hộ tịch đã thống nhất sử dụng khái niệm “quê quán” trong các biểu mẫu và Sổ hộ tịch.
- Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định: khi đăng ký khai sinh, “quê quán” của con được xác định theo quê quán của người cha hoặc quê quán của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ.
- Luật hộ tịch năm 2014 quy định: “Quê quán” của cá nhân được xác định theo “quê quán” của cha hoặc mẹ theo thỏa thuận của cha, mẹ hoặc theo tập quán được ghi trong tờ khai khi đăng ký khai sinh.
Như vậy, các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký hộ tịch đều sử dụng thống nhất khái niệm “quê quán” mà không sử dụng khái niệm “nguyên quán” hay “sinh quán”. So với các văn bản trước, Luật hộ tịch quy định cụ thể hơn về cách xác định quê quán bằng quy định “phải được ghi trong tờ khai khi đăng ký khai sinh” nhằm đảm bảo sự thống nhất. Luật căn cước công dân số 59/2014/QH13 ngày 20/11/2014 cũng sử dụng thống nhất khái niệm “quê quán” và xác định đây là một trường thông tin được thu thập, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Trên thực tế, do các khái niệm này chưa được xác định một cách chính thức trong bất kỳ văn bản pháp luật nào, do đó đã dẫn đến cách hiểu khác nhau và áp dụng chưa thống nhất (ví dụ: Thông tư số 57/2013/TT-BCA ngày 13/11/2013 của Bộ Công an quy định về mẫu chứng minh nhân dân sử dụng thuật ngữ “quê quán” trong mẫu chứng minh nhân dân được cấp cho công dân, Thông tư số 36/2014/TT-BCA ngày 09/9/2014 quy định về biểu mẫu sử dụng trong đăng ký, quản lý cư trú thì sử dụng thuật ngữ “nguyên quán”). Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các văn bản quy phạm pháp luật ra đời sau này (sau Luật hộ tịch và Luật căn cước công dân) đều hướng đến việc sử dụng thống nhất khái niệm “quê quán” trong các giấy tờ của cá nhân.
22. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: về cấp lại các giấy tờ cho công dân như giấy khai sinh, quy định từ sau năm 1975 khi nhà nước thống nhất thì về nơi địa phương sinh ra là phù hợp còn những người sinh ra trước năm 1975 mà di cư từ năm 1954 từ Bắc vào Nam, họ ở lâu rồi mà nay các văn bản quy định muốn cấp lại giấy khai sinh phải về nơi quê quán cũ thì rất bất cập.
Trả lời:
Về xem xét quy định cấp lại các giấy tờ cho công dân như đối với các trường hợp sinh trước và sinh sau năm 1975
Bộ Tư pháp nhận thấy, liên quan đến việc cấp lại các giấy tờ hộ tịch mà cử tri đề cập, Luật hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật quy định 02 thủ tục, cụ thể:
- Thủ tục cấp bản sao trích lục hộ tịch, Điều 63 Luật hộ tịch quy định: “Cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký”. Đối với thủ tục này, cá nhân có thể ủy quyền cho người khác thực hiện thay hoặc gửi hồ sơ và nhận kết quả thông qua hệ thống bưu chính.
- Thủ tục đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử: Trong trường hợp việc kết hôn, khai sinh, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01/01/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại. Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch đã quy định thẩm quyền thực hiện đăng ký lại bao gồm Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký trước đây hoặc Ủy ban nhân dân nơi người yêu cầu thường trú thực hiện đăng ký lại khai sinh, kết hôn; chỉ duy nhất thủ tục đăng ký lại khai tử mới yêu cầu phải về Ủy ban nhân dân nơi đăng ký trước đây thực hiện.
Như vậy, về cơ bản, các thủ tục liên quan đến đăng ký lại, cấp trích lục hộ tịch cho người dân đã tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho công dân trong việc thực hiện khi có yêu cầu.
23. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Một số quy định trong Luật Hộ tịch còn bất cập, khó triển khai tại cơ sở, cụ thể: Quy định cho phép đăng ký lại khai sinh nhưng không có quy định cấp lại giấy khai sinh; các thủ tục hộ tịch: Đăng ký lại hộ tịch quy định phải có văn bản đề nghị xác minh của nơi lưu giữ hồ sơ... Thực tế, các quy định trên rất khó khăn cho người dân và cơ sở. Cử tri đề nghị xem xét điều chỉnh.
Trả lời:
1. Về quy định cấp lại Giấy khai sinh: Bộ Tư pháp nhận thấy, Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc, có ý nghĩa quan trọng, nên mỗi cá nhân có trách nhiệm bảo quản và giữ gìn để sử dụng sau này
Trước đây, do yếu tố lịch sử (hệ quả của chiến tranh, thiên tai nên người dân không bảo quản được Giấy khai sinh), do đó, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy định thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh để tạo thuận lợi cho người dân có được giấy tờ hộ tịch quan trọng này. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định trên cũng đã tạo ra tâm lý không coi trọng, giữ gìn Giấy khai sinh (vì cho rằng việc mất sẽ được cấp lại); nhiều trường hợp xin cấp lại nhiều lần, có trường hợp không mất cũng xin cấp lại, dẫn đến việc một người có nhiều Giấy khai sinh.
Mặt khác, theo quy định của Luật hộ tịch, sau khi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc được đưa vào vận hành thì người dân có thể làm thủ tục cấp Trích lục khai sinh (bản sao) ở bất kỳ cơ quan đăng ký hộ tịch nào và thời gian giải quyết sẽ được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi. Do vậy, để khẳng định giá trị của Giấy khai sinh, nâng cao ý thức của người dân đối với giấy tờ hộ tịch, hạn chế các tồn tại trong việc cấp, quản lý, sử dụng Giấy khai sinh, Luật hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch đã không quy định thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh.
2. Về đăng ký lại hộ tịch
Theo quy định của Luật hộ tịch, một trong các nguyên tắc đăng ký hộ tịch quan trọng là “Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền theo quy định của Luật này” (khoản 4, Điều 5). Do vậy, khi giải quyết yêu cầu đăng ký lại hộ tịch (khai sinh, kết hôn, khai tử), do điều kiện đăng ký lại là bản chính giấy tờ hộ tịch và sổ hộ tịch đều bị mất, cơ quan đăng ký hộ tịch phải kiểm tra, xác minh làm rõ việc có còn sổ đăng ký hộ tịch trước đây hay không? Đồng thời, để thuận lợi cho người dân, Luật hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật đã quy định trách nhiệm xác minh thuộc về cơ quan đăng ký hộ tịch. Trong trường hợp phải tiến hành xác minh thông tin tại các cơ quan đăng ký hộ tịch trước đây thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ chủ động có văn bản trao đổi với với người có yêu cầu để xác minh thông tin cần thiết, không được bắt buộc người có yêu cầu tự liên hệ xác minh.
Để bảo đảm thời gian giải quyết không bị kéo dài một cách tùy tiện, Điều 4 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch cũng đã quy định cơ chế cho phép trong trường hợp quá thời hạn quy định mà người có yêu cầu không nhận được kết quả xác minh thì cơ quan đăng ký hộ tịch cho phép người yêu cầu đăng ký hộ tịch lập văn bản cam đoan về nội dung cần xác minh.
Như vậy, các quy định nêu trên vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, thực hiện đúng nguyên tắc đăng ký hộ tịch, vừa tạo thuận lợi cho người dân.
24. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị:
- Đề nghị xem xét, sửa đổi một số vấn đề bất cập trong Luật Hộ tịch năm 2014, cụ thể:
+ Việc quy định đăng ký Giấy khai sinh chỉ cần 1 trong 3 loại giấy tờ: Giấy Chứng sinh, hoặc có người làm chứng là sinh con, hoặc có cam kết là có sinh con sẽ dẫn đến việc khó kiểm soát, gây khó khăn trong công tác quản lý cũng như thực hiện việc đăng ký hộ tịch, vì như vậy một người có thể đăng ký 02 đến 03 Giấy Khai sinh ở các nơi khác nhau.
+ Việc quy định yêu cầu người đi đăng ký hộ tịch ký tên vào sổ hộ tịch khó thực hiện trong trường hợp người đăng ký hộ tịch nộp hồ sơ đăng ký qua đường bưu chính, không trực tiếp đi đăng ký, vì vậy không thực hiện được yêu cầu ký tên.
+ Luật Hộ tịch không quy định việc cấp lại bản chính Giấy khai sinh như trước đây cũng là một bất cập, gây khó khăn cho người dân vì trên thực tế đối với những trường hợp có giao dịch với nước ngoài cần yêu cầu kiểm tra bản chính Giấy khai sinh, nếu không có bản chính thì sẽ khó khăn hoặc không giao dịch được.
Trả lời:
1. Về quy định đăng ký Giấy khai sinh
Việc quy định hồ sơ đăng ký khai sinh cho phép sử dụng văn bản của người làm chứng xác nhận việc sinh, giấy cam đoan về việc sinh trong trường hợp không có giấy chứng sinh quy định tại Luật hộ tịch được kế thừa từ Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch là nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho trẻ em được đăng ký khai sinh, nhất là trong bối cảnh còn nhiều trường hợp trẻ em sinh ngoài cơ sở y tế, sinh tại nhà ở các khu vực vùng sâu, vùng xa.
Hiện tại, Bộ Tư pháp cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về đăng ký và thống kê hộ tịch, trong đó có đề xuất tăng cường việc theo dõi sức khỏe phụ nữ mang thai, sinh sản và cấp giấy chứng sinh của cơ sở y tế, bảo đảm mọi trường hợp sinh đều được kiểm tra, cấp giấy chứng sinh, kể cả các trường hợp sinh ngoài cơ sở y tế. Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thực hiện Chương trình hành động, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Y tế xem xét, sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục đăng ký khai sinh nếu xét thấy cần thiết, bảo đảm quản lý chặt chẽ, tránh tình trạng một người có nhiều giấy khai sinh, nhưng vẫn bảo đảm thuận lợi cho người dân và việc thực hiện quyền khai sinh của trẻ em.
2. Về quy định đăng ký hộ tịch
Việc đăng ký hầu hết các loại việc hộ tịch đều gắn với điều chỉnh thông tin nhân thân của người có yêu cầu, có ảnh hưởng đến các giấy tờ, hồ sơ khác của cá nhân, nên Luật hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch đều quy định trong trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu người đi đăng ký hộ tịch phải ký tên vào sổ hộ tịch nhằm bảo đảm nội dung đăng ký trong sổ được cả công chức làm công tác hộ tịch và người đi đăng ký kiểm tra, bảo đảm tính chính xác, tránh nhầm lẫn, cũng là bảo đảm quyền lợi của người đi đăng ký.
Một số loại việc hộ tịch không có sự thay đổi thông tin về nhân thân của cá nhân như: cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, cấp bản sao trích lục hộ tịch, ghi chú kết hôn, ghi chú ly hôn thì trình tự, thủ tục giải quyết đều không yêu cầu người đi đăng ký phải ký vào sổ hộ tịch nên có thể thực hiện việc nộp hồ sơ và trả kết quả qua hệ thống bưu chính hoặc qua hệ thống trực tuyến.
Trong quá trình triển khai Luật hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn Luật, Bộ Tư pháp sẽ theo dõi, tổng hợp phản ánh, kiến nghị của cử tri, cơ quan đăng ký hộ tịch để nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc hộ tịch phù hợp với yêu cầu cải cách thủ tục hành chính và tiến trình xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, thực hiện đăng ký hộ tịch trực tuyến.
3. Về quy định cấp lại bản chính Giấy khai sinh
Kiến nghị của cử tri về việc cơ quan có thẩm quyền nước ngoài yêu cầu công dân Việt Nam phải có bản chính Giấy khai sinh là chưa cụ thể, do đó, Bộ Tư pháp chưa thể trả lời cụ thể để cử tri được biết.
Quá trình triển khai thực hiện Luật hộ tịch, Bộ Tư pháp chưa nhận được thông tin cụ thể về trường hợp nào có khó khăn trong giao dịch với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài vì không có bản chính Giấy khai sinh.
Trường hợp cử tri có khó khăn trong giao dịch với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài vì không có bản chính Giấy khai sinh, đề nghị cử tri liên hệ trực tiếp về Bộ Tư pháp (qua Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) để Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Ngoại giao trao đổi với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thống nhất, bảo vệ quyền, lợi ích của công dân Việt Nam theo đúng quy định pháp luật.
25. Cử tri tỉnh Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng quy định Trung tâm Trợ giúp pháp lý trực thuộc Sở Tư pháp và không quy định bổ sung chức danh Tư vấn viên cho Trợ giúp viên pháp lý.
Trả lời:
Về việc sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý
Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 ngày 09/6/2015 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2015 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ xây dựng dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) để trình Quốc hội cho ý kiến.
Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV đã thảo luận, cho ý kiến đối với dự án Luật. Trên cơ sở ý kiến thảo luận, Bộ Tư pháp đang tiếp tục phối hợp với các cơ quan của Quốc hội để chỉnh lý, hoàn chỉnh dự án Luật để trình Quốc hội khóa XIV xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2017).
Trong đó, khoản 1 Điều 11 dự thảo Luật đã quy định: “Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có Giám đốc, Phó Giám đốc, Trợ giúp viên pháp lý, viên chức và người lao động khác”; Điều 18 dự án Luật quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có Bằng cử nhân luật trở lên, được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý, có sức khỏe bảo đảm thực hiện trợ giúp pháp lý và thể trở thành Trợ giúp viên pháp lý”.
Như vậy, dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) vẫn quy định Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. Bên cạnh đó, đối với chức danh Trợ giúp viên pháp lý, dự thảo Luật đã quy định Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh nghề nghiệp của viên chức thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và không có quy định nào bổ sung chức danh Tư vấn viên cho Trợ giúp viên pháp lý.
26. Cử tri tỉnh Lai Châu kiến nghị: - Đề nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung quy định “Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm do HĐND ban hành” vào khoản 3 Điều 3 của Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành VBQPPL, vì khoản này liệt kê 11 loại văn bản do HĐND, UBND ban hành không phải là văn bản quy phạm pháp luật, việc liệt kê như vậy chưa đầy đủ dẫn đến cách hiểu ngoài những loại văn bản trên những văn bản khác đương nhiên là văn bản QPPL, trong khi đó nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm do HĐND ban hành không thuộc 11 loại văn bản liệt kê ở trên, cũng không có đầy đủ các yếu tố để cấu thành một văn bản QPPL.
Bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở địa phương đối với soạn thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và soạn thảo Quyết định của Ủy ban nhân dân vào Mục 1, Chương IV cho đảm bảo tính logic và thống nhất giữa nội dung với tên chương, mục của Nghị định, vì tại Mục 1 Chương IV quy định về soạn thảo văn bản QPPL, tức là quy định chung về quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật (đối với cả cơ quan, trung ương và địa phương), tuy nhiên các Điều như: Điều 25, Điều 26 chỉ quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở Trung ương đối với việc soạn thảo văn bản như Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết, Luật của Quốc hội; Nghị quyết, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội… chứ không quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở địa phương đối với soạn thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và soạn thảo Quyết định của Ủy ban nhân dân.
Đề nghị sửa quy định về nơi nhận tại Điều 67 của Nghị định cho thống nhất với biểu mẫu ban hành kèm theo, vì Điều 67 quy định phần “Nơi nhận” văn bản phải có “viết tắt tên người soạn thảo văn bản”, tuy nhiên tại các mẫu biểu kèm theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP lại quy định là “Ký hiệu người đánh máy”.
Trả lời:
1. Về việc nghiên cứu bổ sung quy định “Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm do Hội đồng nhân dân ban hành” vào khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Bộ Tư pháp nhận thấy, khoản 3 Điều 3 Nghị định 34/2016/NĐ-CP gồm 11 điểm, trong đó 10 điểm (từ điểm a đến điểm k) liệt kê 11 loại văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật và không có Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm do Hội đồng nhân dân ban hành. Bên cạnh các quy định liệt kê trên, điểm l cũng đã quy định mở để các văn bản là nghị quyết, quyết định khác chưa được liệt kê cụ thể tại 10 điểm nêu trên, nhưng có nội dung quy định tại các Điều 27, 28, 29 và 30 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
Để xác định Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm do Hội đồng nhân dân ban hành có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không thì cần phải đối chiếu nội dung cụ thể của nghị quyết với khái niệm về “văn bản quy phạm pháp luật” và “quy phạm pháp luật” quy định tại Điều 2 và Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Như vậy, việc văn bản không liệt kê tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 3 Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đương nhiên dẫn đến cách hiểu văn bản đó là văn bản quy phạm pháp luật như ý kiến của cử tri.
2. Về việc bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở địa phương đối với soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân và soạn thảo quyết định của Ủy ban nhân dân
Bộ Tư pháp nhận thấy, các quy định tại Mục 1 Chương IV Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã bao gồm các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở địa phương đối với việc soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân và soạn thảo quyết định của Ủy ban nhân dân, trong đó:
Khoản 1 Điều 25 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật: “Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật”, điều này được hiểu đã bao gồm cả trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở địa phương đối với việc soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân và soạn thảo quyết định của Ủy ban nhân dân. Nhiệm vụ của cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Ủy ban nhân dân được quy định cụ thể tại các Chương VIII, IX, X, XI của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Điều 26 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định về việc thành lập và hoạt động của Ban soạn thảo, theo đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thành lập Ban soạn thảo trong các trường hợp bộ, cơ quan ngang bộ được phân công chủ trì soạn thảo: luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 của Luật; nghị định của Chính phủ nếu thấy cần thiết (khoản 1). Như vậy, đối với trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương thì không bắt buộc thành lập ban soạn thảo, tổ biên tập, mà thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản trong từng trường hợp cụ thể.
3. Đề nghị sửa quy định về nơi nhận tại Điều 67 của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP cho thống nhất với biểu mẫu ban hành kèm theo:
Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của cử tri để có hướng dẫn, chỉnh sửa đảm bảo thống nhất giữa quy định về “Nơi nhận” tại Điều 67 với các quy định tại các mẫu biểu kèm theo Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
27. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh quy định tiền đặt trước và xử lý tiền đặt trước trong dự thảo Luật Đấu giá tài sản không rõ, quy định áp dụng cho người tham gia đấu giá hay bên tổ chức đấu giá phải gửi tiền đặt trước vào một tài khoản riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại tổ chức tín dụng thì khi bên tổ chức đấu giá đã nhận được tiền đặt trước nhưng chưa gửi vào tài khoản riêng thì có vi phạm không? Đề nghị Quốc hội nghiên cứu sửa nội dung này thành “Người tham gia đấu giá phải nộp tiền đặt trước. Khoản tiền đặt trước do tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá thỏa thuận nhưng tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá khởi điểm của tài sản đấu giá. Tiền đặt trước được gửi trực tiếp cho tổ chức đấu giá tài sản. Trường hợp khoản tiền đặt trước có giá trị trên 50 triệu đồng thì người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp vào một tài khoản riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại tổ chức tín dụng, khi nộp trực tiếp cho bên tổ chức đấu giá tài sản, bên tổ chức phải nộp vào một tài khoản riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại tổ chức tín dụng. Người tham gia đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản có thể thỏa thuận thay thế tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng”.
Trả lời:
Trong quá trình soạn thảo dự thảo Luật đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp đã nhận được nhiều ý kiến góp ý, đề nghị dự thảo Luật cần có những quy định chặt chẽ hơn, phù hợp với thực tiễn việc thu, quản lý và sử dụng khoản tiền đặt trước. Khắc phục những hạn chế, bất cập của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản trong việc quy định về khoản tiền đặt trước, Bộ Tư pháp đã tham mưu, giúp Chính phủ xây dựng dự thảo Luật đấu giá tài sản, trong đó đã quy định chặt chẽ hơn về vấn đề nêu trên. Theo đó, Luật đấu giá tài sản được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 2 đã quy định khoản tiền đặt trước do tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá thỏa thuận, nhưng tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá khởi điểm của tài sản đấu giá. Khoản tiền đặt trước được gửi vào một tài khoản thanh toán riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam để đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan. Đồng thời, để tạo sự thuận lợi và phù hợp với thực tiễn việc thu nộp khoản tiền đặt trước có giá trị nhỏ tại các vùng sâu, vùng xa mà điều kiện nộp qua ngân hàng còn chưa đảm bảo, Luật đã quy định trường hợp khoản tiền đặt trước có giá trị dưới 5 triệu đồng thì người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp cho tổ chức đấu giá tài sản. Hơn nữa, để tạo sự linh hoạt trong việc nộp tiền đặt trước, đặc biệt là các khoản tiền đặt trước có giá trị lớn, Luật cũng đã quy định người tham gia đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản có thể thỏa thuận thay thế tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng.
Bên cạnh đó, để đảm bảo việc quản lý, sử dụng khoản tiền đặt trước được chặt chẽ, tránh thất thoát, qua đó, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá, Luật đã quy định tổ chức đấu giá chỉ được thu khoản tiền đặt trước trước 03 ngày mở cuộc đấu giá và phải hoàn trả lại khoản tiền này cho người tham gia đấu giá trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc cuộc đấu giá. Đồng thời, Luật cũng đã quy định tổ chức đấu giá tài sản không được sử dụng khoản tiền đặt trước vào bất kỳ mục đích nào khác. Như vậy, ý kiến phản ánh của cử tri về khoản tiền đặt trước đã được cơ bản tiếp thu, chỉnh lý trong Luật đấu giá tài sản.
28. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay trên địa bàn một số địa phương có thực trạng là một số người dân Việt Nam trước đây có thời gian sinh sống, làm việc ở nước ngoài (Campuchia, Hàn Quốc, Đài Loan,…) nay trở về sinh sống và làm việc ở Việt Nam nhưng họ và con cái của họ không được cấp quốc tịch Việt Nam, cũng như các giấy tờ tùy thân khác (chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy khai sinh,…) do vướng mắc trong các quy định của pháp luật vì thế họ không được hưởng đầy đủ các quyền lợi của công dân Việt Nam về học tâp, cư trú, việc làm…. Cử tri kiến nghị các ngành chức năng cần nhanh chóng nghiên cứu, sửa đổi quy định của pháp luật hiện hành nhằm tháo gỡ vướng mắc khi cấp Quốc tịch và giấy tờ tùy thân cho những người dân nói trên để họ sớm được hưởng các quyền lợi cơ bản của người công dân Việt Nam, để con em kiều bào trong độ tuổi đi học được học tập lâu dài.
Trả lời:
1. Về quốc tịch và giấy tờ tùy thân của những người dân di cư từ Campuchia về nước và quốc tịch của trẻ em là con của họ
Đúng như cử tri đã phản ánh, số người dân di cư tự do từ Campuchia về nước khá đông, chủ yếu sinh sống tại 10 tỉnh có chung đường biên giới với Campuchia, số ít đi sâu vào nội địa (như: Bình Dương, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh...). Đa số những người này không giữ bất cứ giấy tờ gì để chứng minh về quốc tịch, hộ tịch. Trước thực trạng đó, Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương quan tâm thực hiện các giải pháp, trước mắt: hỗ trợ gạo, chăn màn, thuốc chữa bệnh, nhà ở tạm cho các hộ gia đình di cư tự do từ Campuchia về sinh sống tại địa phương; tạm thời xác lập thông tin nhân thân theo lời khai của người di cư tự do từ Campuchia về, lập danh sách để phục vụ công tác quản lý...
Bên cạnh đó, thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành chức năng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, cụ thể:
- Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại “Đề án tổng thể đối với người dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam năm 2015, Bộ Tư pháp đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch triển khai Tiểu Đề án“Giải quyết các vấn đề về quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước”, theo đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Công an khảo sát, nắm tình hình thực tế tại một số địa phương; ban hành biểu mẫu: Tờ khai thông tin cá nhân và biểu Danh sách tổng hợp đề nghị Ủy ban nhân dân 10 tỉnh có chung đường biên giới với Campuchia rà soát, thống kê, phân loại, lập danh sách theo nhóm số người di cư tự do từ Campuchia về cư trú tại địa phương (hiện đã nhận được báo cáo của 11/11 tỉnh với tổng số là 16.453 người dân di cư từ Campuchia về cư trú trên địa bàn).
- Thực hiện yêu cầu của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, Bộ Tư pháp đã Báo cáo Chính phủ về kết quả triển khai Tiểu Đề án, qua báo cáo, Thủ tướng Chính phủ đã nhất trí với đề xuất của Bộ Tư pháp về việc xem xét cấp Giấy khai sinh cho một số nhóm trẻ và cấp giấy cư trú tạm thời cho người không có giấy tờ gì chứng minh về nhân thân. Về tình hình giải quyết giấy tờ cho người di cư tự do tại một số địa phương:
- Đối với Nhóm 1: Trong tổng số 16.453 người di cư tự do từ Campuchia về thì có 5.687 người đã có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, hoặc có căn cứ, thông tin để xác định quốc tịch Việt Nam. Những người thuộc Nhóm này, các địa phương đã thực hiện cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam và giải quyết cho đăng ký thường trú nếu họ có chỗ ở hợp pháp, ổn định.
- Đối với Nhóm 2 (người không có giấy tờ gì để chứng minh về quốc tịch (quốc tịch Việt Nam, quốc tịch Campuchia hoặc quốc tịch nước khác), đang có nguy cơ rơi vào tình trạng người không quốc tịch): Bộ Tư pháp đang phối hợp Bộ Công an xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong đó giao Bộ Công an (Cục A72) vận dụng Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam để cấp Thẻ thường trú đối với người di cư tự do không có giấy tờ gì xác nhận nhân thân, hộ tịch, quốc tịch như đã áp dụng đối với người Campuchia tỵ nạn cư trú tại một số tỉnh phía Nam thời gian qua, để quản lý và tạo điều kiện cho bà con trong việc đi lại, cư trú, xin việc làm.
- Đối với Nhóm 3: (Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc sinh ra trên lãnh thổ Campuchia có cha, mẹ thuộc Nhóm 1 hoặc Nhóm 2): Bộ Tư pháp đã có văn bản gửi Sở Tư pháp 10 tỉnh có chung đường biên giới với Campuchia và tỉnh Đồng Nai đề nghị Sở Tư pháp hướng dẫn UBND cấp xã thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em là con của người di cư tự do từ Campuchia về sinh sống trên địa bàn.
Trên thực tế, thời gian vừa qua, đã có một số tỉnh căn cứ Luật Quốc tịch 2008, Luật Hộ tịch 2014 thực hiện đăng ký khai sinh và cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam cho những trường hợp có đủ cơ sở. Ví dụ:
- Tỉnh Tây Ninh: đăng ký khai sinh cho 403 trẻ em là con của người di cư tự do từ Campuchia về sinh sống trên địa bàn; cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam cho 386 trường hợp có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam; đăng ký hộ tịch cho 219 trường hợp.
- Tỉnh Long An: đăng ký khai sinh cho 36 trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, có cha mẹ là người di cư tự do từ Campuchia về.
- Tỉnh An Giang: đã cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam có 171 trường hợp là người di cư tự do từ Campuchia về.
2. Về quốc tịch và giấy tờ tùy thân của những người từ Hàn Quốc, Đài Loan về nước và trẻ em là con của họ
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tập trung hướng dẫn địa phương trong tổ chức thực hiện vấn đề cử tri nêu, cụ thể như sau:
- Đối với những người từ Hàn Quốc, Đài Loan về nước:
+ Trường hợp chưa thôi quốc tịch Việt Nam, nhưng không còn giữ giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam thì có thể làm thủ tục xin cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam theo quy định Thông tư liên tịch số 05/2013/TTLT-BTP-BNG-BCA ngày 31/01/2013 sửa đổi, bổ sung điều 13 Thông tư liên tịch số 05/2010/TTLT-BTP-BNG-BCA ngày 01/3/2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam.
+ Trường hợp đã thôi quốc tịch Việt Nam, đã nhập quốc tịch nước ngoài, nếu có nguyện vọng thì được hướng dẫn làm thủ tục xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, trường hợp muốn trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải phải thôi quốc tịch nước ngoài để bảo đảm nguyên tắc một quốc tịch theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Sau khi được cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc được Chủ tịch nước quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, họ sẽ được cấp các giấy tờ tùy thân khác (như Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu...).
- Đối với trẻ em là con những người từ Hàn Quốc, Đài Loan về nước:
Thực hiện theo kết luận số 77-KL/TW ngày 16/12/2013 của Ban Bí thư và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 31/VPCP-QHQT ngày 07/01/2014 của Văn phòng Chính phủ liên quan đến giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, ngày 08/10/2015, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1793/QĐ-BTP về việc ban hành Kế hoạch rà soát, đánh giá việc giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam nhằm rà soát, thống kê, phân loại trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó đề xuất biện pháp, chính sách giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các yêu cầu về quốc tịch, hộ tịch đối với số trẻ em này, bảo đảm quyền khai sinh, quyền có quốc tịch của trẻ em theo quy định của pháp luật và Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Ngày 17/5/2016, Bộ Tư pháp có Công văn số 1585/BTP-HTQTCT gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị giao cho Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Công an tỉnh, thành phố và các Sở có liên quan chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thu thập thông tin, rà soát, phân loại theo nhóm số trẻ em và điền Phiếu thu thập thông tin, đồng thời lập danh sách vào Biểu thông tin tổng hợp.
Trên cơ sở báo cáo kết quả rà soát của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với tổng số 19.080 trẻ em. Bộ Tư pháp đã xây dựng phần mềm và nhập thông tin của 18.459/19.080 trường hợp đủ thông tin (các địa phương đang gửi bổ sung những trường hợp thiếu thông tin để nhập tiếp). Theo kết quả rà soát, số trẻ em trên phần lớn đã được đăng ký khai sinh, xác định quốc tịch (quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước ngoài), còn 2.962 trẻ chưa được đăng ký khai sinh và xác định quốc tịch, chủ yếu là trẻ em là con của người di cư tự do từ Lào, Campuchia, sau khi Bộ Tư pháp có văn bản chỉ đạo đăng ký khai sinh thì cơ bản những trẻ em này đã được đăng ký khai sinh.
Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các địa phương, Bộ Tư pháp đã Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát, đánh giá vấn đề quốc tịch, hộ tịch của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại (theo Văn bản số 2900/VPCP-PL ngày 15/12/2016 của Văn phòng Chính phủ). Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương để thực hiện đăng ký khai sinh cho số trẻ em còn lại.
29. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện: Bộ luật Dân sự để luật nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Trả lời:
Về đề nghị sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật dân sự năm 2015
Thực hiện Quyết định số 243/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành đã và đang triển khai các công việc sau:
- Bộ Tư pháp: Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã tích cực nghiên cứu và đang soạn thảo, xây dựng một số dự thảo nghị định, dự kiến sẽ trình Chính phủ ban hành trong năm 2017, như: Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm; đồng thời, Bộ Tư pháp cũng đang xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật đăng ký tài sản để báo cáo Chính phủ.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Đã tích cực nghiên cứu và đang soạn thảo, xây dựng một số dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
+ Bộ Y tế đang thực hiện xây dựng Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật chuyển đổi giới tính;
+ Bộ Kế hoạch và đầu tư đang xây dựng dự thảo Nghị định về hợp đồng hợp tác (thay thế Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác);
- Tòa án nhân dân tối cao: Đang xây dựng dự thảo các Nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các án lệ trong lĩnh vực dân sự.
Theo Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, các nhiệm vụ nêu trên có thời gian thực hiện trong năm 2016 và 2017. Bộ Tư pháp tin tưởng, với việc xây dựng kịp thời, có chất lượng các văn bản nêu trên sẽ góp phần đưa các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 đi vào cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của cử ti cả nước.
30. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị tổng kết đánh giá tình hình thực hiện và sớm sửa đổi những bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, sớm điều chỉnh các nội dung chưa tương thích giữa hai bộ luật: Luật Phòng, chống ma túy và Luật Xử lý vi phạm hành chính (như về thẩm quyền, quy trình và thủ tịch áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc), hiện nay, các địa phương không áp dụng quy định của Luật Phòng, chống ma túy mà áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Trả lời:
Về việc tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và sớm sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, sớm điều chỉnh các nội dung chưa tương thích giữa Luật xử lý vi phạm hành chính và Luật phòng, chống ma túy
Thực hiện Kế hoạch công tác năm 2017, Bộ Tư pháp đã dự kiến tổ chức tổng kết 05 năm thực hiện Luật. Trên cơ sở kết quả sơ kết, Bộ Tư pháp sẽ báo cáo, đề xuất với Chính phủ các vấn đề có liên quan, kể cả việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác, trong đó có cả Luật phòng, chống ma túy (nếu xét thấy cấn thiết) để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
31. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, tình trạng phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Trung Quốc nói riêng và người nước ngoài nói chung ngày càng có xu hướng gia tăng. Cử tri đề nghị cần quan tâm, có giải pháp kiểm soát vấn đề này.
Trả lời:
Theo số liệu thống kê, từ năm 2011 đến cuối năm 2015, cả nước có khoảng gần 65.000 trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài (trong đó chủ yếu là công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hoặc kết hôn với công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài); riêng năm 2016 cả nước có 16.156 trường hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài (tăng 12,3% so với năm 2015).
Bộ Tư pháp nhận thấy, quyền kết hôn là quyền dân sự, một trong các quyền cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật trong nước công nhận và bảo vệ (Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật hộ tịch…; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ...) cũng đã quy định về quyền này. Luật pháp Việt Nam không quy định hạn chế việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài, chính vì vậy, những giải pháp cần thực hiện không phải nhằm mục đích hạn chế, giảm số lượng trường hợp kết hôn với người nước ngoài mà cần có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, loại bỏ việc kết hôn không lành mạnh, không vì mục đích xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là nâng cao nhận thức của phụ nữ Việt Nam về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Để thực hiện giải pháp trên, Bộ Tư pháp đã và sẽ tiếp tục kiến nghị với Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các giải pháp cụ thể như:
- Chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đối với phụ nữ (đặc biệt đối với phụ nữ có cuộc sống khó khăn), tạo công ăn việc làm, bảo đảm cuộc sống cho những phụ nữ này; tổ chức những cuộc tiếp xúc, trao đổi giữa những người trong độ tuổi kết hôn với những người đã từng là nạn nhân của nạn buôn bán phụ nữ, những người không may đã trải qua hôn nhân với người nước ngoài nhưng không hạnh phúc để có sự cảnh báo chung.
- Tăng cường hơn nữa việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra tại các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong công tác này.
- Tiếp tục xúc tiến, thực hiện việc ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các quốc gia có đông người Việt Nam cư trú, sinh sống.
32. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Tại Khoản 2, Điều 14 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Đây là quy định đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, tránh trường hợp tòa án từ chối nhận đơn hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đối với các vụ án hôn nhân gia đình thì quy định này còn nhiều vướng mắc. Cụ thể, nếu người chồng (vợ) đi nước ngoài và mất tích nhưng gia đình người này không chịu làm tuyên bố mất tích như vậy sẽ khó khăn cho tòa án trong việc thụ lý vụ án. Do vậy, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Luật Hôn nhan và gia đình năm 2014 theo hướng quy định thêm một điều về ly hôn, đó là “nếu người chồng (vợ) có vợ hoặc (chồng) đi công tác nước ngoài mà mất tích hoặc cố tình giấu địa chỉ thì cho phép nguyên đơn được đơn phương ly hôn nếu có căn cứ chứng minh ít nhất ba năm chồng (vợ) không hề liên lạc gì với gia đình”.
Trả lời:
Về đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Bộ Tư pháp cho rằng pháp luật hiện hành đã có những quy định để giải quyết vấn đề cử tri kiến nghị, do vậy, không cần thiết phải sửa quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể, theo kiến nghị của cử tri có 02 trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, người vợ hoặc chồng muốn yêu cầu ly hôn người chồng hoặc vợ bị mất tích, áp dụng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 về tuyên bố mất tích; khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về ly hôn theo yêu cầu của một bên; và Chương XXVI Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích, để giải quyết yêu cầu ly hôn của một bên trong trường hợp người vợ hoặc người chồng mất tích.
Trường hợp thứ hai, người vợ hoặc chồng muốn yêu cầu ly hôn người chồng hoặc vợ đi công tác nước ngoài mà cố tình giấu địa chỉ, tùy tình tiết cụ thể của vụ việc, mà có thể giải quyết ly hôn vắng mặt theo các quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 40 về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu, Điều 207 về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, Điều 227 về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Điều 228 về xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên tòa.
33. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Thực tế hàng loạt các vụ vở hụi gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng, ảnh hưởng lớn đến đời sống của một bộ phận nhân dân và gây mất ổn định trật tự xã hội, trong đó có một số vụ việc có dấu hiện tội phạm “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được thực hiện bằng các thủ đoạn lập hụi khống, lấy tên hụi viên không có thật để lĩnh hụi, bán hụi... nhằm chiếm đoạt tiền của các hụi viên tham gia. Tuy nhiên, khi xử lý những người thực hiện tội phạm lừa đảo thông qua hình thức tổ chức hụi thì chủ yếu là trừng trị bằng hình phạt còn phần trách nhiệm dân sự phải bồi thường cho các bị hại thì hầu như không thực hiện được vì số tiền chiếm đoạt được các chủ hụi đã sử dụng hết và bản thân chủ hụi không có hoặc không đủ tài sản để bồi thường.
Kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét về việc quy định đăng ký kinh doanh, đăng ký tài sản đảm bảo đối với việc tổ chức hụi và nên có giới hạn nhất định trong việc huy động vốn thông qua hình thức tổ chức hụi, tránh tình trạng lập hụi ma, tiền lên đến tiền tỷ... mà Nhà nước không tổ chức quản lý gây ra nhiều vụ Tòa án giải quyết và cuối cùng là những người tham gia trắng tay vì chủ hụi không có tài sản đảm bảo cho hụi.
Trả lời:
Về đăng ký kinh doanh, đăng ký tài sản bảo đảm đối với việc tổ chức hụi
Bộ Tư pháp nhận thấy, Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015 quy định rõ họ, hụi, biêu, phường là hình thức giao dịch áp dụng theo quy định về hợp đồng vay tài sản nên trách nhiệm pháp lý cũng được giải quyết theo quy định về hợp đồng vay.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng kết thực tiễn thi hành Nghị định số 144/2006/NĐ-CP và nhận được nhiều kiến nghị của các cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương, trong đó có kiến nghị cần thắt chặt hơn cơ chế quản lý đối với các giao dịch họ.
Thực hiện Quyết định số 243/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật dân sự năm 2015; tiếp thu kiến nghị của cử tri, Bộ Tư pháp đã tích cực nghiên cứu và đang soạn thảo, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường để trình Chính phủ trong năm 2017, qua đó vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn và vừa hạn chế các hậu quả mà các biến tướng của họ và vừa giữ được bản chất tập quán tốt đẹp vốn có của họ, hụi, biêu, phường.
34. Cử tri tỉnh Phú Thọ, Phú Yên kiến nghị: Cử tri cho rằng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là cầu nối để đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo người dân, giúp nâng cao nhận thức pháp luật, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật hiện nay vẫn còn bị xem nhẹ; có nơi còn trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và bố trí rất ít kinh phí để triển khai các hoạt động tuyên truyền. Cử tri kiến nghị Chính phủ quan tâm tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trả lời:
35. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Công tác theo dõi thi hành pháp luật là một lĩnh vực mới, phức tạp và khó khăn trong quản lý nhà nước, do đó một số lãnh đạo, cán bộ của một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác theo dõi thi hành pháp luật, việc triển khai thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật ở một số cơ quan, đơn vị và địa phương còn lúng túng. Công tác theo dõi thi hành pháp luật đối với ngành, lĩnh vực trọng tâm vẫn còn thụ động, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương; giữa các cơ quan thực hiện chức năng quản lý theo ngành, lĩnh vực với các cơ quan có thẩm quyền chung; giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan hành chính với Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, HĐND các cấp, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan Báo, Đài ở địa phương. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo hướng quy định tiêu chí cụ thể làm căn cứ để đánh giá chính xác mức độ tuân thủ pháp luật, chế tài đủ mạnh để xử lý những vi phạm pháp luật trong thực tiễn và quy định quy chế cho việc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kết quả theo dõi khi phát hiện có sai sót để đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đồng thời, đề nghị Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức và bổ sung biên chế cho các địa phương để bố trí vào công tác theo dõi thi hành pháp luật, khắc phục tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ làm công tác theo dõi thi hành pháp luật tại các địa phương, đảm bảo việc theo dõi thi hành pháp luật hiệu quả.
Trả lời:
1. Về vấn đề giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
Bộ Tư pháp nhận thấy, Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó tại Điều 54 (Giao quyền xử phạt), khoản 2 Điều 87 (Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính), khoản 2 Điều 123 (Tạm giữ người theo thủ tục hành chính); Luật không quy định cụ thể về việc cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Việc cấp trưởng giao quyền cho cấp phó áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính là vấn đề phức tạp và áp dụng nhiều trong thực tiễn.
Trong quá trình triển khai, áp dụng quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, hiện có những cách hiểu và áp dụng khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nói trên, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP(Tờ trình số 65/TTr-BTP ngày 30/12/2016), trong đó đã quy định vấn đề nêu trên theo hướng: Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính thì cũng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định cưỡng chế theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Về việc hoàn chỉnh các quy định pháp luật chung về xử lý vi phạm hành chính; hướng dẫn thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP; tăng cường các lớp tập huấn về kỹ năng sử dụng và tích hợp số liệu xử lý vi phạm hành chính vào cơ sở dữ liệu quốc gia; bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
- Với chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã và đang tổng hợp các phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để báo cáo Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan trong trường hợp cần thiết để bảo đảm thống nhất trong các quy định của pháp luật.
- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định quy trình cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin và khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính (dự thảo Thông tư đã được thẩm định và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đang xem xét để ký ban hành trong thời gian tới).
- Trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) tại các tỉnh Trà Vinh và Quảng Ninh cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại địa bàn một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc vùng Đồng bằng Bắc bộ và miền Tây Nam Bộ (Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp...). Bên cạnh đó, ngày 12/5/2016, Bộ Tư pháp có Công văn số 1526/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL về việc triển khai thực hiện Nghị định số 20/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, chỉ đạo thực hiện một số hoạt động như: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung Nghị định số 20/2016/NĐ-CP đến các đối tượng áp dụng của Nghị định trong phạm vi quản lý của mình; chủ động tổ chức thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính; cử cán bộ tham gia đầy đủ các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp tổ chức… Trong thời gian tới, theo kế hoạch công tác, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổ chức các Hội nghị tập huấn về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có nội dung liên quan đến công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính) để tạo thuận lợi cho các địa phương trong tổ chức thực hiện.
- Để bảo đảm kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng Thông tư quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để ban hành trong thời gian tới.
3. Về việc tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP; đề nghị Bộ Nội vụ ban hành quy định, hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức và bổ sung biên chế làm công tác theo dõi thi hành pháp luật cho các địa phương
Đúng như cử tri đã phản ánh, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật còn một số khó khăn, hạn chế: Hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật ở một số Bộ, ngành, địa phương chưa có nhiều chuyển biến rõ nét, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật... Trong các nguyên nhân của khó khăn, hạn chế nêu trên có nguyên nhân từ thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã triển khai việc xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã triển khai xây dựng Khung theo dõi thi hành pháp luật, trong đó có các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật một các khách quan, chính xác và khoa học.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế về theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp cũng tiếp tục theo dõi, nắm bắt, tổng hợp tình hình tổ chức bộ máy làm công tác theo dõi thi hành pháp luật tại các địa phương để kịp thời có ý kiến với Bộ Nội vụ, qua đó góp phần bảo đảm cho công tác theo dõi thi hành pháp luật được thực hiện hiệu quả.
36. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Kiến nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc ủy quyền Ban Quản lý khu kinh tế xác nhận, chứng thực văn bản bất động sản trong Khu Công nghiệp góp phần nâng cao công tác quản lý về lĩnh vực đất đai, lĩnh vực thế chấp tài sản của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
Trả lời:
Về ban hành văn bản hướng dẫn việc ủy quyền Ban Quản lý khu kinh tế xác nhận, chứng thực văn bản bất động sản
Theo quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 thì: “Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã”. Theo quy định tại khoản 4 Điều 122 Luật nhà ở năm 2015 thì: “Việc công chứng hợp đồng về nhà ở được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng; việc chứng thực hợp đồng về nhà ở được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có nhà ở”. Như vậy, cả Luật đất đai và Luật nhà ở chỉ quy định Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến đất đai, nhà ở, không quy định Ban Quản lý khu kinh tế, Khu công nghiệp có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến đất đai, nhà ở.
Bộ Tư pháp cũng nhận thấy, các khu công nghiệp thường nằm trong địa giới hành chính của một hay giáp ranh một số xã, do vậy những giao dịch liên quan đến bất động sản trong khu công nghiệp có thể thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có khu công nghiệp mà không cần ủy quyền cho Ban Quản lý khu kinh tế xác nhận, chứng thực văn bản về bất động sản.
37. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh việc tổ chức đấu giá đất thời gian qua theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP về đấu giá tài sản đang còn rất bất cập, khi thực hiện đã bị nhiều đối tượng lợi dung kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và công dân thông quan việc tham gia đấu giá (gọi là cò đất). Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến đấu giá đất, không để kẽ hở cho các đối tượng lợi dụng chiếm đoạt tài sản.
Trả lời:
Về đề nghị nghiên cứu, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến đấu giá đất
Bộ Tư pháp nhận thấy, xây dựng trình tự, thủ tục đấu giá tài sản thống nhất, chặt chẽ, qua đó đảm bảo việc tổ chức đấu giá được khách quan, minh bạch, công khai, hạn chế tình trạng tiêu cực, thông đồng, dìm giá, “quân xanh, quân đỏ” trong hoạt động đấu giá tài sản nói chung và đấu giá quyền sử dụng đất nói riêng, tránh tình trạng gây thất thoát tài sản, nhất là tài sản Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản của Luật đấu giá tài sản đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17/11/2016. Nội dung này được thể hiện qua các quy định cụ thể như sau:
- Việc niêm yết, thông báo công khai việc đấu giá tài sản được thực hiện công khai, minh bạch, khách quan, thông tin tài sản đấu giá được cung cấp đầy đủ, trung thực, tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia đấu giá qua đó thu hút nhiều người đăng ký tham gia đấu giá;
- Nâng tỷ lệ tiền đặt trước lên mức phù hợp để hạn chế tình trạng người không có nhu cầu mua tài sản nhưng vẫn đăng ký tham gia đấu giá để trục lợi hoặc gây khó khăn cho cuộc đấu giá, đồng thời thủ tục đăng ký tham gia đấu giá được thực hiện công khai, thuận lợi nhằm tránh tình trạng tổ chức đấu giá cản trở hoặc gây khó khăn cho người đăng ký tham gia đấu giá;
- Trong quá trình tổ chức đấu giá, người có tài sản đấu giá có quyền dừng việc tổ chức đấu giá nếu có hành vi vi phạm trình tự, thủ tục đấu giá, dừng cuộc đấu giá nếu có hành vi thông đồng, móc nối để dìm giá; tại cuộc đấu giá, đấu giá viên có quyền truất quyền tham dự cuộc đấu giá đối với người vi phạm quy chế cuộc đấu giá;
- Quy định rõ ràng, rành mạch hơn, chặt chẽ hơn hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp, bỏ phiếu gián tiếp, đồng thời, bổ sung hình thức đấu giá trực tuyến, qua đó góp phần hạn chế tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, móc nối để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá;
- Bổ sung quy trình đặc biệt áp dụng đối với loại tài sản bắt buộc phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật, trong đó có tài sản Nhà nước, quyền sử dụng đất và tài sản thi hành án.
Bên cạnh đó, để có chế tài xử lý mạnh mẽ hơn đối với hành vi thông đồng, dìm giá trong hoạt động đấu giá tài sản, theo quy định tại Điều 218 của Bộ Luật hình sự (sửa đổi) thì hành vi thông đồng, dìm giá sẽ cấu thành tội phạm thay vì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính như quy định của pháp luật hiện hành.
Như vậy, vấn đề cử tri kiến nghị đã được quy định tại Luật đấu giá tài sản và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Trong thời gian tới đây, triển khai Luật đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiếp tục xây dựng, trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản có liên quan để tổ chức triển khai Luật.
38. Cử tri tỉnh Bình Dương đề nghị: cần xây dựng Bộ luật hình sự nghiêm minh hơn, không nên gạt bỏ hình phạt tử hình với các tội danh như buôn bán ma túy, phản động hay giết người…
Trả lời:
Điều 40 Bộ luật hình sự 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều) đã xác định rõ “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định”.
Để trấn áp và răn đe các loại tội phạm này cần có hệ thống chế tài đủ mạnh, do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đang quy định hình phạt tối đa là tử hình đối với các tội danh như: tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 248), tội giết người (Điều 123) hoặc tội phản bội tổ quốc (Điều 108), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109), tội gián điệp (Điều 110)...
39. Cử tri tỉnh Lào Cai đề nghị: Điều 60, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định việc xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Luật vào thực tiễn còn nhiều khó khăn vướng mắc, đặc biệt là việc định giá các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xác định khung hình phạt. Đề nghị nghiên cứu và có giải pháp để cơ quan công an triển khai thực hiện.
Trả lời:
Khoản 2 và khoản 3 Điều 60 Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định tương đối rõ ràng các căn cứ để xác định giá trị tang vật trong việc áp dụng pháp luật chung. Trong trường hợp không thể áp dụng được các căn cứ trên để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc có thể ra quyết định tạm giữ tang vật vi phạm và thành lập Hội đồng định giá. Hội đồng định giá có đại diện các cơ quan tài chính cùng cấp và đại diện cơ quan chuyên môn có liên quan (tùy từng lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính cụ thể) để tiến hành việc định giá tang vật.
Kiến nghị của cử tri không nêu cụ thể khó khăn, vướng mắc trong việc xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt theo quy định Điều 60 Luật xử lý vi phạm hành chính, do đó, Bộ Tư pháp chưa thể trả lời cụ thể để cử tri được biết. Trường hợp cử tri có khó khăn trong việc thực hiện quy định, đề nghị cử tri liên hệ trực tiếp về Bộ Tư pháp (qua Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật) để Bộ Tư pháp hướng dẫn hoặc phối hợp hướng dẫn thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
40. Cử tri tỉnh Lào Cai đề nghị: Điều 125, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định khi tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản kèm theo biên bản tạm giữ cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm 01 văn bản. Tuy nhiên, trên thực tế, cán bộ, chiến sĩ đang thi hành công vụ phát hiện ra hành vi vi phạm hành chính thuộc các trường hợp phải tạm giữ tang vật, phương tiện nhưng lại không có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ mà chỉ có thẩm quyền lập biên bản. Nếu đưa về cơ quan để báo cáo Trưởng phòng, Trưởng công an cấp huyện là người có thẩm quyền ra quyết định thì có những trường hợp đi làm nhiệm vụ ở xa cơ quan hàng trăm km không thể đưa người và phương tiện vi phạm hành chính về ngay được. Còn nếu chỉ lập biên và và tạm giữ phương tiện thì không đúng với pháp luật. Đề nghị nghiên cứu có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo nội dung này.
Trả lời:
Theo Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính, trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm hành chính, để xác minh tình tiết vi phạm hoặc để đảm bảo thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (đối với trường hợp chỉ phạt tiền) có quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, trên thực tế, quy định trên đã gây khó khăn trong quá trình tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, đúng như ý kiến của cử tri đã nêu. Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của cử tri và sẽ tiếp tục theo dõi, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc, nghiên cứu để báo cáo Chính phủ trong thời gian tới.
Trước mắt, để giải quyết vướng mắc, bất cập, cơ quan, người có thẩm quyền có thể áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 125 Luật xử lý vi phạm hành chính để thực hiện việc tạm giữ tang vật, phương tiện trong quá trình xử lý vi phạm. Theo đó, trong trường hợp có căn cứ để cho rằng nếu không tạm giữ ngay thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tẩu tán, tiêu hủy thì thủ trưởng trực tiếp của chiến sĩ cảnh sát nhân dân, cảnh sát viên cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, công chức hải quan, kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ có thẩm quyền tạm giữ ngay tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ.
41. Cử tri tỉnh Ninh Thuận, Long An và TP Hồ Chí Minh đề nghị: Nhiều ý kiến cử tri cho rằng, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiện nay còn hình thức, chưa thường xuyên, hiệu quả còn hạn chế. Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm, chỉ đạo Bộ Tư pháp và các Bộ ngành liên quan quan tâm, thực hiện tốt hơn nữa công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật.
Trả lời:
Nội dung kiến nghị của cử tri các tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Long An, Ninh Thuận, Thái Bình gửi tới sau Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV cũng là ý kiến của cử tri các tỉnh Phú Thọ và Phú Yên tại Kỳ họp Quốc hội lần này và đã được Bộ Tư pháp trả lời tại Công văn số 321/BTP-VP ngày 06/02/2016. Bộ Tư pháp xin thông tin, cụ thể:
Những năm qua, nhất là sau hơn 03 năm triển khai thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), công tác PBGDPL đã được các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương quan tâm, chú trọng, thiết thực và hiệu quả hơn. Sau mỗi Kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Bộ Tư pháp đều chủ trì hoặc phối hợp tổ chức biên soạn tài liệu tuyên truyền, phổ biến; có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và đề nghị các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương tổ chức quán triệt, phổ biến nội dung cơ bản của luật, pháp lệnh đến cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc phạm vi quản lý và tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân. Hầu hết các luật, pháp lệnh, nghị định mới ban hành đều được đăng tải công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật; Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương. Nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến hiệu quả đã được áp dụng, nhất là qua phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, mạng lưới loa truyền thanh cơ sở, báo chí, Công báo trong tủ sách pháp luật... Vì vậy, mọi người dân, cán bộ, công chức đều dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng các văn bản pháp luật để phục vụ công tác và nhu cầu tìm hiểu, sử dụng pháp luật khi tham gia các quan hệ xã hội. Qua theo dõi, nhiều bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc, chính quyền tăng cường tuyên truyền, PBGDPL cho nhân dân, nhất là quán triệt, phổ biến cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành dưới hình thức Hội nghị trực tuyến.
Tuy nhiên, đúng như cử tri phản ánh, do điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và của nhiều địa phương còn gặp nhiều khó khăn; nhiều địa phương nguồn thu thấp, chưa tự cân đối được ngân sách, trong khi nguồn kinh phí hỗ trợ từ Trung ương rất eo hẹp nên chưa dành nhiều kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả triển khai công tác này. Công tác PBGDPL mới chủ yếu triển khai đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mà chưa đến được với đông đảo người dân, nhất là nhóm đối tượng đặc thù, tại địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tư pháp sẽ chú trọng đổi mới nội dung, hình thức PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương, của đội ngũ Báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác PBGDPL chuyên ngành của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, bảo đảm có sự kết hợp, lồng ghép giữa các nguồn lực; tăng cường các biện pháp đối thoại, tháo gỡ những vướng mắc về chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL.
Bộ Tư pháp đề nghị cử tri tiếp tục quan tâm, tăng cường giám sát việc thực hiện trách nhiệm PBGDPL của chính quyền địa phương, nhất là cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ PBGDPL chuyên ngành và trong thực hiện pháp luật về PBGDPL. Cử tri cần tích cực tự giác, chủ động học tập, tìm hiểu pháp luật và tham gia PBGDPL cho nhân dân; có ý kiến để Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân tăng cường giám sát thực hiện công tác PBGDPL; kiến nghị chính quyền địa phương, các cơ quan có thẩm quyền có giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL phù hợp với đặc thù địa phương và bố trí đủ các điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí, các điều kiện bảo đảm để triển khai thật tốt công tác PBGDPL cho nhân dân.
42. Cử tri tỉnh Thái Bình đề nghị: Đề nghị cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, phát động có hiệu quả hơn phong trào toàn dân đoàn kết đấu tranh phòng chống tội phạm và đặc biệt là các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tội phạm cần hoạt động tích cực, hiệu quả hơn, kịp thời phát hiện ngăn chặn tội phạm, khi bắt được tội phạm cần đưa ra truy tố, xét xử nhanh, kịp thời, nghiêm khắc để làm gương.
Trả lời:
Nội dung kiến nghị của cử tri các tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Long An, Ninh Thuận, Thái Bình gửi tới sau Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV cũng là ý kiến của cử tri các tỉnh Phú Thọ và Phú Yên tại Kỳ họp Quốc hội lần này và đã được Bộ Tư pháp trả lời tại Công văn số 321/BTP-VP ngày 06/02/2016. Bộ Tư pháp xin thông tin, cụ thể:
Những năm qua, nhất là sau hơn 03 năm triển khai thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), công tác PBGDPL đã được các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương quan tâm, chú trọng, thiết thực và hiệu quả hơn. Sau mỗi Kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Bộ Tư pháp đều chủ trì hoặc phối hợp tổ chức biên soạn tài liệu tuyên truyền, phổ biến; có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và đề nghị các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương tổ chức quán triệt, phổ biến nội dung cơ bản của luật, pháp lệnh đến cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc phạm vi quản lý và tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân. Hầu hết các luật, pháp lệnh, nghị định mới ban hành đều được đăng tải công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật; Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương. Nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến hiệu quả đã được áp dụng, nhất là qua phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, mạng lưới loa truyền thanh cơ sở, báo chí, Công báo trong tủ sách pháp luật... Vì vậy, mọi người dân, cán bộ, công chức đều dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng các văn bản pháp luật để phục vụ công tác và nhu cầu tìm hiểu, sử dụng pháp luật khi tham gia các quan hệ xã hội. Qua theo dõi, nhiều bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc, chính quyền tăng cường tuyên truyền, PBGDPL cho nhân dân, nhất là quán triệt, phổ biến cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành dưới hình thức Hội nghị trực tuyến.
Tuy nhiên, đúng như cử tri phản ánh, do điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và của nhiều địa phương còn gặp nhiều khó khăn; nhiều địa phương nguồn thu thấp, chưa tự cân đối được ngân sách, trong khi nguồn kinh phí hỗ trợ từ Trung ương rất eo hẹp nên chưa dành nhiều kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả triển khai công tác này. Công tác PBGDPL mới chủ yếu triển khai đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở mà chưa đến được với đông đảo người dân, nhất là nhóm đối tượng đặc thù, tại địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tư pháp sẽ chú trọng đổi mới nội dung, hình thức PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương, của đội ngũ Báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác PBGDPL chuyên ngành của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, bảo đảm có sự kết hợp, lồng ghép giữa các nguồn lực; tăng cường các biện pháp đối thoại, tháo gỡ những vướng mắc về chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL.
Bộ Tư pháp đề nghị cử tri tiếp tục quan tâm, tăng cường giám sát việc thực hiện trách nhiệm PBGDPL của chính quyền địa phương, nhất là cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ PBGDPL chuyên ngành và trong thực hiện pháp luật về PBGDPL. Cử tri cần tích cực tự giác, chủ động học tập, tìm hiểu pháp luật và tham gia PBGDPL cho nhân dân; có ý kiến để Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân tăng cường giám sát thực hiện công tác PBGDPL; kiến nghị chính quyền địa phương, các cơ quan có thẩm quyền có giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL phù hợp với đặc thù địa phương và bố trí đủ các điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí, các điều kiện bảo đảm để triển khai thật tốt công tác PBGDPL cho nhân dân.
43. Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị: Cử tri phản ánh nội dung văn bản số 1520/HCQTCT-CT ngày 20/03/2014 của Bộ Tư pháp hướng dẫn xác nhận sơ yếu lý lịch chỉ quy định UBND xã, phường, thị trấn xác nhận chữ ký của người khai lý lịch, còn nếu biết rõ về thân nhân người khai lý lịch mới xác nhận nội dung sơ yếu lý lịch. Việc xác nhận tiền án, tiền sự trong lý lịch thì bắt buộc người dân phải liên hệ với Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và phải nộp 200.000 đồng/trường hợp là quá bất tiện đối với người dân. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, tháo gỡ vấn đề này.
Trả lời:
1. Về chứng thực chữ ký trong sơ yếu lý lịch
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch có hiệu lực kể từ ngày 10/4/2015. Do đó, các nội dung hướng dẫn trong Công văn số 1520/HTQTCT-CT của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Bộ Tư pháp) ngày 20/3/2014 không còn phù hợp với các quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
Điều 23 và Điều 24 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản, giấy tờ mà mình ký để yêu cầu chứng thực chữ ký. Do đó, đối với sơ yếu lý lịch UBND xã, phường, thị trấn chỉ chứng thực chữ ký của người khai lý lịch mà không xác nhận nội dung sơ yếu lý lịch (gồm cả vấn đề thân nhân và nhân thân).
2. Việc xác nhận tiền án, tiền sự trong lý lịch tư pháp
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xác nhận tình trạng án tích của cá nhân được thể hiện thông qua Phiếu lý lịch tư pháp (LLTP). Để thực hiện cấp Phiếu LLTP đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải tra cứu, xác minh thông tin LLTP của người được cấp Phiếu. Do đó, việc cấp Phiếu LLTP đòi hỏi phải được giao cho cơ quan có trách nhiệm quản lý LLTP (Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) mà không thể giao cho UBND cấp xã thực hiện như kiến nghị của cử tri.
Để được xác nhận tình trạng án tích, thì người nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam không xác định được nơi thường trú, tạm trú phải làm hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu và nộp tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia; công dân Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở trong nước, công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài và người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam phải làm hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu và nộp tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú, trường hợp không có nơi thường trú thì nộp tại Sở Tư pháp nơi tạm trú. Cá nhân yêu cầu cấp Phiếu phải nộp phí cung cấp thông tin LLTP cho cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu. Mức thu phí được thực hiện theo quy định của Luật phí, lệ phí và Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí cung cấp thông tin LLTP.
Việc cấp Phiếu LLTP hiện nay đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của người dân, phù hợp với thông lệ quốc tế. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cấp Phiếu LLTP và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, thời gian tới, trong quá trình nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật LLTP, Bộ Tư pháp sẽ đề xuất bổ sung các phương thức cấp Phiếu LLTP mới (cấp Phiếu qua dịch vụ bưu chính, trực tuyến); đồng thời đề xuất sửa đổi thẩm quyền cấp Phiếu LLTP theo hướng cá nhân có quyền lựa chọn Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia hoặc bất cứ Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nào để yêu cầu cấp Phiếu LLTP mà không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Đối với mức thu phí cung cấp thông tin, Bộ Tư pháp xin tiếp thu để đề xuất với Bộ Tài chính xem xét, quy định cho phù hợp.
44. Cử tri tỉnh Bắc Kạn đề nghị: Đề nghị tăng nặng hình phạt đối với tội phạm hiếp dâm trẻ em, buôn bán phụ nữ và trẻ em quy định tại Điều 141 đến Điều 146, Điều 150, 151 của Bộ Luật hình sự.
Trả lời:
- Về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều). Cả Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 đều quy định chế tài xử lý rất nghiêm khắc đối với hành vi này, cụ thể: đã quy định hình phạt tối đa là tù chung thân hoặc tử hình.
Trường hợp phạm tội đối với người dưới 10 tuổi, Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt so với Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể, đã quy định hình phạt tối thiểu là từ 20 năm so với từ 12 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (đối với mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13).
- Về tội mua bán phụ nữ quy định tại Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi thành tội mua bán người quy định tại Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015.
So với Bộ luật hình sự năm 1999, mức phạt tù tại các khoản cơ bản và tăng nặng của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với tội danh này đã được tăng lên. Cụ thể: khoản 1, Điều 150 Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt tù lên từ 05 năm đến 10 năm so với từ 02 năm đến 07 năm; khoản 2 tăng hình phạt tù tối thiểu lên 08 năm so với 05 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
- Về tội mua bán trẻ em quy định tại Điều 120 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi thành tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 151 của Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó, mức phạt tù tối thiểu của tội này đã được nâng lên từ 07 năm so với từ 03 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
45. Cử tri tỉnh Tiền Giang đề nghị: Đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự quy định về việc chịu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có các hành vi phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xử lý thật nghiêm để tạo tính răn đe và phòng ngừa chung. Bởi, hiện nay tình trạng tội phạm ở tuổi vị thành niên đang gia tăng và diễn biến rất phức tạp, có xu hướng tăng nhanh trong thời gian gần đây.
Trả lời:
Nội dung kiến nghị của cử tri cũng là ý kiến của cử tri thành phố Hồ Chí Minh gửi đến tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV và đã được Bộ Tư pháp trả lời tại Công văn số 321/BTP-VP ngày 06/02/2017. Bộ Tư pháp xin thông tin, cụ thể:
Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là một trong những chính sách quan trọng của Bộ luật hình sự năm 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) trên tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có người chưa thành niên phạm tội. Chủ trương nhân đạo hóa đối với người chưa thành niên đã có sự thống nhất cao của Chính phủ, cũng như trong quá trình xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, ý kiến nhân dân trước khi Bộ luật hình sự 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng nhận thấy, giáo dục, phòng ngừa vi phạm pháp luật hình sự ở lứa tuổi người chưa thành niên không thể chỉ dựa vào việc tăng nặng hình phạt mà cần phải có sự kết hợp đồng bộ các biện pháp như giáo dục ý thức cho bản thân người chưa thành niên và gia đình họ, lành mạnh hóa môi trường sống của người chưa thành niên, tạo điều kiện cho người chưa thành niên học tập, giải trí và lao động… Do đó, việc xem xét tăng mức hình phạt với các trường hợp người dưới 18 tuổi khi phạm pháp trọng án nghiêm trọng là chưa phù hợp với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta.
46. Cử tri tỉnh Ninh Thuận đề nghị: Theo quy định của pháp luật về hình sự, đối với các tội danh đặc biệt nghiêm trọng đến mức phải tuyên hình phạt tử hình thì người bị tuyên án ngoài việc chịu trách nhiệm về hình sự còn phải chịu trách nhiệm về dân sự cho người thiệt hại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu hết các vụ án khi bị cáo đã bị tuyên án tử hình thì bị hại rất ít khi nhận được bồi thường về dân sự, từ đó gây nhiều thiệt thòi cho người bị hại. Cử tri kiến nghị cần phải xem xét, quy định lại nội dung trên theo hướng cụ thể hơn để bảo đảm quyền lợi về dân sự cho người bị hại.
Trả lời:
Trong các vụ án mà người phạm tội gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại thì bên cạnh việc chịu trách nhiệm về hình sự, người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Quy định này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại và việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được coi là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, thường được giải quyết cùng với việc giải quyết vụ án hình sự.
Để bảo đảm thực thi các quyết định dân sự trong vụ án hình sự, Luật thi hành án dân sự đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh các quy định này thì các cơ quan tiến hành tố tụng (như Công an, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân) trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải có trách nhiệm áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo cho việc thi hành án dân sự sau này.
Theo quy định của Luật thi hành án dân sự, trong trường hợp đương sự bị thi hành án tử hình nhưng vẫn còn tài sản, thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn tiến hành kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án phần trách nhiệm dân sự.
47. Cử tri tỉnh Tiền Giang, Bắc Kạn và TP Hồ Chí Minh đề nghị: nghiên cứu xem xét sửa đổi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo hướng không sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện chi trả bồi thường oan sai. Bởi, mặt dù oan sai được gây ra từ lỗi khách quan của tổ chức, cá nhân thừa hành công vụ, song ít nhiều cũng có ý chí chủ quan của họ trong đó, mà chính ý chí chủ quan này là nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng pháp luật lỏng lẻo, chưa chặt chẽ gây thiệt hại đến người bị oan sai và gia đình của họ nên không thể sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chi này, gây tổn hại đến lợi ít chung của đất nước.
Trả lời:
Bộ Tư pháp nhận thấy, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được quy định tại Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành cũng đã quy định trách nhiệm bồi thường do người thi hành công vụ vi phạm là trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Sau khi Nhà nước bồi thường thiệt hại thì người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả cho Nhà nước một khoản tiền tùy theo mức độ lỗi của họ.
Theo thông lệ quốc tế, tất cả các nước có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đều quy định kinh phí bồi thường do người thi hành công vụ vi phạm gây thiệt hại được lấy từ ngân sách Nhà nước.
Mặt khác, để đảm bảo trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân trên cơ sở thực hiện nguyên tắc kịp thời thì chỉ có ngân sách Nhà nước mới đảm bảo, khả năng bồi thường theo quy định của pháp luật mới được thực thi. Nếu quy định buộc người thi hành công vụ vi phạm pháp luật gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, ngay lập tức không phụ thuộc lỗi, thì với quy định về thu nhập, lương của cán bộ, công chức nước ta hiện nay sẽ không đảm bảo được việt bồi thường; khi đó không thể thực hiện được vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước.
Quá trình thực thi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Bộ Tư pháp cũng nhận thấy còn một số tồn tại như: mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại còn ít so với khoản tiền bồi thường mà ngân sách Nhà nước phải bỏ ra... Trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến đối với dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 2, trong đó tiếp tục quy định trách nhiệm bồi thường do người thi hành công vụ vi phạm là trách nhiệm thuộc về Nhà nước.
Đối với quy định thực hiện trách nhiệm hoàn trả, dự thảo Luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức hoàn trả. Theo đó, trong từng trường hợp cụ thể, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền từ 01 - 50 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả. Ngoài ra, người thi hành công vụ gây thiệt hại phải hoàn trả 01 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả. Đặc biệt, trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội, thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
Như vậy, việc Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành và dự thảo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) quy định sử dụng ngân sách Nhà nước là nguồn kinh phí thực hiện chi trả tiền bồi thường là phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, thông lệ quốc tế cũng như thực tế của đất nước.
48. Cử tri tỉnh An Giang đề nghị: Tình trạng lứa tuổi vị thành niên hiện nay vi phạm pháp luật ngày một tăng, để ngăn ngừa hạn chế tình trạng này, đề nghị Pháp luật nên quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp luật là 16 tuổi (hiện nay là 18 tuổi).
Trả lời:
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Qua tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, nghiên cứu pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới và căn cứ vào điều kiện thực tế của nước ta, Bộ luật hình sự năm 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều) đã giữ nguyên độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể: Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại 28 tội danh cụ thể của Bộ luật.
Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 đều đã quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên mà không phải là 16 tuổi như kiến nghị của cử tri.
49. Cử tri thành phố Cần Thơ đề nghị: Góp ý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13: Cử tri kiến nghị cần nghiên cứu và quy định chính sách hình sự theo hướng tăng chế tài, hình phạt xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy; trộm, cướp tài sản; buôn bán hóa chất cấm, sản xuất thực phẩm bẩn và xả chất thải gây hại nghiêm trọng đến môi trường, tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân.
Trả lời:
- Đối với các tội phạm về ma túy: Bộ luật hình sự năm 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều) đã quy định chế tài rất nghiêm khắc với 13 tội danh, cụ thể:
Có 03 tội danh quy định hình phạt cao nhất là tử hình: (i) tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); (ii) tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); (iii) tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251).
Có 06 tội danh quy định hình phạt cao nhất là chung thân: (i) tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); (ii) tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); (iii) tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253); (iv) tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 255); (v) tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 257); (vi) tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 258).
Có 04 tội danh quy định hình phạt tù có thời hạn với mức cao, có những tội quy định hình phạt tù cao nhất là 10 năm, 15 năm: (i) tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247); (ii) tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 254); (iii) tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 256); (iv) tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần (Điều 259).
Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 đang đề suất sửa đổi, bổ sung các tội phạm về ma túy theo hướng: bổ sung chất ma túy, cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện trong thời gian qua (chất XLR-11 và lá cây Khat) vào cấu thành tội phạm và bổ sung quy định mang tính bao quát, lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây khác có chứa chất ma túy thuộc danh mục do Chính phủ ban hành, vào điều, khoản, điểm có liên quan để bao quát các trường hợp phạm tội.
- Đối với các tội: tội cướp tài sản (Điều 168); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 317), Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã quy định rất nghiêm khắc. Cụ thể: Tội cướp tài sản quy định hình phạt cao nhất có thể áp dụng là chung thân. Đây là hình phạt rất nghiêm khắc chỉ đứng sau hình phạt tử hình. Đối với tội trộm cắp tài sản; tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm quy định hình phạt cao nhất có thể áp dụng là 20 năm tù, là mức cao nhất của hình phạt tù có thời hạn.
- Đối với tội gây ô nhiễm môi trường: Hiện nay, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 đang đề xuất sửa đổi, bổ sung hướng hạ mức định lượng gây ô nhiễm.
Như vậy, có thể nhận thấy, các điều luật áp dụng đối với các tội phạm về ma túy; cướp, trộm cắp tài sản; vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; gây ô nhiễm môi trường đã và đang được sửa đổi theo hướng tăng nặng và mở rộng phạm xử lý.
50. Cử tri thành phố Đà Nẵng đề nghị: vừa qua nhiều vụ án oan sai xảy ra buộc phải thực hiện bồi thường nhà nước với số tiền rất lớn. Cử tri đề nghị cho biết nguồn gốc của số tiền bồi thường này từ đâu và việc bồi hoàn của người thi hành công vụ gây oan sai như thế nào. Đồng thời, đề nghị xem xét, xử lý nghiêm những người đã gây oan sai, công khai cho nhân dân được biết.
Trả lời:
Về nguồn gốc tiền bồi thường và việc bồi hoàn của người thi hành công vụ gây oan sai; xử lý, công khai người đã gây oan sai
- Đúng như cử tri phản ánh, thời gian gần đây xảy ra một số vụ án oan với số tiền phải bồi thường rất lớn như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn, vụ ông Huỳnh Văn Nén... Theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành thì số tiền bồi thường trong các vụ việc trên do ngân sách Nhà nước chi trả; đồng thời Luật cũng đã quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi hoàn cho Nhà nước khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại tùy thuộc vào mức độ lỗi của họ theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Mức hoàn trả được xác định cụ thể tại Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Sau hơn 06 năm thi hành, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, trong đó có việc xác định mức hoàn trả. Trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến đối với dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 2, trong đó, các quy định thực hiện trách nhiệm hoàn trả đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức hoàn trả. Theo đó, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại cho ngân sách nhà nước một khoản tiền từ 01 - 50 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả. Ngoài ra, người thi hành công vụ gây thiệt hại phải hoàn trả 01 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả. Đặc biệt, trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội, thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
- Ngoài trách nhiệm hoàn trả theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại còn có thể bị xem xét xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Luật cán bộ, công chức và Bộ luật hình sự. Trên thực tế, đa số các trường hợp khi cán bộ, công chức có hành vi trái pháp luật làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều tiến hành việc xem xét trách nhiệm hoàn trả và xử lý kỷ luật đối với họ. Tuy nhiên, việc công khai những thông tin liên quan đến xem xét trách nhiệm hoàn trả và xử lý kỷ luật cán bộ, công chức lên phương tiện thông tin đại chúng chưa được pháp luật quy định. Trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi), Bộ Tư pháp sẽ báo cáo các cơ quan có thẩm quyền về nội dung nêu trên để xem xét, quyết định tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV.
51. Cử tri thành phố Đà Nẵng đề nghị: Thời gian qua, hành vi xâm phạm tình dục đối với trẻ em, phụ nữ ngày càng gia tăng; tuy nhiên, việc xử phạt còn nhẹ. Cử tri đề nghị xem xét tăng chế tài xử phạt để ngăn chặn, hạn chế tình trạng này.
Trả lời:
Về xem xét tăng chế tài xử phạt để ngăn chặn, hạn chế tình trạng xâm phạm tình dục đối với trẻ em, phụ nữ
Bộ luật hình sự năm 2015 (được lùi hiệu lực thi hành theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; hiện đang được sửa đổi, bổ sung một số điều) đã quy định chế tài xử lý rất nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại tình dục với 06 tội danh. Trong đó: có 01 tội danh quy định hình phạt cao nhất là tử hình: tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); có 02 tội danh quy định hình phạt cao nhất là chung thân: (i) tội hiếp dâm (Điều 141); tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); có 03 tội danh quy định hình phạt tù có thời hạn với mức cao, có những tội quy định hình phạt tù cao nhất là 10 năm, 15 năm: (i) tội cưỡng dâm (Điều 143); (ii) tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145) và (iii) tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146).
Đối với một số tội danh cụ thể, Bộ luật hình sự năm 2015 đã tăng hình phạt so với Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể, trường hợp phạm tội đối với người dưới 10 tuổi, Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định hình phạt tối thiểu là 20 năm so với 12 năm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (đối với mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13).
52. Cử tri tỉnh Bình Thuận đề nghị: Đề nghị sửa đổi Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ và Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định việc đăng ký hộ tịch, khai sinh khi bị mất bản chính thì không được cấp lại, chỉ cấp lại bản sao. Đề nghị cấp lại bản chính giấy khai sinh như trước đây.
Trả lời:
Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc, có ý nghĩa quan trọng, nên mỗi cá nhân có trách nhiệm bảo quản và giữ gìn để sử dụng sau này.
Trước đây, do yếu tố lịch sử (hệ quả của chiến tranh, thiên tai nên người dân không bảo quản được Giấy khai sinh) nên Nghị định số 158/2005/NĐ-CP có quy định thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh để tạo thuận lợi cho người dân có được giấy tờ hộ tịch quan trọng này. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định trên cũng đã tạo ra tâm lý không coi trọng, giữ gìn Giấy khai sinh (vì cho rằng mất sẽ được cấp lại), nhiều trường hợp xin cấp lại nhiều lần, có trường hợp không mất cũng xin cấp lại, dẫn đến việc một người có nhiều Giấy khai sinh.
Mặt khác, theo quy định của Luật hộ tịch, sau khi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc được đưa vào vận hành thì người dân có thể làm thủ tục cấp Trích lục khai sinh (bản sao) ở bất kỳ cơ quan đăng ký hộ tịch nào và thời gian giải quyết sẽ được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi. Do vậy, để khẳng định giá trị của Giấy khai sinh, nâng cao ý thức của người dân đối với giấy tờ hộ tịch, hạn chế các tồn tại trong việc cấp, quản lý, sử dụng Giấy khai sinh, Luật hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch đã không quy định thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh.
53. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh đề nghị: Cử tri đề nghị sửa đổi pháp luật hành chính theo hướng quy định thêm việc xử lý đối với cán bộ, công chức khi vi phạm các quy định về trễ hạn hỗ sơ đối với người dân.
Trả lời:
Hiện nay, liên quan đến lĩnh vực cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ là cơ quan giúp Chính phủ tổ chức thực hiện Luật cán bộ, công chức, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Về vấn đề kiến nghị của cử tri, Bộ Tư pháp nhận thấy Luật cán bộ, công chức đã quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ như: Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao (khoản 1 Điều 9); những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ: Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công (khoản 1 Điều 18); các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức (Điều 78, Điều 79). Nghị định số 34/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định về việc áp dụng hình thức kỷ luật (từ Điều 8 đến Điều 14).
Về phía Bộ Tư pháp, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ rà soát các quy định của pháp luật để đề xuất với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nếu thấy cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
54. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh đề nghị: tiếp tục giữ hình phạt tử hình đối với tội cướp giật và tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh nhằm mang tính răn đe.
Trả lời:
Nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung, quyền sống nói riêng theo Hiến pháp 2013 và yêu cầu tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về giảm hình phạt tử hình; kế thừa thực tiễn lập pháp, thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình trong thời gian qua, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình ở 08 tội danh: (1) cướp tài sản; (2) sản xuất, buôn bán hàng cấm là lương thực, thực phẩm; (3) tàng trữ trái phép chất ma túy; (4) chiếm đoạt chất ma túy; (5) phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; (6) chống mệnh lệnh; (7) đầu hàng địch; (8) tội hoạt động phỉ (do bỏ tội danh này). Đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với các tội danh trên là kết quả của quá trình nghiên cứu, đánh giá về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, xuất phát từ tính chất nguy hiểm của hành vi và thực tiễn xử lý tội phạm. Việc bỏ hình phạt tử hình đối với 08 tội danh này cũng đã được báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị.
[1] Năm 2016, Bộ Tư pháp đã kiểm tra 3.034 văn bản; phát hiện và ra thông báo/kết luận kiểm tra đối với 124 văn bản do các Bộ,cơ quan ngang Bộ và địa phương ban hành trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền.
[2] Năm 2016, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định công bố 27 văn bản hết hiệu lực toàn bộ, 21 văn bản hết hiệu lực một phần trong năm 2015.