1. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri kiến nghị hiện nay chất lượng của các công trình đường giao thông là không đảm bảo, không đúng quy chuẩn theo quy định dẫn tới tình trạng hỏng khi đưa vào sử dụng trong thời gian rất ngắn, đề nghị cơ quan chức năng khẩn trương khắc phục tình trạng trên
Trả lời: (Tại Công văn số 15549/BGTVT- CQLXD ngày 27/12/2016)
Trong những năm qua, vấn đề nâng cao chất lượng các công trình giao thông luôn được Bộ GTVT đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Thực tế thời gian gần đây, hầu hết các dự án, công trình giao thông đều thi công đúng quy trình, đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, ở một vài dự án còn có một số hạng mục chất lượng thi công chưa được như mong muốn do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Nhận biết được vấn đề này, Bộ GTVT đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao các công đoạn quản lý chất lượng công trình như: Phân định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể tham gia xây dựng công trình; tổ chức đánh giá xếp hạng năng lực tổ chức tư vấn, nhà thầu, chủ đầu tư; xây dựng quy chế về hoạt động của tư vấn giám sát; xây dựng quy định về hành vi vi phạm và hình thức xử lý trong quản lý chất lượng công trình; tăng thời gian bảo hành công trình; đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị tư vấn giám sát tăng cường lực lượng giám sát trên công trường để đảm bảo công tác triển khai dự án tuân thủ đúng quy trình, tiêu chuẩn. Bộ GTVT cũng đã xây dựng quy chế và có Quyết định số 1748/QĐ-BGTVT ngày 25/7/2012 gửi UBND, đoàn Đại biểu quốc hội các tỉnh phối hợp trong việc giám sát quá trình triển khai các công trình giao thông để đảm bảo tiến độ, chất lượng…
Công tác tổ chức thi công công trình giao thông thực tế còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vướng mắc GPMB dẫn đến công tác thi công còn tình trạng xôi đỗ, ngắt quãng; nhiều đoạn tuyến được hoàn thành khai thác trong khi các đoạn tuyến khác vẫn chưa được thi công nên thời gian bảo hành, thời gian khai thác thực tế lớn hơn so với thời gian tính từ khi chính thức bàn giao và ít nhiều ảnh hưởng đến công tác quản lý chất lượng, mỹ quan, vệ sinh môi trường, tạo hình ảnh không tốt.
Thời gian tới, Bộ GTVT cũng sẽ tiếp tục yêu cầu các chủ thể tăng cường công tác quản lý chất lượng công trình chuyên nghiệp hơn, phân định rõ trách nhiệm để nâng cao chất lượng công trình. Đồng thời phối hợp với các bộ ngành liên quan để cập nhật, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn, văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở thực hiện.
Bộ GTVT trân trọng cảm ơn những ý kiến đóng góp và sự quan tâm của cử tri tỉnh Lang Sơn. Bộ GTVT mong nhận được sự phối hợp chặt chẽ của Đoàn ĐBQH, HĐND, UBND và nhân dân tỉnh Lạng Sơn trong việc triển khai các Dự án trên địa bàn tỉnh.
2. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị quan tâm xây dựng tuyến đường Nguyễn Tất Thành kéo dài đoạn từ nút giao với đường Hùng Vương, Quốc lộ 2 đến Khu di tích lịch sử Đền Hùng kết nối với đường Phù Đổng và nút IC7 đường Nội bài – Lào Cai; Tuyến đường từ nút giao IC8 của đường cao tốc đến Trung tâm lễ hội Khu di tích lịch sử Đền Hùng, thị trấn Phong Châu và thành phố Việt Trì.
Trả lời: (Tại Công văn số 1254/BGTVT-KHDT ngày 9/2/2017 )
Tuyến đường Nguyễn Tất Thành kéo dài đoạn từ nút giao với đường Hùng Vương (QL.2) đến Khu di tích lịch sử Đền Hùng kết nối với đường Phù Đổng và nút IC7 đường Nội Bài - Lào Cai, dài khoảng 4,2km và đoạn tuyến từ nút giao IC8 đến sân hành lễ (Khu di tích lịch sử Đền Hùng), dài khoảng 4km là công trình giao thông do UBND tỉnh Phú Thọ quản lý, đầu tư.
Việc đầu tư, nâng cấp các tuyến đường trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi để người dân, phương tiện lưu thông kết nối từ đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai và QL.2 đến khu di tích Đền Hùng, giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông trong khu vực, đặc biệt trong mùa lễ hội. Vì vậy, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư nâng cấp các công trình nêu trên và đề nghị UBND tỉnh Phú Thọ chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để nghiên cứu đầu tư các công trình trên và thông báo đến cử tri tỉnh Phú Thọ được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.
Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ chuyển ý kiến trên đến cử tri. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Phú Thọ để giải quyết các vấn đề liên quan./.
Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ chuyển ý kiến trên đến cử tri. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Phú Thọ để giải quyết các vấn đề liên quan./.
3. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Hiện nay Bộ GTVT đang triển khai các dự án nâng cấp, mở rộng các tuyến quốc lộ 20, 27 đi qua địa phận tỉnh Lâm Đồng, cử tri đề nghị Bộ GTVT tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, nâng cao chất lượng công trình, kịp thời điều chỉnh những đoạn, tuyến mà hệ thống cấp thoát nước không phù hợp…
Trả lời: (Tại Công văn số 947/BGTVT- QLXD ngày 24/1/2017 )
1- Đối với dự án khôi phục, cải tạo QL20 đoạn Km123+105 ÷ Km268:
- Trong quá trình triển khai dự án, Bộ GTVT thường xuyên, quyết liệt chỉ đạo Nhà đầu tư, các cơ quan liên quan thực hiện nghiêm túc công tác quản lý chất lượng công trình, tiến độ thi công công trình.
Mặc dù bị ảnh hưởng biến đổi khí hậu, mùa mưa 2016 kéo dài bất thường (mưa kéo dài đến cuối tháng 11/2016 và tháng 12 vẫn còn xảy ra mưa rải rác), nhưng đơn vị thi công đã chủ động tập trung thi công, đến nay đã cơ bản thi công hoàn thành khối lượng công trình được duyệt theo đúng kế hoạch (hoàn thành dự án vào cuối năm 2016).
- Để nâng cao hiệu quả dự án, Bộ GTVT đã chỉ đạo rà soát, bổ sung hệ thống thoát nước, đường lánh nạn, kiên cố hóa mái ta luy có nguy cơ sụt trượt trên đèo Prenn, đèo Dran… và chỉ đạo tập trung thi công hoàn thành những khối lượng bổ sung trong Quý 1/2017.
- Đối với hệ thống thoát nước, Bộ GTVT luôn quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan của địa phương rà soát, điều chỉnh bổ sung hệ thống thoát nước cho phù hợp với điều kiện thực tế (bổ sung hệ thống thoát nước đoạn qua thị trấn Di Linh, đoạn qua khu đông dân cư, cải tạo cửa xả…).
Tuy nhiên, hiện một số kênh mương cũ của hạ lưu cống, cửa xả còn bị các công trình nhà dân lấn chiếm chưa được giải tỏa triệt để, đặc biệt một số hộ dân cản trở không cho thi công cải tạo mương dẫn, cửa xả cũ.
Do vậy, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh lâm Đồng có ý kiến với các cơ quan chức năng ở địa phương tăng cường công tác quản lý xây dựng, khẩn trương giải tỏa các công trình lấn chiếm và khơi thông dòng chảy để đảm bảo khả năng thoát nước. Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp với địa phương rà soát, khơi thông dòng chảy kênh mương để đảm bảo thoát nước trên Quốc lộ 20.
2- Đối với dự án nâng cấp, mở rộng QL27 đoạn qua tỉnh Lâm Đồng đã thi công hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2012 đảm bảo chất lượng công trình.
4. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Đề nghị Bộ GTVT cho mở tuyến đường nối quốc lộ 27 qua xã Đạ Long huyện Đam Rông với đường Đông Trường Sơn, qua xã Đơng K’Nơh, huyện Lạc Dương.
Trả lời: (Tại Công văn số 36/BGTVT-KHĐT ngày 4/1/2017 )
1. Về tuyến đường nối Quốc lộ 27 qua xã Đạ Long, huyện Đam Rông với đường Đông Trường Sơn, qua xã Đơng K’Nơh, huyện Lạc Dương:
Tuyến đường nối Quốc lộ 27 qua xã Đạ Long, huyện Đam Rông với đường Đông Trường Sơn, qua xã Đơng K’Nơh, huyện Lạc Dương được đầu tư sẽ tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương, phát huy hiệu quả của Trường Sơn Đông. Vì vậy, việc sớm đầu tư xây dựng cầu Vĩnh Ninh là cần thiết.
Theo quy định tại Luật Ngân sách đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho tuyến đường nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét để được hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng chuyển các ý kiến nêu trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Lâm Đồng để giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn./.
5. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông cấp vốn để xây dựng cầu Vĩnh Ninh, huyện Cát Tiên để hoàn thiện tuyến đường ĐT721, tạo điều kiện giao thông thuận lợi giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, thúc đẩy kinh tế địa phương của hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, thúc đẩy kinh tế địa phương của hai tỉnh. Tổng mức đầu tư dự toán khoảng: 80.399.000.000 đồng.
Trả lời: (Tại Công văn số 36/BGTVT-KHĐT ngày )
Về tuyến đường ĐT.721:
Cầu Vĩnh Ninh, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng thuộc tuyến đường ĐT.721 được đầu tư xây dựng sẽ kết nối hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, tạo điều kiện lưu thông thuận lợi và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của hai tỉnh. Vì vậy, việc sớm đầu tư xây dựng cầu Vĩnh Ninh là rất cần thiết, Bộ GTVT thống nhất ủng hộ.
Theo quy định tại Luật Ngân sách đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho tuyến đường ĐT.721 (trong đó bao gồm cầu Vĩnh Ninh) nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng phối hợp với UBND tỉnh Bình Phước chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét để được hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
6. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Đối với đường cao tốc Giầu Dây – Liên Khương, đề nghị Chính phủ, Bộ GTVT cho xúc tiến đầu tư toàn tuyến để khai thác hiệu quả hơn; về giải phóng mặt bằng đoạn Tân Phú – Bảo Lộc – Liên Khương, đề nghị Bộ KHĐT, Bộ GTVT bố trí cho Lâm Đồng 3000 tỷ đồng để triển khai trước.
Trả lời: (Tại Công văn số 15432/BGTVT-ĐTCT ngày 26/12/2016 )
Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 13220/BGTVT-KHĐT ngày 08/11/2016 về việc giải quyết một số kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng, trong đó đã có ý kiến về nội dung kiến nghị nêu trên.
Xác định được tầm quan trọng của việc đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Dầu Giây - Liên Khương nhằm từng bước hoàn thiện mạng lưới đường cao tốc khu vực phía Nam; đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng cao, rút ngắn thời gian đi lại và giảm ùn tắc, tai nạn giao thông trên QL20, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Lâm Đồng nói riêng và cả nước nói chung, tuy nhiên, do toàn tuyến có tổng mức đầu tư lớn cần phải có sự hỗ trợ từ các nguồn vốn khác (NSNN, ODA,..) Bộ GTVT đã nghiên cứu và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án đầu tư và đã được Chính phủ đồng ý phân đoạn và phân kỳ Dự án.
Tuy nhiên, do dự án có tổng mức đầu tư lớn nên cần sử dụng các nguồn vốn (PPP, NSNN, ODA,..), đồng thời để phù hợp với phương án đầu tư và khả năng hoàn vốn dự án, Bộ Giao thông vận tải đã có Quyết định số 2357/QĐ-BGTVT ngày 29/7/2016 phê duyệt đề xuất dự án đoạn Dầu Giây - Tân Phú theo hình thức hợp đồng BOT và thực hiện Công bố danh mục dự án đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đối với các Dự án thành phần còn lại (đoạn Tân Phú - Bảo Lộc - Liên Khương): Bộ Giao thông vận tải đang nghiên cứu đầu tư đoạn Bảo Lộc - Liên Khương theo hình thức hợp đồng BOT (có hỗ trợ Ngân sách Nhà nước) tổng mức đầu tư dự kiến 13.336 tỷ đồng và đoạn Tân Phú - Bảo Lộc từ nguồn vốn vay ODA với tổng mức đầu tư dự kiến là 15.382 tỷ đồng. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, làm việc với các nhà tài trợ, tư vấn giao dịch để tìm kiếm nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư dự án đảm bảo phù hợp các quy định Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách.
Về công tác GPMB đoạn Tân Phú - Bảo Lộc - Liên Khương: Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 1907/BGTVT-KHĐT ngày 24/02/2016 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính dự kiến bố trí kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 (ưu tiên GPMB với kinh phí khoảng 630 tỷ đồng), tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, nguồn vốn dự kiến cho kế hoạch 2016 - 2020 rất khó khăn chưa thể bố trí cho dự án. Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành trong việc bố trí nguồn vốn cho dự án phù hợp quy định.
7. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Trên tuyến quốc lộ 20 hiện đang thi công nhưng không đồng bộ, có một số cầu xuống cấp chưa được thi công mới, thiếu đường lánh nạn tại các đèo Preen, D’ran, Bảo lộc; để đảm bảo khai thác hiệu quả khi hoàn thành dự án, đề nghị Bộ GTVT sử dụng phần kinh phí kết dư quốc lộ này để thực hiện các hạng mục công trình nêu trên.
Trả lời: (Tại Công văn số 1027/BGTVT-ĐTCT ngày 25/1/2017)
Quốc lộ 20 đoạn Km 123-Km 268 (Bảo Lộc – Lâm Đồng ) được Chính phủ giao Bộ GTVT thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT kết hợp BT. Hợp phần BOT thực hiện từ Km 123- Km 154 đã hoàn thành và đi vào vận hành khai thác. Cuối năm 2016, Hội đồng kiểm tra rà soát các cầu cũ trên tuyến của Bộ GTVT đã thị sát các cầu cũ trên QL20 và xác định hiện có 14 cầu cần phải làm mới và sửa chữa (Cầu Minh Rồng Km125+120; Cầu Đại Nga Km129+500; Cầu Đinh Trang Hòa Km139+300; Cầu Liên Đầm Km149+300; Cầu Darle Km177+700; Cầu Hiệp Thuận Km183+400; Cầu Đại Ninh Km189+100; Cầu Xóm Trung Km194+900; Cầu Định An Km2156+990; Cầu Suối Đục Km 251+335; Cầu Đất Km254+430; Cầu Treo Km262+500; Cầu Xéo Km263+110). Đến nay, Bộ GTVT đã chỉ đạo Nhà đầu tư và các cơ quan liên quan xây dựng phương án cụ thể và sẽ phê duyệt bổ sung vào dự án việc sửa chữa cải tạo các cầu nói trên theo đúng quy định.
Đối với Đèo Prenn trên QL20 đoạn Km222+800 đến Km233+900, Ngày 26/12/2016 Bộ GTVT đã có quyết định 4155/QĐ-BGTVT chuyển đổi đoạn tuyến này thành đường địa phương và chuyển đoạn đường Mimosa từ Km0-Km10+878 thành đường quốc lộ 20, do vậy các nội dung về cải tạo công trình giao thông trên đèo Prenn thuộc trách nhiệm của UBND tỉnh Lâm Đồng. Đối với đoạn đường đèo Mimosa đã được Bộ GTVT chỉ đạo Nhà đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi bổ sung tuyến vào dự án QL20 thực hiện bằng nguồn vốn BT (theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ tại văn bản số 2104/TTg-KTN ngày 23/11/2016). Dự kiến nội dung này sẽ được hoàn tất thủ tục và ký hợp đồng bổ sung với NĐT trong quý I/2017 để triển khai. Bộ GTVT xin ghi nhận các nội dung được đề cập về đường lánh nạn trên đèo Dran, đèo Bảo Lộc và sẽ chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát để bổ sung cập nhật vào dự án nhằm đảm bảo khai thác tốt hơn khi dự án hoàn thành.
8. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị:Cử tri kiến nghị Bộ trong việc nâng cấp đường giao thông phải theo quy hoạch, tránh tình trạng cốt nền không đồng bộ, dẫn đến tình trạng ngập úng tại các địa phương hiện nay.
Trả lời: (Tại Công văn số 441/BGTVT-QLXD ngày 13/1/2017 )
Theo quy định khi đầu tư các dự án nói chung cũng như dự án, công trình giao thông nói riêng phải tuân thủ quy hoạch, cao độ quy hoạch của địa phương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trong quá trình lập hồ sơ thiết kế dự án, công trình giao thông, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phải tuân thủ đúng theo quy hoạch, thỏa thuận với các cơ quan chức năng địa phương về cao độ quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt để đưa ra phương án thiết kế cho phù hợp.
Đồng thời, Bộ GTVT đã yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan trong quá trình triển khai dự án căn cứ điều kiện thực tế, thường xuyên rà soát phương án thiết kế để kịp thời đưa ra các biện pháp khắc phục (điều chỉnh đường đỏ, bổ sung hệ thống thoát nước, …) nhằm giảm thiểu tối đa ảnh hưởng khi gặp các trường hợp nêu trên.
9. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải cho phép nâng cấp xây dựng tuyến đường Quốc lộ 8A, hiện nay đã hoàn thành Km0-Km37, đang thi công dở dang đoạn Km37-Km52+3,4, tiếp tục ưu tiên đầu tư xây dựng hoàn thành đoạn Km37-K85 nhằm phù hợp với quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định, góp phần đảm bảo quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh khác trong khu vực, nâng cao chất lượng mạng lưới giao thông của tỉnh, vùng và quốc gia, đáp ứng nhu cầu thông thương trong khu vực và giữa tỉnh Hà Tĩnh với nước bạn Lào.
Trả lời: (Tại Công văn số 15566/BGTVT-KHĐT ngày 28/12/2016)
Quốc lộ 8A từ thị xã Hồng Lĩnh đến Cửa khẩu Cầu treo đã được Bộ GTVT triển khai các dự án cải tạo, nâng cấp, bao gồm:
- Dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo nâng cấp QL8A đoạn Km0-Km37, tỉnh Hà Tĩnh được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3209/QĐ-BGTVT ngày 22/10/2008 và phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 469/QĐ-BGTVT ngày 20/02/2013. Dự án được khởi công từ năm 2010 và đã thi công hoàn thành.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp QL8A đoạn Km37- Km85+300, tỉnh Hà Tĩnh đã được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3051/QĐ-BGTVT ngày 22/10/2010 với tổng mức đầu tư 1.663 tỷ đồng, theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng. Dự án đã khởi công từ quý I/2014, trước mắt triển khai công đoạn từ Km37+00-Km52+003,4 (từ thị trấn Phố Châu đến đầu thị trấn Tây Sơn) dài 15km; cầu Rọ Đá tại Km78+329,21 và cầu cạn Sơn Hải tại Km82+39,38. Kế hoạch vốn ngân sách Nhà nước bố trí cho dự án đến hết năm 2016 là 227 tỷ đồng. Bộ GTVT đã tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư để hoàn thành Dự án cải tạo nâng cấp QL8A đoạn Km37+00-Km85+300 trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020 của Bộ và sẽ chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện sau khi kế hoạch đầu tư công trung hạn được thông qua.
10. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông Vận Tải trình Chính phủ ưu tiên đầu tư trước đường cao tốc Bắc Nam đoạn qua Hà Tĩnh (UBND tỉnh Hà Tĩnh đã có Văn bản 4151/UBND - GT1 ngày 23/8/2016).
Trả lời: (Tại Công văn số 713/BGTVT- 19/1/2017 ngày 19/1/2017)
Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ GTVT đã triển khai lập, hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ chương trình đầu tư tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam đoạn Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, trong đó có đoạn qua tỉnh Hà Tĩnh từ Bãi Vọt tới Vũng Áng, chiều dài khoảng 116km, quy mô 4 làn xe hạn chế.
Thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 10/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020, Bộ GTVT đang xây dựng phương án đầu tư dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam đoạn Hà Nội – TP Hồ Chí Minh để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.
Sau khi có ý kiến chấp thuận chủ trương của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ phối hợp với tỉnh Hà Tĩnh, các Bộ, ngành hoàn thành các thủ tục đầu tư để sớm thực hiện đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam đoạn Hà Nội – TP Hồ Chí Minh.
11. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị:Đề nghị sớm triển khai việc phê duyệt, thực hiện dự án đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn (vì Dự án đang triển khai thu hồi đất giải phóng mặt bằng nhưng đến nay lại tạm dừng lại do dự án chưa được phê duyệt; người dân đã dừng sản xuất trên diện tích đất thuộc tuyến gần 2 năm nay).
Trả lời: (Tại Công văn số 15582/BGTVT-CQLXD ngày 28/12/2016 )
Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Bắc Giang - TP Lạng Sơn đoạn Km45+100 - Km108+500, kết hợp tăng cường mặt đường QL1 đoạn Km1+800-Km106+500, tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn đã được Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 1249/QĐ-BGTVT ngày 09/4/2015 và đã lựa chọn Liên danh Nhà đầu tư Công ty Công ty Cổ phần Đầu tư UDIC, Công ty Cổ phần Đầu tư 468, Công ty TNHH Xây dựng Mỹ Đà, Công ty Cổ phần Giao thông xây dựng số 1 và Công ty Cổ phần Đầu tư và XDGT Phương Thành là nhà đầu tư thực hiện dự án.
Dự án đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư số 110/BKHĐT-GCNĐKĐTTN ngày 29/3/2016, giấy chứng nhận điều chỉnh lần 1 số 110/BKHĐT-GCNĐKĐTTN/ĐC1 ngày 19/10/2016 và Bộ Giao thông vận tải đã ký Hợp đồng Dự án số 15/HĐ.BOT-BGTVT ngày 25/12/2016 với Liên danh Nhà đầu tư.
Hiện nay hợp phần tăng cường mặt đường Quốc lộ 1 đã triển khai thi công thảm bê tông nhựa được khoảng 53% giá trị hợp đồng hợp phần tăng cường mặt đường Quốc lộ 1. Với tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, cơ quan chuyên môn của Bộ Giao thông vận tải đã thẩm định xong toàn bộ hồ sơ thiết kế và Nhà đầu tư đang triển khai các công việc có liên quan theo hợp đồng dự án. Tuy nhiên, hiện nay trong bối cảnh nguồn vốn tín dụng cho các dự án BOT đang được thắt chặt nên việc triển khai Dự án bị chậm so với kế hoạch. Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 14949/BGTVT-CQLXD ngày 15/12/2016 gửi Ban Quản lý dự án An toàn giao thông (đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền) và Nhà đầu tư về việc đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án.
12. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Đề nghị quan tâm hoàn thiện các đường gom dân sinh của đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang vì tuyến cao tốc đã đưa vào dử dụng, thu phí nhưng chưa hoàn thiện tuyến gom.
Trả lời: (Tại Công văn số 15673/BGTVT- CQLXD ngày 29/12/2016 )
Trong điều kiện khó khăn về nguồn vốn, đầu tư, để đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, cải thiện điều kiện khai thác, giảm ùn tắc và tai nạn giao thông trên QL1 đoạn Hà Nội - Bắc Giang, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng khu vực nói chung, cũng như của Thủ đô Hà Nội và 02 tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, phù hợp với quy hoạch và định hướng phát triển GTVT; Bộ Giao thông vận tải đã triển khai thực hiện dự án mở rộng, nâng cấp QL1 đoạn Hà Nội - Bắc Giang theo hình thức hợp đồng BOT. Đến thời điểm này, dự án đã cơ bản hoàn thiện theo tiến độ đề ra. Trong quá trình thực hiện dự án, để nâng cao hiệu quả khai thác, đảm bảo thuận lợi, an toàn cho người và phương tiện tham gia lưu thông trên tuyến, Bộ Giao thông vận tải đã bổ sung đầu tư một số hạng mục nằm ngoài thiết kế cơ sở đã được phê duyệt (như đường gom, các nhánh kết nối, cầu vượt …). Với sự chỉ đạo quyết liệt của Nhà đầu tư, các hạng mục bổ sung đến nay đã cơ bản hoàn thiện trừ một số vị trí cục bộ do vướng mặt bằng nên chưa thể hoàn thiện, trong đó có một số đoạn đường gom đoạn qua địa phận tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên đến thời điểm này, các đoạn đường gom này đã cơ bản hoàn thiện, Nhà đầu tư, các Nhà thầu đang hoàn thiện công tác thảm bê tông nhựa để hoàn thành toàn bộ hạng mục đường gom hai bên đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang.
Trên đây là nội dung trả lời của Bộ GTVT về kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang cung cấp thông tin đến các cử tri./.
13. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị:Quốc lộ 57 hiện nay đã quá tải, lượng xe từ các tỉnh Miền Tây (đoạn từ phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày Bắc) lưu thông qua lại nhiều, đường hẹp, xe đông, tai nạn xảy ra thường xuyên. Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm ưu tiên đầu tư hoàn thiện và mở rộng những đoạn đường còn lại trên Quốc lộ 57.
Trả lời: (Tại Công văn số 532/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
Bộ GTVT đã đưa Dự án cải tạo, nâng cấp QL57 đoạn Cầu Ván - Khâu Băng và đoạn từ bến phà Đình Khao đến thị trấn Mỏ Cày vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Bến Tre để giải quyết các vấn đề có liên quan đến giao thông vận tải trên địa bàn Tỉnh./.
14. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị:Đề nghị đầu tư xây dựng dự án Cầu Rạch Miễu 2 tạo điều kiện cho phương tiện giao thông được thuận tiện, giảm ùn tắc.
Trả lời: (Tại Công văn số 532/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
Bộ GTVT đã có Quyết định số 2669/QĐ-BGTVT ngày 25/8/2016 cho phép lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi – Dự án đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu 2 nối 2 tỉnh Tiền Giang và Bến Tre và giao cho các đơn vị liên quan xúc tiến, tìm kiếm nguồn vốn để đầu tư dự án. Sau khi tìm kiếm được nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ phối hợp với Bộ KH&ĐT để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định làm cơ sở triển khai thực hiện.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Bến Tre để giải quyết các vấn đề có liên quan đến giao thông vận tải trên địa bàn Tỉnh./.
15. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị:Cầu Cổ Chiên hoàn thành và đưa vào sử dụng từ năm 2015, hiện nay lưu lượng phương tiện gia tăng trong khi kết cấu hạ tầng giao thông không đủ đáp ứng. Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm sớm phê duyệt chủ trương đầu tư nâng cấp tuyến đường từ Quốc lộ 60 nối cầu Rạch Miễu đến cầu Cổ Chiên để tránh ùn tắc giao thông và hạn chế tai nạn xảy ra.
Trả lời: (Tại Công văn số 15710/BGTVT-ĐTCT ngày 29/12/2016 )
Sau khi hoàn thành và đưa cầu Cổ Chiên vào sử dụng từ năm 2015, lưu lượng xe tăng cao trên QL60 đặc biệt là đoạn nối giữa 02 cầu Rạch Miễu và Cổ Chiên. Do vậy, trước yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện những đoạn tuyến còn lại trên QL60 nối giữa 02 cầu, trong điều kiện nguồn ngân sách Nhà nước khó khăn hiện nay không thể cân đối bố trí nguồn vốn để sớm đầu tư dự án, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ chủ trương đầu tư 04 đoạn tuyến QL60 nối cầu Rạch Miễu đến cầu Cổ Chiên bổ sung vào Dự án đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu - QL60 theo hình thức Hợp đồng BOT. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại văn bản số 5887/VPCP-KTN ngày 28/7/2015, ý kiến của các Bộ, ngành và UBND các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Bộ GTVT đã quyết định đầu tư bổ sung 04 đoạn tuyến trên QL60 nối cầu Rạch Miễu đến cầu Cổ Chiên vào Dự án đầu tư xây dựng cầu Rạch Miễu - QL60 theo hình thức BOT (Quyết định số 168/QĐ-BGTVT ngày 19/01/2016), sử dụng trạm thu phí cầu Rạch Miễu để cùng thu phí hoàn vốn và triển khai thực hiện như là giai đoạn 2 của dự án.
Đến nay, dự án đã hoàn thiện các thủ tục lựa chọn nhà đầu tư; Bộ KH&ĐT đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư điều chỉnh cho dự án số 08/BKHĐT-GCNĐKĐTTN/ĐC2 ngày 07/12/2016; Bộ GTVT và Nhà đầu tư (Liên doanh Công ty cổ phần đầu tư cầu đường CII và Công ty cổ phần thương mại nước giải khát Khánh An) đã ký Phụ lục hợp đồng BOT làm cơ sở cho Nhà đầu tư triển khai các bước tiếp theo như thiết kế bản vẽ thi công, lựa chọn nhà thầu xây lắp… và dự kiến đủ điều kiện để khởi công dự án vào quý I/2017.
16. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị:Đề nghị quan tâm hỗ trợ triển khai dự án nâng cấp đường Quốc lộ 19 đoạn từ Cảng Quy Nhơn đến QL1A.
Trả lời: (Tại Công văn số 702/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Dự án nâng cấp QL19 đoạn từ cảng Quy Nhơn đến cầu Bà Gi (QL1), dài 17km, quy mô đường cấp II đồng bằng, tổng mức đầu tư khoảng 5.300 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn và đã được Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Bình Định là cấp quyết định đầu tư và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với tổng mức đầu tư giai đoạn I của dự án tại văn bản số 5465/VPCP-KTN ngày 24/7/2012 của Văn phòng Chính phủ. Trong quá trình triển khai, theo đề nghị của UBND tỉnh Bình Định, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1186/TTg-KTTH ngày 24/7/2015, cho phép điều chỉnh phân kỳ đầu tư dự án từ 3 giai đoạn thành 2 giai đoạn và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với toàn bộ dự án, đồng thời tổng hợp dự án vào danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ vào giai đoạn 2016 - 2020 khi có chủ trương phát hành trái phiếu của cấp có thẩm quyền. Dự án đã được khởi công từ năm 2012, dự kiến hoàn thành năm 2018. Đến nay, nguồn vốn Trung ương hỗ trợ cho dự án được ứng trước từ nguồn ngân sách Nhà nước là 1,373 tỷ đồng.
Để bố trí vốn triển khai dự án, Bộ GTVT đã tổng hợp dự án vào danh mục các dự án đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT. Tuy nhiên, nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND tỉnh Bình Định tiếp tục tìn kiếm nguồn vốn hợp pháp để triển khai dự án.
Trên đây là ý kiến của Bộ GTVT về kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Định, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định chuyển ý kiến trên để cử tri được rõ. Bộ GTVT trân trọng cảm ơn và rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, góp ý của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định để công tác quản lý nhà nước ngành GTVT được cải thiện hơn nữa, đóng góp hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tỉnh Bình Định./.
17. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị:Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo ngành chức năng cho thi công mương thoát nước trên tuyến Quốc lộ 1A thuộc khu vực Trường Mẫu giáo thôn Hội Tâm, xã Hàm Minh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Vì, hiện nay khu vực này đã xây dựng hệ thống cống xả nước nhưng không thi công mương thoát nước xả tại miệng cống nên nước từ đường Quốc lộ 1A chảy thẳng vào khu vực dân cư, gây ô nhiễm môi trường nhất là khu vực nhà Mẫu giáo thôn Hội Tâm
Trả lời: (Tại Công văn số 948/BGTVT-QLXD ngày 24/1/2017 )
- Khi triển khai dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1, Bộ GTVT đã chỉ đạo thiết kế, xây dựng đồng bộ các công trình để đảm bảo bền vững công trình và không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân bên đường.
Tư vấn thiết kế đã nghiên cứu, thiết kế bố trí đầy đủ công trình đảm bảo yêu cầu thoát nước; đặc biệt đối với đoạn qua khu đô thị, đông dân cư đã bố trí hệ thống thoát nước dọc bằng cống tròn, rãnh hộp BTCT, kết hợp bố trí bó vỉa đảm bảo thoát nước, vệ sinh môi trường và chỉnh trang đô thị.
Trong quá trình thực hiện dự án, Ban QLDA 1 và các đơn vị tư vấn đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan của địa phương (Sở GTVT, chính quyền các địa phương) tổ chức rà soát, điều chỉnh bổ sung hệ thống thoát nước cho phù hợp với điều kiện thực tế. Đến nay hệ thống thoát nước Quốc lộ 1 đã cơ bản đảm bảo yêu cầu thoát nước.
- Mương thoát nước hạ lưu cống ngang đường Km1628+175,12 đã có từ trước; trong giai đoạn lập hồ sơ thiết kế BVTC và xây dựng công trình, khu vực này dân cư thưa thớt, mương cũ vẫn đảm bảo thoát nước nên không xây dựng cải tạo (trong quá trình rà soát, phối hợp với Sở GTVT, chính quyền địa phương cũng không đề xuất điều chỉnh, bổ sung).
Tuy nhiên, sau khi dự án hoàn thành đưa vào khai thác, do thay đổi về mật độ xây dựng tại khu vực làm thay đổi địa hình, thu hẹp dòng chảy dẫn đến ứ đọng nước cục bộ tại một số vị trí dọc mương thoát nước làm ảnh hưởng môi trường theo phản ánh của cử tri như trên.
Dự án mở rộng QL1 đã thi công hoàn thành từ năm 2015, do vậy, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận có ý kiến với các cơ quan chức năng ở địa phương tăng cường công tác quản lý xây dựng, khẩn trương giải tỏa các công trình lấn chiếm và khơi thông dòng chảy để đảm bảo khả năng thoát nước. Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp với địa phương rà soát, giải tỏa công trình lấn chiếm và khơi thông dòng chảy để đảm bảo thoát nước trên Quốc lộ 1.
18. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị:Đề nghị xem xét, cân nhắc kỹ và không chấp nhận vay vốn Trung Quốc để đầu tư tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai vì nhiều sự cố đã xảy ra từ ngưồn vốn vay của Trung Quốc kém hiệu quả.
Trả lời: (Tại Công văn số 309/BGTVT-KHĐT ngày 10/1/2017 )
Để từng bước đầu tư, cải tạo nâng cấp các công trình giao thông trong bối cảnh nguồn lực đầu tư trong nước còn nhiều khó khăn, thời gian vừa qua ngành GTVT đã tiếp nhận nhiều nguồn vốn vay hoặc viện trợ không hoàn lại từ các nhà tài trợ quốc tế như: Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á... và từ Chính phủ các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Trung Quốc, Đức, Tây Ban Nha,.... góp phần thay đổi nhanh chóng diện mạo ngành GTVT, phục vụ nhu cầu phát triển KT-XH của cả nước.
Trong lĩnh vực đường sắt, cũng đã sử dụng vốn vay từ các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế như: JICA, ADB, AFD, KfW.... để thực hiện một số dự án như nâng cao an toàn cầu trên tuyến đường sắt Thống Nhất; hiện đại hóa thông tin, tín hiệu đường sắt đoạn Hà Nội - Vinh giai đoạn 1, cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai giai đoạn 1, hiện đại hóa trung tâm điều hành vận tải... và của Chính phủ Trung Quốc như: Dự án hiện đại hóa thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Vinh - Sài Gòn, giai đoạn I; dự án hiện đại hóa thông tin, tín hiệu đường sắt các tuyến Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Đồng Đăng, Hà Nội - Thái Nguyên và khu đầu mối Hà Nội giai đoạn I và dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông đang được triển khai đầu tư xây dựng. Quá trình thực hiện các dự án này về cơ bản đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, chất lượng công công trình; tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề như cử tri đã nêu như chậm tiến độ đưa vào khai thác và phát sinh sự cố. Đối với tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội, hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ tiếp nhận Dự án hỗ trợ kỹ thuật (viện trợ không hoàn lại) của Chính phủ Trung Quốc để nghiên cứu, lập quy hoạch tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Bên cạnh đó, với các tuyến đường sắt khác như tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam đã tiếp nhận nghiên cứu từ Chính phủ Nhật Bản (JICA); tuyến đường sắt Tân Ấp - Mụ Giạ - Vũng Áng tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật từ Chính phủ Hàn Quốc hoặc về thể chế phát triển ngành đường sắt, Bộ GTVT cũng đã tiếp nhận dự án hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng thế giới... Như vậy, có thể thấy thời gian qua Bộ GTVT đã nghiên cứu, đề xuất nhiều nhà tài trợ khác nhau để phát triển lĩnh vực đường sắt. Bộ GTVT sẽ lưu ý, cân nhắc ý kiến phản ánh của cử tri trong quá trình tham mưu trình Chính phủ về việc sử dụng nguồn vốn vay cho các dự án nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư.
19. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành Dự án đường Quang Trung - Cái Cui.
Trả lời: (Tại Công văn số 1398/BGTVT-CQLXD ngày 14/2/2017 )
Dự án đầu tư xây dựng công trình Mở rộng đường Quang Trung – Cái Cui, quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ dài 7.229,39 m. Đoạn I từ đường dẫn cầu Quang Trung (phía bờ quận Cái Răng) đến điểm giao với đường dẫn vào cầu Cần Thơ, cấp đường phố chủ yếu, vận tốc 80km/h, bề rộng nền đường Bnền=56m. Đoạn II từ điểm giao với đường dẫn vào cầu Cần Thơ đến rạch Cái Cui, cấp đường phố khu vực, vận tốc 60km/h, bề rộng nền đường Bnền=23,5m. Dự án được UBND Tp. Cần Thơ phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 1782/QĐ-UBND ngày 19/6/2015; nguồn vốn sử dụng từ ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương; giao cho Sở Giao thông Vận tải Tp. Cần Thơ làm Chủ đầu tư; thời gian thực hiện Dự án là năm 2009 - 2017.
Trong những tháng vừa qua do tác động của công tác GPMB, biến động giá, bố trí nguồn vốn… nên tiến độ công trình bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Chủ đầu tư đang chỉ đạo Tư vấn giám sát, Nhà thầu huy động nhân lực, vật tư, máy móc thiết bị triển khai thi công hoàn thành các hạng mục còn lại đến cuối tháng 3/2017, đảm bảo chất lượng công trình.
20. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị hỗ trợ đầu tư hoàn chỉnh tuyến giao thông đê bao dọc kênh Nguyễn Văn Tiếp;
Trả lời: (Tại Công văn số 1113/BGTVT-KHĐT ngày 6/2/2017 )
- Thời gian qua, Bộ GTVT đã hoàn thành thực hiện đầu tư dự án Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đồng bằng sông Cửu Long (dự án WB5) bằng vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) với tổng mức đầu tư là 535,55 triệu USD, trong đó Hợp phần B - Hợp phần đường thủy của Dự án đã tiến hành đầu tư nâng cấp các hành lang đường thủy số 2 và số 3 đạt cấp kỹ thuật theo quy hoạch; kè gia cố và chống sạt lở bờ một số đoạn sông, kênh xung yếu; xây dựng cầu và đường dân sinh.
- Tuyến kênh Nguyễn Văn Tiếp dài 92 km là một hạng mục thuộc Hợp phần B - Hợp phần đường thủy của Dự án, trong đó đã thực hiện: nạo vét toàn tuyến kênh với kinh phí 237 tỷ đồng; đê bao, đường dân sinh dài 23,35 km kinh phí 25,11 tỷ đồng; xây dựng 08 cầu dân sinh 9,9 tỷ đồng; gia cố chống sạt lở bờ đoạn qua thị trấn Mỹ Phước dài 189 m kinh phí 3,171 tỷ đồng; xây dựng các cầu: Thạnh Lộc, Thiên Hộ, Mỹ An, Ngân Hàng, Nguyên Văn Tiếp, Phong Mỹ với tổng kinh phí 540 tỷ đồng; xây dựng kè Mỹ An dài 460 m kinh phí 26,4 tỷ đồng; kè Phong Mỹ dài 405 m kinh phí 58,4 tỷ đồng. Trong tổng số kinh phí nêu trên, riêng đoạn kênh Nguyễn Văn Tiếp dài 47 km qua địa phận tỉnh Tiền Giang được đầu tư với tổng kinh phí 180 tỷ đồng, đã thực hiện: nạo vét nâng cấp đạt cấp 3 kỹ thuật theo quy hoạch; xây dựng 21 km tuyến đê bao, đường dân sinh; đầu tư xây dựng 08 cầu dân sinh; gia cố chống sạt lở bờ đoạn qua thị trấn Mỹ Phước, đã hoàn thành cuối năm 2016.
Như vậy, sau khi hoàn thành đầu tư dự án WB5, kênh Nguyễn Văn Tiếp đã được nạo vét nâng cấp đạt cấp kỹ thuật theo quy hoạch đảm bảo cho tàu 500 tấn hành thủy; đã kè bảo vệ các vị trí xung yếu; đê bao, đường dân sinh, các cầu dân sinh và các cầu lớn qua kênh đảm bảo cấp kỹ thuật.
- Việc đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng giao thông nói chung, kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa nói riêng cần nguồn vốn rất lớn. Thời gian tới, đối với các đoạn đê bao còn lại của đoạn kênh Nguyễn Văn Tiếp (26 km qua địa bàn tỉnh Tiền Giang và 43 km qua địa bàn tỉnh Đồng Tháp), Bộ GTVT sẽ tiếp tục nghiên cứu, kêu gọi các nguồn vốn, bao gồm cả nguồn vốn xã hội hóa để tiếp tục đầu tư vào thời điểm thích hợp, đảm bảo hiệu quả đầu tư, từng bước đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông trong vùng.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Tiền Giang để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn Tỉnh./.
21. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị thi công giai đoạn 2 tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ Cầu Sơn Quy đến ấp Xã Lới, xã Tân Trung, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Trả lời: (Tại Công văn số 526/BGTVT-KHĐT – ngày 16/1/2017 )
22. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị Bộ sớm triển khai dự án Kênh Chợ Gạo giai đoạn 2. Vì hiện nay tình hình sạt lỡ rất nghiêm trọng ảnh hưởng lớn đến tính mạng, tài sản, cuộc sống và sản xuất của người dân. Tuyến đường huyện 25B nhiều đoạn đã bị sạt lỡ xuống dòng sông, không sử dụng được, ước tính mỗi năm, Kênh Chợ Gạo gây sạt lỡ ăn sâu vào đất liền từ 15 đến 30m.
Trả lời: (Tại Công văn số 526/BGTVT-KHĐT – ngày 16/1/2017)
1. Về kiến nghị thi công giai đoạn 2 Quốc lộ 50:
Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chuyển khoảng 50 tỷ đồng từ phần vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 còn dư của dự án Quốc lộ 50 đoạn Gò Công – Mỹ Tho sang dự án Quốc lộ 50 đoạn Mỹ Lợi – Gò Công để tiếp tục đầu tư hoàn thiện thảm BTN đoạn từ Km43+000-Km47+334 (Văn bản số 5936/VPCP-KTTH ngày 29/7/2015 của Văn phòng Chính phủ). Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án, phê duyệt thiết kế và lựa chọn nhà thầu, đồng thời đề nghị Bộ KH&ĐT điều hòa, điều chỉnh kế hoạch vốn của dự án nên trên để tổ chức triển khai thi công, tuy nhiên đến nay Bộ KH&ĐT đang rà soát để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ giao vốn, Bộ GTVT sẽ tổ chức triển khai thi công ngay.
2. Về kiến nghị lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng trên tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ cầu Mỹ Lợi đến thị xã Gò Công:
Đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông đường bộ, Bộ GTVT chỉ đầu tư hệ thống điện chiếu sáng tại các nút giao thông lớn, qua cầu lớn, qua hầm. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh Tiền Giang chủ động nghiên cứu, cân đối nguồn vốn, đặc biệt là kinh phí chi trả tiền điện và tổ chức quản lý trong quá trình sử dụng để quyết định việc đầu tư lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng trên tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ cầu Mỹ Lợi đến thị xã Gò Công và trả lời cho cử tri được rõ.
23. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị sớm cho chủ trương và bố trí vốn dự án Kênh Chợ Gạo giai đoạn 2 để địa phương chủ động di dời các công trình nằm trong phạm vi giải tỏa để đảm bảo dự án sớm thi công và hoàn thành
Trả lời: (Tại Công văn số 1332/BGTVT-KHĐT ngày 13/1/2017 )
24. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Kiến nghị Bộ phối hợp với các Bộ, ngành chức năng trung ương có giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các hộ nằm trong dự án Nâng cấp Kênh Chợ Gạo (Giai đoạn 2), thực hiện vay tiền ngân hàng di dời nhà cửa sang nơi ở mới, đến nay nợ đã quá hạn, nhưng dự án vẫn chưa được khởi động tiếp giai đoạn 2 đã gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống của người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 1332/BGTVT-KHĐT ngày 13/1/2017 )
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo thuộc Danh mục các dự án quan trọng quốc gia (văn bản số 1903/VPCP-KTN ngày 20/3/2015), đã được Bộ GTVT đã quyết định đầu tư với tổng mức đầu tư là 4.221 tỷ đồng. Tuy nhiên, do khó khăn trong bố trí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, ngày 21/6/2013, Bộ trưởng Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án với tổng mức đầu tư là 2.263,7 tỷ đồng và phân kỳ đầu tư như sau:
+ Giai đoạn 1 (từ năm 2013÷2015): Tổng mức đầu tư là 787 tỷ đồng. Thực hiện đầu tư nạo vét 17km luồng đoạn Rạch Lá và Kỳ Hôn; nạo vét mở rộng ½ luồng về phía bờ Bắc kênh Chợ Gạo (chiều dài 11,6km); xây dựng 6,25km kè thảm đá bờ Bắc kênh Chợ Gạo và 5,9km kè trồng cây tại Rạch Kỳ Hôn và Rạch Lá; xây dựng 6,2km đường nông thôn loại B tại bờ Bắc kênh Chợ Gạo; 0,35km tại Rạch Kỳ Hôn; GPMB (29,45ha) và TĐC tại Rạch Lá, rạch Kỳ Hôn và bờ Bắc kênh Chợ Gạo; xây dựng các bãi đổ đất nạo vét… bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Đến nay, đã hoàn thành đưa vào sử dụng, bước đầu phát huy tốt hiệu quả dự án như: giảm tình trạng ùn tắc trên tuyến, nâng cao năng lực vận tải và tăng cường an toàn giao thông thủy; đồng thời, ngăn ngừa hiện tượng xói lở bờ, góp phần cải tạo bộ mặt đô thị, nông thôn và tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng dân cư sống dọc theo bờ Bắc tuyến kênh.
+ Giai đoạn 2 (từ năm 2016÷2017): Tổng mức đầu tư là 1.477 tỷ đồng để đầu tư các hạng mục còn lại của dự án. Tuy nhiên, giai đoạn 2 đến nay chưa thể triển khai được do rất khó khăn về bố trí vốn nhà nước.
- Nhận thức được tầm quan trọng, cấp thiết phải sớm hoàn thành toàn bộ dự án, Bộ GTVT đã lấy ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang; đồng thời, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư giai đoạn 2 của Dự án sang đầu tư theo hình thức BOT.
- Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1259/TTg-KTN ngày 21/7/2016 chấp thuận chủ trương đầu tư BOT; giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp với Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tổ chức hướng dẫn, triển khai thực hiện dự án theo quy định; giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ GTVT và các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quản lý thu, nộp và sử dụng phí trên tuyến luồng kênh Chợ Gạo.
- Đến nay, Bộ GTVT đã giao Cục Đường thủy nội địa Việt Nam thực hiện các trình tự, thủ tục chuẩn bị đầu tư giai đoạn 2 của Dự án theo hình thức BOT trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật; hiện Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đang tích cực triển khai việc tham vấn cộng đồng, song song với việc tổ chức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án.
Tuy nhiên, việc triển khai giai đoạn 2 của Dự án nâng cấp tuyến luồng kênh Chợ Gạo theo hình thức Hợp đồng BOT chỉ có thể triển khai khi nhận được sự đồng thuận của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang; đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án, người sử dụng và nhà nước.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Tiền Giang chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Tiền Giang để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh./.
25. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Đề nghị xem xét đầu tư dự án Đường tránh Quốc lộ 91 đoạn qua thành phố Long Xuyên (tuyến tránh TP Long Xuyên).
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐTngày 16/1/2017 )
Về kiến nghị đầu tư tuyến tránh QL91 qua thành phố Long Xuyên:
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề xuất Dự án tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên sử dụng nguồn vốn dư của Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long (Quyết định số 2527/QĐ-TTg ngày 27/12/2016). Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện các thủ tục theo quy định của Luật Đầu tư công để sớm triển khai thi công công trình.
26. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Nhằm giảm chi phí và thời gian vận chuyển hàng hóa nông thủy sản từ các tỉnh ĐBSCL đến cảng xuất khẩu, đề xuất Trung ương ưu tiên thực hiện Đề án quy hoạch cảng biển, trong đó tập trung nâng cấp các cảng có khả nâng xuất khẩu trực tiếp bằng đường thủy, thực hiện nạo vét các luồng sông chính từ các tỉnh ĐBSCL đến TP. HCM để cho các loại tàu lớn có thể vận chuyển hàng hóa.
Trả lời: (Tại Công văn số 1111/BGTVT-KHĐT ngày 6/2/2017 )
1. Về cảng biển và luồng hàng hải trong khu vực
Thời gian qua, Bộ GTVT đã thực hiện rà soát, lập và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014. Triển khai Quyết định số 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 nêu trên, Bộ GTVT đã rà soát, cập nhật và phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long (nhóm 6) tại Quyết định số 3383/QĐ-BGTVT ngày 28/10/2016.
Theo nội dung phê duyệt tại các quyết định nêu trên, Nhóm cảng biển số 6 gồm các cảng biển: Cảng biển Cần Thơ là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (Loại I), các cảng biển tổng hợp địa phương (Loại II) gồm: Cảng biển Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang.
- Đối với cảng biển Cần Thơ được xác định là cảng biển đầu mối quốc gia, đóng vai trò chủ lực của vùng, hiện có các khu bến:
+ Khu bến Cái Cui đang hoạt động, khai thác là khu bến chính của cảng biển Cần Thơ, chủ yếu làm hàng tổng hợp, hiện có thể phục vụ cho tàu biển trọng tải đến 20.000 tấn. Thời gian tới, khu bến Cái Cui sẽ được hoàn thiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị đồng bộ hiện đại, gắn kết với khu đầu mối logisstics phía sau cảng để đảm nhận vai trò là khu bến chính làm hàng tổng hợp, công ten nơ của cảng trung tâm đầu mối khu vực, năng lực thông qua đến năm 2020 đạt khoảng 2,0-2,5 triệu tấn/năm, năm 2030 đạt khoảng 4,0-5,0 triệu tấn/năm.
+ Khu bến Trà Nóc – Ô Môn – Thốt Nốt đang hoạt động phục vụ cho tàu 5.000 tấn, sẽ được nâng cấp phát triển mở rộng bến, làm hàng khô tổng hợp với cầu bến cho tàu trọng tải đến 10.000 tấn.
+ Khu bến Hoàng Diệu, Bình Thủy là khu bến làm hàng tổng hợp, cong ten nơ hiện đang hoạt động, khai thác, phục vụ cho tàu đến 15.000 tấn. Thời gian tới tiếp tục duy trì và nâng cấp bến cảnh Hoàng Diệu hiện có, không phát triển mở rộng.
Như vậy, hiện nay khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã có những khu bến tiếp nhận tàu đến 20.000 tấn được trang bị những trang thiết bị từng bước hiện đại, hình thành được những tuyến vận tải công ten nơ mới phục vụ vận tải trên các tuyến biển gần.
Ngoài ra, còn có các bến chuyên dùng, vệ tinh khác cùng với các cảng địa phương (Loại II) khu vực sông Tiền, sông Hậu đang hoạt động, khai thác. Theo quy hoạch, cảng biển Trà Vinh sẽ xây dựng mới khu bến Định An trong bể cảng tạo bởi đê ngăn sống của dự án nhiệt điện Duyên Hải và dự án luồng kênh Quan Chánh Bố, tiếp nhận tàu 30.000 đến 50.000 tấn hoặc lớn hơn, cùng với khu logistics sau cảng, đáp ứng năng lực thông qua năm 2030 khoảng 3,6 đến 5,4 triệu tấn/năm. Đây là cảng chính của Trà Vinh về lâu dài và cảng tổng hợp, công ten nơ tiềm năng cho tàu trọng tải lớn làm hàng xuất nhập khẩu trực tiếp của đồng bằng sông Cửu Long cho các tuyến nội Á và khu vực.
- Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trên các tuyến biển xa, sẽ hình thành các trung tâm logistics để thực hiện gom hàng và tập trung tới cảng cửa ngõ quốc tế tại Vũng Tàu (Cái Mép – Thị Vải) qua các tuyến đường bộ, đường thủy tại khu vực.
- Về luồng hàng hải:
+ Giai đoạn thông luồng kỹ thuật, dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố đã hoàn thành có thể cho phép tàu 10.000 tấn đầy tải, 20.000 tấn giảm tải hành hải. Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án sử dụng vốn dư trái phiếu Chính phủ giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án (khoảng 1.550 tỷ đồng) để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2, đầu tư hoàn chỉnh đảm bảo điều kiện khai thác ổn định, hiệu quả Dự án.
+ Tiếp tục duy trì độ sâu luồng qua cửa Định An cho tàu trọng tải 5.000 tấn đầy tải và 10.000 tấn vơi tải ra vào có lợi dụng triều; duy trì ổn định khai thác các tuyến luồng cửa Tiểu (sông Tiền), cửa Bồ Đề (sông Cái Lớn), luồng vào các bến cảng Hòn Chông, An Thới, Vịnh Đầm - Phú Quốc.
2. Về các tuyến luồng đường thủy:
- Đã hoàn thành đầu tư và đưa vào khai thác, sử dụng năm 2011 dự án Hai tuyến đường thủy phái Nam với các tuyến vận tải thủy từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cà Mau dài 332 km và tuyến vấn tải thủy từ thành phố Hồ Chí Minh đi Kiên Lương dài 320 km đạt cấp 3 kỹ thuật và các cảng thủy nội địa Giao Long, Long Đức, Bình Long, Tắc Cậu, An Phước cho đoàn sà lan đến 500 tấn với tổng mức đầu tư 1.100 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB); đã hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng năm 2016 cảng thủy nội địa Sóc Trăng, cảng Cà Mau cho tàu 1.000 tấn và các hành lang đường thủy số 2 (hành lang phía Bắc xuyên Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên) dại 253 km, hàng lang đường thủy số 3 (hàng lang duyên hải phía Nam) dài 148 km thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long trong dự án Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đồng bằng sông Cửu Long bằng vốn vay WB (dự án WB5) đạt cấp 3 kỹ thuật theo quy hoạch. Các tuyến đường thủy và hàng lang đường thủy nêu trên sau khi được đưa vào khai thác, sử dụng đã phát huy hiệu quả, cải thiện, giảm thiểu tắc nghẽn trên các tuyến đường thủy then chốt, tăng cường vận tải hàng hóa từ các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại.
- Ngoài ra, Bộ GTVT đồng thời triển khai các công việc cụ thể khác như:
+ Tổ chức khai thác hiệu quả các tuyến đường thủy nội địa trong vùng; tuyến Cửa Tiểu đến biên giới Cam pu chia, các trục dọc, các tuyến nhánh kết nối với sông Hậu, sông Tiền.
+ Đang triển khai lập dự án Phát triển các hành lang đường thủy và logistics khu vực phía Nam sử dụng Quỹ PPTAF với mục tiêu: Rà soát và cập nhật Nghiên cứu khả thi hành lang đường thủy Măng Thít - Chợ Gạo và Nghiên cứu hành lang logistics kết nối cụm cảng Cái Mép - Thị Vải để đảm bảo vận tải các tuyến biển xa, phục vụ hàng hóa xuất nhập khẩu. Sau khi hoàn thành lập dự án, Bộ GTVT sẽ đầu tư bằng nguồn vốn vay WB.
Như vậy, sau khi thực hiện các chương trình, dự án nêu trên theo quy hoạch, các tuyến luồng hàng hải và đường thủy nội địa trong vùng sẽ đạt được sự kết nối hợp lý, góp phần tăng cường khả năng lưu thông hàng hóa nội địa, xuất nhập khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long tới các vùng, miền của đất nước, các khu vực trên thế giới trên các tuyến nội Á, biển xa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất nhập khẩu.
27. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị nạo vét, mở rộng thêm các cửa biển Quan Chính Bố, Định An …để các tàu lớn đến được các cảng của các tỉnh để có thể xuất khẩu trực tiếp lúa-gạo, rau màu từ vùng ĐBSCL, từ đó hình thành hệ thống Logistic một cách chuyên môn hóa phục vụ cho toàn vùng ĐBSCL.
Trả lời: (Tại Công văn số 1154/BGTVT-KHĐT ngày 7/2/2017 )
1. Về luồng hàng hải
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, dự báo về lượng hàng, đội tàu, tình hình phát triển tại khu vực và các chiến lược, nguồn lực trong phạm vi ngành, địa phương và quốc gia, đảm bảo tính khoa học, hiệu quả về kinh tế - kỹ thuật và tính khả thi, Bộ GTVT đã rà soát, cập nhật và phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long (nhóm 6) tại Quyết định số 3383/QĐ-BGTVT ngày 28/10/2016. Theo đó, quy hoạch cải tạo, nâng cấp luồng tàu tại khu vực đã được xác định rõ:
- Luồng vào các cảng trên sông Hậu: Luồng chính qua kênh Quan Chánh Bố cho tàu 10.000 tấn đầy tải và 20.000 tấn vơi tải. Trên cơ sở đánh giá mức độ ổn định của luồng, nghiên cứu khả năng nâng cấp, mở rộng luồng để tăng năng lực thông qua, đáp ứng nhu cầu vận tải cho giai đoạn đến năm 2030 và xa hơn. Luồng qua cửa Định An duy trì cho tàu 5.000 đến 10.000 tấn lợi dụng thủy triều để ra, vào.
- Ngoài 02 tuyến luồng vào các cảng trên sông Hậu nêu trên, các tuyến luồng khác cũng được quy hoạch, định hướng bao gồm:
+ Luồng qua cửa Trần Đề duy trì cho phương tiện thủy nội địa, tàu thuyền nghề cá ra vào các bến cảng chuyên dụng thuộc khu công nghiệp Trần Đề - Sóc Trăng.
+ Luồng vào các cảng trên sông Tiền: Duy trì độ sâu luồng qua cửa Tiểu cho tàu 5.000 tấn ra vào thường xuyên có lợi dụng thủy triều.
+ Luồng vào các cảng vùng bán đảo Cà Mau: Tận dụng tối đa độ sâu tự nhiên và biên độ triều cao để đưa tàu 3.000 đến 5.000 tấn qua cửa vào sông Gành Hào - Bạc Liêu, Cửa Bồ Đề vào sông Cửa Lớn - Cà Mau (đến cảng Năm Căn); nghiên cứu từng bước nâng độ sâu luồng phù hợp với mật độ tàu và lượng hàng qua cảng.
+ Luồng vào các cảng ven biển Tây: Duy trì luồng vào bến chuyên dùng Bình Trị - Kiên Lương cho tàu đến 10.000 tấn. Nghiên cứu nâng cấp luồng vào khu bến Hòn Chông cho tàu đến 5.000 tấn.
- Đến nay, giai đoạn thông luồng kỹ thuật, dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố đã hoàn thành có thể cho phép tàu 10.000 tấn đầy tải, 20.000 tấn giảm tải hành hải. Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án sử dụng vốn dư trái phiếu Chính phủ giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án (khoảng 1.550 tỷ đồng) để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2, đầu tư hoàn chỉnh đảm bảo điều kiện khai thác ổn định, hiệu quả Dự án.
- Đối với cửa Định An: Nhiều năm qua, Bộ GTVT đã chỉ đạo Cục Hàng hải Việt Nam phối hợp với các cơ quan tư vấn chuyên ngành hàng hải có nhiều kinh nghiệm, năng lực để nghiên cứu chỉnh trị cửa Định An. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy, khu vực cửa Định An có điều kiện tự nhiên diễn biến phức tạp, luồng chạy tàu biến đổi hàng năm dẫn đến việc chỉnh trị rất tốn kém và khó mang lại hiệu quả nên tại đây duy trì phương án luồng động. Bộ GTVT chỉ đạo Cục Hàng hải Việt Nam hàng năm bố trí kinh phí nạo vét duy tu và điều chỉnh bố trí phao tiêu báo hiệu hàng hải bằng nguồn phí bảo đảm hàng hải. Duy trì luồng cho tàu 3.000 đến dưới 10.000 tấn lợi dụng thủy triều để ra, vào.
2. Về cảng biển
Theo Quyết định số 3383/QĐ-BGTVT ngày 28/10/2016 của Bộ GTVT nêu trên, Nhóm cảng biển số 6 gồm các cảng biển: Cảng biển Cần Thơ là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (Loại I) các cảng biển tổng hợp địa phương (Loại II) gồm: Cảng biển Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang.
- Đối với cảng biển Cần Thơ được xác định là cảng biển đầu mối quốc gia, đóng vai trò chủ lực của vùng hiện có các khu bến:
+ Khu bến Cái Cui đang hoạt động, khai thác là khu bến chính của cảng biển Cần Thơ, chủ yếu làm hàng tổng hợp, hiện có thể phục vụ cho tàu biển trọng tải đến 20.000 tấn. Thời gian tới, khu bến Cái Cui sẽ được hoàn thiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị đồng bộ hiện đại, gắn kết với khu đầu mối logistics phía sau cảng để đảm nhận vai trò là khu bến chính làm hàng tổng hợp, công ten nơ của cảng trung tâm đầu mối khu vực, năng lực thông qua đến năm 2020 đạt khoảng 2,0-2,5 triệu tấn/năm, năm 2030 đạt khoảng 4,0-5,0 triệu tấn/năm.
+ Khu bến Trà Nóc - Ô Môn - Thốt Nốt đang hoạt động phục vụ cho tàu 5.000 tấn, sẽ được nâng cấp phát triển mở rộng bến, làm hàng khô tổng hợp với cầu bến cho tàu trọng tải đến 10.000 tấn.
+ Khu bến Hoàng Diệu, Bình Thủy là khu bến làm hàng tổng hợp, công ten nơ hiện đang hoạt động, khai thác, phục vụ cho tàu đến 15.000 tấn. Thời gian tới tiếp tục duy trì và nâng cấp bến cảng Hoàng Diệu hiện có, không phát triển mở rộng.
Như vậy, hiện nay khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã có những khu bến tiếp nhận tàu đến 20.000 tấn đang được từng bước hiện đại hóa, hình thành được những tuyến vận tải công ten nơ mới trên các tuyến biển gần.
- Ngoài ra còn có các bến chuyên dùng, vệ tinh khác cùng với các cảng địa phương (loại II) khu vực sông Tiền, sông Hậu đang hoạt động, khai thác. Theo quy hoạch, cảng biển Trà Vinh sẽ xây dựng mới khu bến Định An trong bể cảng tạo bởi đê ngăn sóng của dự án nhiệt điện Duyên Hải và dự án luồng kênh Quan Chánh Bố, tiếp nhận tàu 30.000 đến 50.000 tấn hoặc lớn hơn, cùng với khu logistics sau cảng, đáp ứng năng lực thông qua năm 2030 khoảng 3,6 đến 5,4 triệu tấn/năm. Đây là cảng chính của Trà Vinh về lâu dài và cảng tổng hợp, công ten nơ tiềm năng cho tàu biển trọng tải lớn làm hàng xuất nhập khẩu trực tiếp của đồng bằng sông Cửu Long cho các tuyến nội Á và khu vực.
- Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trên các tuyến biển xa, sẽ hình thành các Trung tâm logistics để thực hiện gom hàng và tập trung tới cảng cửa ngõ quốc tế Vũng Tàu (Cái Mép - Thị Vải) qua các tuyến đường bộ, đường thủy tại khu vực.
Như vậy, sau khi thực hiện các chương trình, dự án nêu trên theo quy hoạch, các cảng biển, các tuyến luồng hàng hải trong vùng sẽ đạt được sự kết nối hợp lý, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường biển trên các tuyến biển gần, nội Á qua các cảng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo khả năng kết nối hàng hóa khu vực đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu đi biển xa tới cảng cửa ngõ quốc tế phía Nam tại Cái Mép - Thị Vải, góp phần giảm thời gian, chi phí vận chuyển, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất nhập khẩu khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
28. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị cân nhắc kế hoạch thực hiện các dự án trọng điểm về hạ tầng giao thông, cần tính toán chặt chẽ đảm bảo thực hiện tập trung, có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, đảm bảo cân đối nguồn vốn hợp lý, không tạo gánh nặng về nợ công. Đặc biệt cần loại bỏ các nhà thầu Trung Quốc, bởi vì họ bỏ thầu giá thấp, thi công kéo dài thời gian, đội giá thành công trình gấp đôi, chất lượng công trình không đảm bảo.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT-KHĐT- ngày 16/1/2017 )
29. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Đề nghị Chính phủ quan tâm sớm đầu tư xây cầu nối hai huyện Tân Châu và Hồng Ngự (Đông Tháp) để tạo điều kiện 2 huyện và cả hai tỉnh An Giang- Đồng Tháp phát triển kinh tế.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Về kiến nghị đầu tư cầu nối hai huyện Tân Châu và Hồng Ngự (Đồng Tháp): Đây là công trình nằm trên tuyến N1, bắc qua sông Tiền có quy mô đầu tư, kinh phí đầu tư xây dựng rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, lưu lượng vận tải trên tuyến không cao nên giai đoạn trước mắt vẫn phải duy trì qua sông bằng phà. Hiện nay, UBND tỉnh An Giang đang triển khai nâng cấp bến phà Tân Châu – Hồng Ngự hiện hữu để đáp ứng nhu cầu vận tải giai đoạn trước mắt, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung. Khi điều kiện nguồn lực cho phép, nhu cầu vận tải tăng cao, Bộ GTVT sẽ nghiên cứu, tìm kiếm nguồn vốn đầu tư xây dựng cầu nối hai huyện Tân Châu và Hồng Ngự, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
30. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh An Giang rất kém đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng các tuyến đường trục chính trong tỉnh.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Đối với kiến nghị đầu tư nâng cấp, mở rộng các tuyến đường trục chính trong tỉnh: Trong thời gian vừa qua, Đảng và Chính phủ đã quan tâm tập trung nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vận tải vùng ĐBSCL trong đó đối với 04 tuyến quốc lộ đi qua địa phận tỉnh An Giang cũng đã và đang được quan tâm đầu tư. Cụ thể:
- Tuyến QL91 đã được đầu tư nâng cấp toàn tuyến từ thành phố Long Xuyên đến Tịnh Biên phù hợp với quy hoạch được duyệt, đang hoàn thiện thủ tục để triển khai xây dựng tuyến tránh QL91 qua thành phố Long Xuyên bằng nguồn vốn dư của Dự án kết nối Khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long.
- Đã đầu tư cơ bản hoàn thành cầu Long Bình kết nối với Campuchia, hoàn thành đầu tư nâng cấp tuyến N1 đoạn Tịnh Biên – Tri Tôn.
- Các dự án cải tạo nâng cấp toàn tuyến QL91C, nâng cấp mở rộng tuyến N1 đoạn Tân Châu – Châu Đốc đã được Bộ GTVT đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện.
- Đối với tuyến QL80, Bộ GTVT bố trí nguồn vốn hàng năm để duy tu, sửa chữa đảm bảo giao thông êm thuận trên tuyến. Đồng thời, Bộ GTVT đang triển khai đầu tư xây dựng tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi song song với QL80, cách QL80 khoảng 1,5-2km để giảm tải cho QL80 hiện hữu.
Đối với các tuyến đường trục chính trong tỉnh còn lại do địa phương quản lý và đầu tư xây dựng, đề nghị UBND tỉnh An Giang xem xét, trả lời cho cử tri được rõ.
31. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Đề nghị có dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Cần Thơ - Tịnh Biên giáp biên giới Campuchia tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Về kiến nghị đầu tư tuyến cao tốc Cần Thơ - Tịnh Biên:
Theo quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, khu vực phía Nam có quy hoạch tuyến cao tốc trục ngang Châu Đốc (An Giang) – Cần Thơ – Sóc Trăng với chiều dài 200km, quy mô 04 làn, trong đó tiến trình đầu tư của tuyến cao tốc nêu trên sau năm 2030. Hiện nay, tuyến QL91 đã được đầu tư nâng cấp trước mắt đáp ứng được nhu cầu vận tải trên tuyến hành lang vận tải từ Cần Thơ đến Tịnh Biên. Do vậy, căn cứ vào điều kiện nguồn lực và nhu cầu vận tải trong tương lai, Bộ GTVT sẽ thực hiện việc đầu tư xây dựng tuyến cao tốc từ Cần Thơ – Châu Đốc theo quy hoạch được duyệt.
32. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Đề nghị sớm đầu tư xây dựng cầu Thuận Giang (Phú Tân-Chợ Mới) tạo thuận lợi phát triển kinh tế các huyện cù lao.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Về kiến nghị đầu tư xây dựng cầu Thuận Giang bắc qua sông Vàm Nao nối huyện Chợ Mới với Huyện Phú Tân: Bộ GTVT thống nhất về sự cần thiết đầu tư xây dựng công trình này để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại, thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT không thể đầu tư cho công trình này. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh An Giang chủ động cân đối nguồn vốn để triển khai thực hiện, đồng thời trả lời ý kiến của cử tri về nội dung nêu trên theo thẩm quyền.
33. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Đề nghị đầu tư đường tránh thị trấn Cái Dầu, vì đoạn Quốc lộ 91 đi ngang thị trấn đường hẹp và khu dân cư đông đúc.
Trả lời: (Tại Công văn số 528/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Về kiến nghị đầu tư tuyến tránh Cái Dầu: Dự án xây dựng tuyến tránh Cái Dầu, Quốc lộ 91, tỉnh An Giang đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về chủ trương đầu tư theo hình thức BOT tại Văn bản số 5554/VPCP-KTN ngày 25/8/2008 và giao UBND tỉnh An Giang phối hợp với Bộ GTVT triển khai thực hiện theo đúng quy định.
Bộ GTVT đã có văn bản góp ý về TKCS cho dự án (Văn bản số 10535/BGTVT-KHĐT ngày 12/12/2012), đề nghị UBND tỉnh An Giang tiếp tục nghiên cứu triển khai thực hiện và trả lời cho cử tri được rõ. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh An Giang đề xuất phương án đầu tư, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
34. Cử tri tp Cần Thơ kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tham mưu Chính phủ bố trí kinh phí đầu tư nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 80 đoạn qua thành phố Cần Thơ (hiện đang rất chật hẹp và tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông), nhằm phát huy hiệu quả đầu tư toàn tuyến Quốc lộ 80, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trả lời: (Tại Công văn số 529/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
Quốc lộ 80 qua địa phận thành phố Cần Thơ có chiều dài khoảng 28km, quy mô đường cấp IV đồng bằng, hiện nay đoạn tuyến này có lưu lượng giao thông khá cao. Tuy nhiên, do tuyến chạy dọc kênh, dân cư 2 bên tuyến tập trung rất đông, việc mở rộng đường hiện hữu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc di dời dân cư, kinh phí đầu tư rất lớn. Do vậy, Bộ GTVT đã lựa chọn phương án đi tuyến mới, đi song song và cách QL80 hiện hữu từ 1,0Km đến 2,0Km về phía Đông, quy mô cấp III đồng bằng, hiện nay đang triển khai thi công trong Dự án đầu tư xây dựng tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi. Sau khi hoàn thành dự án này, cùng với QL80 hiện hữu sẽ có năng lực thông hành 4 làn xe, đáp ứng nhu cầu vận tải trên tuyến, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL.
35. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị:Đề nghị xem xét việc vay vốn đầu tư và chất lượng thi công khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Hạ Long-Vân Đồn.
Trả lời: (Tại Công văn số 905/BGTVT-KHĐT ngày 23/1/2017 )
Hiện nay, UBND tỉnh Quảng Ninh đang thực hiện đầu tư tuyến cao tốc Hạ Long – Vân Đồn theo hình thức BOT, quy mô 4 làn xe, dự kiến hoàn thành năm 2018 nên sẽ không vay vốn ODA Trung Quốc để đầu tư. Vì vậy, Bộ GTVT hiểu rằng cử tri đề nghị cân nhắc vay vốn ODA Trung Quốc để đầu tư tuyến đường bộ cao tốc Vân Đồn – Móng Cái.
Trước đây, do nhu cầu cần thiết phải đầu tư tiếp đoạn cao tốc từ Vân Đồn – Móng Cái (khoảng 90km), Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm việc với phía Trung Quốc để nghiên cứu khoản vay ưu đãi bên mua 300 triệu USD cho dự án đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái. Tuy nhiên, do các điều kiện vay của khoản vay này kém ưu đãi và để đáp ứng tiến độ đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 10837/VPCP-KTN ngày 14/12/2016 giao UBND tỉnh Quảng Ninh là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để huy động vốn và triển khai đầu tư tuyến cao tốc Vân Đồn – Móng Cái. Hiện nay, UBND tỉnh Quảng Ninh đang lập đề xuất đầu tư dự án để lựa chọn nhà đầu tư thực hiện đầu tư tuyến đường.
36. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị:Cử tri đề nghị mở rộng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ để các phương tiện vận chuyển trọng tải lớn đến được các xã phía đông huyện Phú Xuyên vì cầu chui đường cao tốc chỉ có chiều cao 3,1m làm hạn chế các phương tiện vận chuyển, lưu thông vào các xã.
Trả lời: (Tại Công văn số 1407/BGTVT-CQLXD ngày 14/2/2017 )
Bộ Giao thông vận tải nhận được kiến nghị của cử tri thành phố Hà Nội về việc mở rộng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ để các phương tiện vận chuyển trọng tải lớn đến được các xã phía đông huyện Phú Xuyên vì cầu chui đường cao tốc chỉ có chiều cao 3,1m làm hạn chế các phương tiện vận chuyển, lưu thông vào các xã.
Liên quan đến nội dung này, Bộ GTVT xin trả lời như sau:
Hiện nay, dự án đầu tư nâng cấp tuyến cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ do Bộ GTVT đang triển khai thực hiện với quy mô mở rộng đảm bảo mỗi bên 6 làn xe cơ giới và có đường gom song hành hai bên. Theo thiết kế được duyệt, đường gom hai bên có có quy mô đường cấp VI đồng bằng Bn=3,5m, Bm=6,5m, các vị trí giao cắt với đường tỉnh, đường của địa phương đã có hệ thống cầu vượt đảm bảo tĩnh không tối thiểu H=4,75m hoặc hầm chui dân sinh với khẩu độ tĩnh không từ 2,75 đến 3,60m. Hệ thống cầu vượt, hầm chui dân sinh đã được đầu tư cơ bản hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu lưu thông của nhân dân địa phương trong thời gian qua.
Theo quy hoạch được duyệt, UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ đoạn qua địa phận huyện Thường Tín, Phú Xuyên (Quyết định số 633/QĐ-UBND ngày 28/01/2013 của UBND thành phố Hà Nội) với quy mô Bn=12,0-17,0m. Vì vậy, Dự án BOT Pháp Vân - Cầu Giẽ không đầu tư xây dựng đường gom đối với các đoạn tuyến cao tốc đi sát đường gom phía đông theo quy hoạch nêu trên (đoạn Km206+600-Km211.255,83), chỉ cải tạo, kết nối đường dân sinh hiện hữu theo quy mô chung của đường gom dọc tuyến để đảm bảo nhu cầu đi lại cho nhân dân địa phương. Việc mở rộng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ sẽ được UBND thành phố Hà Nội thực hiện trong dự án đầu tư xây dựng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ đoạn qua địa phận huyện Thường Tín, Phú Xuyên.
Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội có ý kiến với Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội trong việc sớm triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường gom phía đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ đoạn qua địa phận huyện Thường Tín, Phú Xuyên để tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện vận tải lưu thông như kiến nghị của của cử tri thành phố Hà Nội.
37. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị:Đề nghị đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh kéo dài qua địa phận huyện Ba Vì nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng cho huyện.
Trả lời: (Tại Công văn số 709/BGTVT- 19/1/2017 ngày 19/1/2017 )
Đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa phận huyện Ba Vì, dài khoảng 31km, thuộc đoạn Đoan Hùng – Chợ Bến. Theo Nghị quyết số 66/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội về điều chỉnh một số nội dung và giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đã xác định đoạn Đoan Hùng – Chợ Bến được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, dự kiến khởi công năm 2016 và hoàn thành năm 2020 .
Thực hiện Nghị quyết số 66/2013/QH13, Bộ GTVT đã nghiên cứu lập dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Cổ Tiết – Hòa Lạc thuộc đoạn Đoan Hùng – Chợ Bến theo hình thức BOT, tuy nhiên do kinh phí đầu tư lớn (3.708 tỷ đồng) nên phương án tài chính không khả thi; Đồng thời, do nguồn vốn ngân sách do nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 hết sức hạn chế nên trước mắt chưa thể bố trí vốn thực hiện đầu tư tuyến đường.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục nghiên cứu, huy động nguồn lực để sớm đầu tư tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Ba Vì nêu trên nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng cho địa phương.
38. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm đầu tư nâng cấp quốc lộ 25, nhất là đoạn qua huyện Phú Thiện.
Trả lời: (Tại Công văn số 15760/BGTVT-30/12/2016 ngày )
Về đề nghị sớm đầu tư nâng cấp quốc lộ 25:
Quốc lộ 25 nối Gia Lai - Phú Yên dài khoảng 181 km, trong đó đoạn qua Gia Lai dài khoảng 111 km, tình hình triển khai cụ thể như sau:
- Đoạn Km99+500 - Km113 đã được đầu tư nâng cấp từ năm 2010. Tuy nhiên, đoạn tuyến mới chỉ được thảm bê tông nhựa dày 7cm và một số vị trí qua đèo Tô Na có kết cấu mái ta luy không ổn định.
- Đoạn Km21 – Km99+432 và đoạn Km113 – Km123 qua 2 tỉnh Phú Yên và Gia Lai (bao gồm đoạn qua huyện Phú Thiện): Đã được khởi công năm 2010, quy mô cấp IV đồng bằng, tổng mức đầu tư là 1.390 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Đến năm 2011, do khó khăn về vốn nên phải đình hoãn theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Dự án chỉ được thực hiện theo nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã bố trí giai đoạn đến 2015 để hoàn thành đầu tư một số đoạn cấp thiết.
- Đoạn Km123 – Km181: Hiện chưa được đầu tư nâng cấp cải tạo theo quy hoạch.
Quốc lộ 25 là tuyến đường có vai trò rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trước đây, Bộ GTVT cũng đã dự kiến trong danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho dự án. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
39. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ xây dựng mương thoát nước mưa dọc quốc lộ 19 B trên địa bàn huyện Đức Cơ nhằm khắc phục tình trạng nước mưa gây sạt lở đất, tràn vào nhà dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 675/BGTVT-VP ngày 18/1/2017 )
- Quốc lộ 19 đoạn huyện Đức Cơ - Gia Lai đã có rãnh phần lớn là rãnh đất hai bên. Trong thời gian mùa mưa năm 2016, khu vực Tây Nguyên nói chung và huyện Đức Cơ - Gia Lai nói tiêng lượng mưa lớn, kéo dài trong nhiều ngày làm cho nước tràn qua đường ở một số vị trí vào ruộng vườn nhà dân. Cục Quản lý đường bộ III - Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã thực hiện duy tu bảo dưỡng đoạn tuyến, thường xuyên nạo vét, khơi thông cỗng rãnh dọc đảm bảo thoát nước.
- Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư Dự án Tăng cường kết nối giao thông khu vực Tây Nguyên (Quốc lộ 19). Việc xây dựng hệ thống thoát nước dọc trên Quốc lộ 19 (trong đó có đoạn qua địa bàn huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai) sẽ được Bộ GTVT xem xét trong quá trình triển khai thực hiện dự án nêu trên.
40. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm đầu tư nâng cấp quốc lộ 19 đoạn qua huyện Đak Pơ.
Trả lời: (Tại Công văn số 1026/BGTVT-ĐTCT ngày 25/1/2017 )
Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư tại Quyết định số 4256/QĐ-BGTVT ngày 30/12/2016, theo đó đã bổ sung đầu tư xây dựng đoạn tuyến từ Km90+000 - Km108 QL19 thuộc huyện Đak Pơ vào dự án và đã ký thỏa thuận đầu tư để Nhà đầu tư hoàn thiện các thủ tục triển khai xây dựng dự án.
41. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị sớm thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 54 ( đoạn từ huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp đến xã Đông Bình, huyện Bình Minh , tỉnh Vĩnh Long ). Hiện nay tuyến Quốc lộ này xuống cấp và thường xuyên gây ra tai nạn giao thông, ảnh hưởng đến việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân nơi đây. Đồng thời cũng kiến nghị nên đầu tư nâng cấp đường dân sinh để đảm bảo cho các xe có trọng tải lớn được lưu thông phục vụ vận chuyển hàng hóa nông sản của nông dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 594/BGTVT-CQLXD- ngày 17/1/2017 )
Trong thời gian qua các dự án xây dựng giao thông hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng, các địa phương nơi có công trình, dự án triển khai. Tuy nhiên, tại một số dự án, công trình khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình làm hạn chế khả năng khai thác sử dụng của công trình.
Bộ GTVT luôn xác định công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tiến độ trong đầu tư xây dựng công trình giao thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đảm bảo hiệu quả đầu tư các dự án. Vừa qua, Bộ GTVT đã triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ chất lượng công trình như:
- Nâng cao năng lực, phân định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể tham gia dự án (Chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát…) trong quá trình thực hiện đầu tư nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ thực hiện từ khâu lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến thi công xây lắp.
- Rà soát, kiến nghị sửa đổi, điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật và chế độ chính sách để tăng cường công tác quản lý chất lượng và công tác lựa chọn Nhà thầu.
- Rà soát, hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ mới... đảm bảo thực hiện có chất lượng từ giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến giai đoạn thi công, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát quản lý chất lượng, góp phần đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án.
- Ban hành các quy định đánh giá kết quả thực hiện và xếp hạng, phân loại các chủ thể tham gia quá trình thực hiện các dự án: Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công và tiến hành thực hiện nghiêm túc, khách quan công tác đánh giá, xếp loại các chủ thể làm căn cứ để lựa chọn các đơn vị tham gia thực hiện dự án.
- Chủ động kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình, kiên quyết xử lý đối với các cá nhân, tổ chức có vi phạm.
- Tăng cường công tác kiểm định, giám định chất lượng tại các dự án có nghi ngờ về chất lượng để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh đảm bảo chất lượng công trình.
Đối với Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL54 thuộc tỉnh Vĩnh Long, Bộ GTVT đã giao cho đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ GTVT (Ban Quản lý đầu tư các dự án đối tác công – tư) nghiên cứu đầu tư theo hình thức đối tác công tư mà cụ thể là theo hình thức hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT). Tuy nhiên, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai đầu tư theo hình thức BOT đối với dự án mở rộng quốc lộ hiện hữu. Trong thời gian chờ chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT tạm thời ngừng triển khai dự án theo hình thức BOT, hiện nay chưa có phương án khác để triển khai dự án. Tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long, Bộ trưởng đã giao Tổng Cục Đường bộ Việt Nam rà soát, triển khai đảm bảo giao thông êm thuận trên tuyến.
42. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị:Tuyến đường cột cờ Quốc gia Lũng Cú, tỉnh Hà Giang (đường quốc lộ theo Quyết định số 1015/QĐ-BGTVT, ngày 04/4/2016 của Bộ Giao thông vận tải), có chiều dài 26 km; hiện nay lưu lượng xe lưu thông ngày càng tăng cao, thường xuyên ùn tắc. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, du lịch gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh, Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét đầu tư nâng cấp, sửa chữa, cải tạo tuyến đường này
Trả lời: (Tại Công văn số 821/BGTVT-KHĐT ngày 20/1/2017 )
Tuyến đường cột cờ Quốc gia Lũng Cú, tỉnh Hà Giang mới được chuyển lên thành quốc lộ năm 2016. Hiện nay, do các nguồn vốn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016 - 2020 là hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai tuyến đường này. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục đường bộ Việt Nam cân đối, bố trí vốn sửa chữa mặt đường để đảm bảo êm thuận cho người và phương tiện qua lại. Khi cân đối được nguồn vốn và hoàn thiện các thủ tục cần thiết theo quy định (bổ sung vào quy hoạch mạng đường bộ Việt Nam, các thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công vv…), Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư nâng cấp, cải tạo tuyến đường này.
43. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét cho chủ trương đầu tư xây dựng tuyến đường Thường Phước - Ba Nguyên thuộc địa phận của xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, nhằm nâng cao năng lực giao thông vận tải, tăng cường khả năng phòng thủ, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng khu vực biên giới Việt Nam và Campuchia.
Trả lời: (Tại Công văn số 525/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Bộ GTVT thống nhất về sự cần thiết đầu tư xây dựng tuyến đường Thường Phước - Ba Nguyên, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp nhằm nâng cao năng lực giao thông vận tải, tăng cường khả năng phòng thủ, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng khu vực biên giới Việt Nam và Campuchia. Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT không thể đầu tư cho công trình này. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Đồng Tháp chủ động cân đối nguồn vốn để triển khai thực hiện, đồng thời trả lời ý kiến của cử tri về nội dung nêu trên theo thẩm quyền.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Đồng Tháp để giải quyết các vấn đề có liên quan đến giao thông vận tải trên địa bàn Tỉnh./.
44. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri lại tiếp tục kiến nghị sớm xem xét đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án nâng cấp, sửa chữa Quốc lộ 80 đoạn Lấp Vò – Vàm Cống; sao cho có hiệu quả và đạt chất lượng.
Trả lời: (Tại Công văn số 1397/BGTVT-CQLXD ngày 14/2/2017 )
Quốc lộ 80 đoạn Km0+000 – Km50+857 đi qua các tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp được Bộ GTVT đầu tư cải tạo, nâng cấp hoàn thành năm 2011. Hiện nay, đoạn tuyến này do Cục Quản lý Đường bộ IV thực hiện chức năng quản lý nhà nước và giao cho Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng công trình 717 thực hiện nhiệm vụ bảo dưỡng thường xuyên.
Do đây là tuyến quốc lộ huyết mạch từ Tp. Hồ Chí Minh đi các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang... nên Cục Quản lý Đường bộ IV đã thường xuyên, liên tục kiểm tra đôn đốc đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm túc việc quản lý, bảo trì theo đúng quy định, đảm bảo an toàn công trình và an toàn giao thông trên tuyến.
Trong những năm gần đây, tại đoạn tuyến này không có Dự án đầu tư nâng cấp, sửa chữa lớn mà chủ yếu là công tác sửa chữa, khắc phục các hư hỏng; xây dựng bổ sung hệ thống thoát nước, hệ thống báo hiệu giao thông… để tăng cường khả năng khai thác tuyến từ nguồn vốn bảo dưỡng thường xuyên và Quỹ bảo trì đường bộ. Các công trình sửa chữa định kỳ, sửa chữa đột xuất trên đã được thi công hoàn thành, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu.
45. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị:Đề nghị đẩy nhanh tiến độ thi công Quốc lộ 54.
Trả lời: (Tại Công văn số 15702/BGTVT-CQLXD ngày 29/12/2016)
Quốc lộ 54 bắt đầu từ huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến thị xã Trà Vinh, dài 153 km, đi qua 03 tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long và Trà Vinh. Đối với đoạn qua địa phận tỉnh Đồng Tháp, Bộ GTVT đã phê duyệt và phê duyệt điều chỉnh Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 54 (giai đoạn II) để hoàn chỉnh toàn tuyến với quy mô đường cấp IV đồng bằng; Bmặt/Bnền = 9/12 m đối với các đoạn qua khu đô thị, khu đông dân cư, cụm công nghiệp; Bmặt/Bnền = 7/9 m đối với đoạn còn lại; nguồn vốn sử dụng từ ngân sách Nhà nước; giao cho Sở Giao thông Vận tải tỉnh Đồng Tháp làm Chủ đầu tư; thời gian hoàn thành Dự án là tháng 6/2017.
Trong những tháng vừa qua do tác động của thời tiết nên tiến độ công trình bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Chủ đầu tư đang chỉ đạo Tư vấn giám sát, Nhà thầu huy động nhân lực, vật tư, máy móc thiết bị triển khai thi công hoàn thành các hạng mục còn lại đến cuối tháng 12/2016, đảm bảo chất lượng công trình.
46. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị:Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ giao thông Vận tải sớm đầu tư nâng cấp Quốc lộ 30, đồng thời đề nghị bổ sung thiết kế có dãi phân cách để đảm bảo an toàn giao thông.
Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Đề nghị đầu tư nâng cấp Quốc lộ 30 tuyến Cao Lãnh- Hồng Ngự để đảm bảo lưu thông hàng hóa và an toàn giao thông vì nơi đây đường quá hẹp.
Trả lời: (Tại Công văn số 525/BGTVT- KHĐT ngày 16/1/2017 )
Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư Quốc lộ 30:
Theo Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Quốc lộ 30 từ An Hữu (Tiền Giang) đến cửa khẩu Dinh Bà (Đồng Tháp), dài 120 km, hoàn thiện nâng cấp tối thiểu đạt tiêu chuẩn đường cấp III, 2 làn xe. Trong thời gian vừa qua, Bộ GTVT đã tích cực huy động nguồn lực để triển khai đầu tư nâng cấp các tuyến Quốc lộ trong vùng, đối với Quốc lộ 30 tình hình đầu tư như sau:
- Đoạn An Hữu - Cao Lãnh (Km1+200 - Km34+230) qua địa bàn 02 tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp: Bộ GTVT đã triển khai thi công mở rộng, nâng cấp đoạn tuyến này từ tháng 4 năm 2016 theo hình thức hợp đồng BOT. Tuy nhiên, công tác triển khai còn chậm trễ do có vướng mắc về công tác GPMB (liên quan lập Khung chính sách GPMB) và việc huy động vốn vay của nhà đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực phối hợp để xử lý các vướng mắc liên quan, đẩy nhanh tiến độ theo yêu cầu của dự án.
- Đoạn Cao Lãnh – Hồng Ngự đã được Bộ GTVT đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 để trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện. Riêng tuyến tránh Hồng Ngự đã được đầu tư hoàn thành trong năm 2016.
- Đoạn Hồng Ngự - Dinh Bà đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý sử dụng nguồn vốn NSNN giai đoạn 2016-2020 để đầu tư nâng cấp, mở rộng. Hiện Sở GTVT Đồng Tháp đã hoàn thành công tác lựa chọn nhà thầu, dự kiến khởi công xây dựng trong Quý I năm 2017.
Về đề nghị bổ sung thiết kế có dải phân cách để đảm bảo an toàn giao thông, Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri và sẽ xem xét trong quá trình triển khai các dự án đảm bảo tuân thủ đúng các quy định hiện hành.
47. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị:Cử tri tiếp tục kiến nghị đàm phán với nước bạn Campuchia về ký hiệp định vận tải hành khách qua cửa khẩu quốc tế Dinh Bà.
Trả lời: (Tại Công văn số 15708/BGTVT-HTQT ngày 29/12/2017)
Hiệp định vận tải đường bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia (ký ngày 01/6/1998) và Nghị định thư thực hiện Hiệp định (ký ngày 10/10/2005) được triển khai từ cuối tháng 9/2006. Theo Hiệp định hiện tại, số lượng phương tiện thương mại (cả hành khách và hàng hóa) được phép qua lại hai nước của mỗi bên là 500 xe thông qua 7 cặp cửa khẩu, gồm 5 cặp cửa khẩu đã tổ chức thông xe gồm Mộc Bài (Tây Ninh) – Bà Vẹt (Svay Rieng), Xa Mát (Tây Ninh) - Trapeing Phlong (Tbong Khmum), Tịnh Biên (An Giang) – Phnom Den (Ta Keo), Hà Tiên (Kiên Giang) – Prek Chak (Kampot) và Hoa Lư (Bình Phước) - Trapeang Srea (Kratie); và 2 cặp cửa khẩu chưa tổ chức thông xe gồm Lệ Thanh (Gia Lai) – O Yadav (Andong Pich-Ratanakiri) và Bu Prang(Đắc Nông) - O Raing(Mundulkiri).
Nhằm tiếp tục tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động vận tải qua lại biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, Bộ GTVT đã dự thảo Nghị định thư sửa đổi, bổ sung Hiệp định và lấy ý kiến các Bộ ngành liên quan đối với dự thảo này (văn bản số 11852/BGTVT-HTQT ngày 10/10/2016).
Nội dung chính của Nghị định thư sửa đổi là cho phép phương tiện qua lại đối với tất cả các cặp khẩu quốc tế giữa hai nước, gồm cả cặp cửa khẩu Bình Hiệp (Long An) – Prayvo (Svayrieng) và cặp cửa khẩu Dinh Bà (Đồng Tháp) – Bontia Chak Cray (Pray veng) và mở rộng phạm vi đối tượng phương tiện phi thương mại (xe của các doanh nghiệp tự phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình), tăng hạn ngạch cho phương tiện thương mại.
Để triển khai được nội dung nêu trên, Bộ GTVT Việt Nam đã tổ chức đàm phán với Bộ Giao thông Công chính Campuchia từ ngày 01-02/12/2016 tại Hà Nội. Dự kiến vòng đàm phán tiếp theo sẽ tổ chức trong nửa đầu năm 2017. Bộ GTVT sẽ sớm thông tin tình hình đàm phán Nghị định thư sửa đổi đến các cơ quan liên quan.
Bộ GTVT trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp đã quan tâm, kiến nghị đối với vấn đề tạo thuận lợi vận tải Việt Nam – Campuchia góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế giữa hai tỉnh biên giới nói riêng và giữa hai nước Việt Nam – Campuchia nói chung./.
48. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị:Đề nghị sớm triển khai dự án đường Tân Tập - Long Hậu - Quốc lộ 50 - Cảng Long An.
Trả lời: (Tại Công văn số 533/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Long An, Tiền Giang nói riêng, giải tỏa phát triển công nghiệp từ Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang rất bức xúc và thực hiện chủ trương đầu tư hoàn thiện kết nối hạ tầng liên kết vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.
Kiến nghị quan tâm, cho chủ trương và hỗ trợ kinh phí giai đoạn 2017-2020 để thực hiện đầu tư các dự án giao thông nêu trên (Trục giao thông kết nối Tiền Giang-Long An-TP.HCM; Trục động lực phía Tây Nam TP.HCM; Mở rộng QL50 (đoạn từ TP.HCM-Ranh Long An); Đường tỉnh 822 (Tân Mỹ-Tân Thái); Đường tỉnh 824; Đường tỉnh 825…).
Trả lời: (Tại Công văn số 533/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
49. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị sớm triển khai thực hiện việc mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 62 qua các huyện Đồng Tháp Mười và thi công vòng xoay cao tốc trên địa bàn xã An Thạnh (Bến Lức, Long An), nếu không triển khai thực hiện thì thông báo cho người dân biết.
Trả lời: (Tại Công văn số 533/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017 )
1. Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư nâng cấp Quốc lộ 62:
Theo quy hoạch, Quốc lộ 62 bắt đầu từ Tân An đến cửa khẩu Mộc Hóa, tỉnh Long An có chiều dài khoảng 76km. Trong đó, đoạn từ Quốc lộ 1 đến Âu tầu Rạch Chanh (Km0-Km7) đã được Bộ GTVT đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 để trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện.
Đoạn tuyến còn lại từ Âu tầu Rạch Chanh đến cửa khẩu Bình Hiệp (Km7-Km76), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư theo hình thức BOT (Thông báo số 367/TB-VPCP ngày 14/11/2016 của Văn phòng Chính phủ), Bộ GTVT đang tổ chức lấy ý kiến tham vấn của Tỉnh ủy Long An, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lon An, HĐND tỉnh Long An, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô tỉnh Long An. Đến nay, Bộ GTVT đã nhận được ý kiến đồng thuận của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An (văn bản số 153/ĐĐBQH-TH ngày 26/12/2016), Hiệp hội vân tải ô tô Việt Nam (văn bản số 117/HHVT-TV ngày 28/12/2016) và Hiệp hội vận tải tỉnh Long An (văn bản số 02/NQ-HVT ngày 27/12/2016); chưa nhận được ý kiến của Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh Long An. Sau khi có được ý kiến và nhận được sự đồng thuận của tất cả các bên, Bộ GTVT sẽ khẩn trương thực hiện các bước tiếp theo theo quy định để sớm triển khai dự án.
Riêng đối với đề nghị thi công vòng xoay cao tốc trên địa bàn xã An Thạnh (Bến Lức, Long An), Bộ GTVT đã có văn bản số 802/BGTVT-KHĐT ngày 20/01/2016 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Long An về vấn đề này.
2. Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư, hỗ trợ vốn đầu tư các công trình của địa phương:
Bộ GTVT thống nhất về sự cần thiết đầu tư xây dựng các tuyến đường nêu trên để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của TP Hồ Chí Minh, tỉnh Long An nói riêng và của khu vực phía Nam nói chung. Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT không thể đầu tư cho công trình này. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Long An chủ động cân đối nguồn vốn để triển khai thực hiện, báo cáo Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính trình Chính phủ, Quốc hội hỗ trợ kinh phí giai đoạn 2017-2020 để triển khai thực hiện các dự án nêu trên.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Long An để giải quyết các vấn đề có liên quan đến giao thông vận tải trên địa bàn Tỉnh./.
50. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Xem xét mở thêm lối đi dành cho xe hỗn hợp trên Quốc lộ 1A (các đoạn đi qua trung tâm dân cư, trong đó có đoạn qua xã Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn), tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, giảm thiểu tai nạn giao thông;
Trả lời: (Tại Công văn số 1401/BGTVT-ĐTCT ngày 14/2/2017 )
Đoạn tuyến Quốc lộ 1A qua xã Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thuộc Dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn Tứ Câu - Vĩnh Điện (Km942-Km947) theo hình thức Hợp đồng BOT đã được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 993/QĐ-BGTVT ngày 16/5/2011 với quy mô nền đường 23m, gồm 4 làn xe cơ giới 4x3,5m, 2 làn xe hỗ hợp 2x2,5m, giải phân cách giữa 1x1,5m, giải an toàn 2x0,5m và lề đường 2x0,75m.
Như vậy, đoạn tuyến Quốc lộ 1A qua xã Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được đầu tư xây dựng có làn xe hỗn hợp với bề rộng 2x2,5m.
Bộ GTVT rất mong cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam chia sẻ khó khăn chung của đất nước và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ của Ủy ban nhân dân, các cơ quan, ban ngành của Tỉnh đối với ngành giao thông vận tải trong thời gian tới.
51. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Bố trí vốn để sửa chữa, nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 14G, nhằm đảm bảo an toàn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 704/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Quốc lộ 14G dài khoảng 66km, từ Hòa Vang (Đà Nẵng) đến Đông Giang ( Quảng Nam). Hiện trạng đạt tiêu chuẩn cấp V, riêng các đoạn Km0+000 - Km1+000, Km15+756 - Km16+463, Km17+134 - Km17+566, Km20+427 - Km20+898, Km24+390 - Km24+600, dài 2,95km đạt tiêu chuẩn cấp IV. Theo quy hoạch được duyệt, QL14G đạt tiêu chuẩn cấp IV, 2 làn xe. Để phù hợp theo quy hoạch được duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp dự án vào danh mục các dự án đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT. Tuy nhiên, nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam tiếp tục tìn kiếm nguồn vốn hợp pháp để triển khai dự án.
Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 18,1 tỷ đồng.
52. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Đề nghị ưu tiên đầu tư sửa chữa ngầm dốc Rùa (xã A Ting, huyện Đông Giang) và cầu Sông Vàng (xã Ba, huyện Đông Giang) để phục vụ việc đi lại cho người dân trong mùa mưa, lũ sắp đến;
Trả lời: (Tại Công văn số 928/BGTVT- KCHTngày 24/1/2017 )
- Đối với việc sửa chữa ngầm dốc Rùa (xã A Ting, huyện Đông Giang): Tại văn bản số 15635/BGTVT-KCHT ngày 28/12/2016, Bộ GTVT đã chấp thuận (trong trường hợp chưa có các dự án xây dựng cơ bản triển khai) bổ sung vào Kế hoạch bảo trì công trình đường bộ năm 2017 hạng mục công trình: Sửa chữa, cải tạo, bổ sung tăng cường các hệ thống cảnh báo an toàn giao thông tại ngầm tràn Dốc Rùa Km37+480, QL.14G qua tỉnh Quảng Nam. Quy mô: xây dựng 01 cống hộp 03 cửa BxH=(3,6x3,6)m và cải tạo nâng trắc dọc mặt đường qua cống. Kinh phí ước tính: 6,5 tỷ đồng. Đồng thời, giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tổ chức triển khai thực hiện sửa chữa công trình nêu trên.
- Đối với việc sửa chữa cầu Sông Vàng (xã Ba, huyện Đông Giang): Thời điểm năm 2013, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã bố trí vốn 1.016 triệu đồng sửa chữa để đảm bảo an toàn giao thông, an toàn khai thác cầu Sông Vàng. Do tính chất của công tác bảo trì đường bộ mang tính thường xuyên, liên tục, Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN tiếp tục theo dõi, tăng cường công tác bảo dưỡng thường xuyên nền, mặt đường, công trình trên Quốc lộ 14G trong đó có cầu Sông Vàng.
Trên đây là nội dung trả lời của Bộ GTVT về một số kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Nam sau Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV liên quan đến lĩnh vực giao thông vận tải, đề nghị Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam chuyển thông tin đến cử tri để cử tri được rõ.
53. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri huyện Núi Thành phản ánh, việc xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng – Quãng Ngãi (đoạn qua thôn Phú Quý 3, xã Tam Mỹ Đông, huyện Núi Thành) có cống chui đang xây dựng dang dỡ, gây khó khăn cho việc đi lại của người dân, lãng phí tài sản; việc thi công tại đoạn đường này không được quản lý chặt chẽ, chất lượng mặt đường kém. Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải kiểm tra, chấn chỉnh.
Trả lời: (Tại Công văn số 431/BGTVT-CQLXD ngày 12/1/2017 )
Đối với phản ánh của cử tri huyện Núi Thành về việc xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng - Quãng Ngãi đoạn qua thôn Phú Quý 3, xã Tam Mỹ Đông, huyện Núi Thành:
1.1. Về phản ánh cống chui dân sinh xây dựng dang dỡ, gây khó khăn cho việc đi lại của người dân, lãng phí tài sản:
Theo thiết kế kỹ thuật được duyệt, tại Km88+377 (theo lý trình đường cao tốc) thuộc thôn Phú Quý 3, xã Tam Mỹ Đông, huyện Núi Thành có bố trí cống chui dân sinh khẩu độ BxH = (4x3)m; vị trí xây dựng cống chui này thuộc phạm vi nền đất yếu phải xử lý, theo trình tự thi công, để đảm bảo chất lượng công trình, việc xử lý nền đất yếu phải được thực hiện trước khi xây dựng cống chui. Để đảm bảo giao thông trong thời gian thi công xử lý nền đất yếu và thi công cống chui, Nhà thầu đã thi công đường tạm có kết cấu mặt đường bằng cấp phối đá dăm. Hiện chủ đầu tư dự án đang chỉ đạo các Nhà thầu tập trung thi công để hoàn thành các gói thầu, dự án đúng tiến độ cam kết; việc thi công cống chui dân sinh tại Km88+377 nêu trên sẽ được triển khai ngay sau khi kết thúc việc xử lý nền đất yếu.
1.2. Về chất lượng thi công:
Theo báo cáo của chủ đầu tư dự án, công tác quản lý và giám sát thi công đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi nói chung, đoạn qua thôn Phú Quý 3, xã Tam Mỹ Đông, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam nói riêng đều được thực hiện đúng quy định kỹ thuật của dự án; đoạn tuyến nêu trên chưa thi công đến các lớp kết cấu mặt đường, ngoại trừ mặt đường tạm bằng cấp phối đá dăm để đảm bảo giao thông như đã nêu tại mục 1.1 ở trên.
Bộ GTVT sẽ thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời các vi phạm về chất lượng công trình (nếu có) và chỉ đạo chủ đầu tư dự án xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể liên quan theo quy định; các khiếm khuyết về chất lượng của mọi bộ phận, hạng mục công trình đều phải được khắc phục kịp thời hoặc phá đi làm lại bằng kinh phí của nhà thầu đảm đúng các yêu cầu kỹ thuật của dự án.
54. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Quan tâm hỗ trợ kinh phí đầu tư kè chống sạt lở dọc bờ sông Trường Giang điểm nối sông Thu Bồn giáp với Cửa Đại để bảo vệ cầu Cửa Đại và âu thuyền Hồng Triều (xã Duy Nghĩa, huyện Duy Xuyên)
Trả lời: (Tại Công văn số 1601/BGTVT-KHĐT ngày 20/2/2017 )
55. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Đề nghị hỗ trợ kinh phí đầu tư kè đoạn sông qua thôn An Lạc xã Duy Thành.
Trả lời: (Tại Công văn số 1601/BGTVT-KHĐT ngày 20/2/2017 )
Tuyến vận tải thủy từ cửa Kỳ Hà qua sông Trường Giang đi cửa Đại - cửa Hàn dài 116,1 km gồm: sông hàn từ ngã ba sông Cẩm Lệ - Vĩnh Điện đến cửa Hàn dài 4km, sông Vĩnh Điện từ ngã ba Thu Bồn đến ngã ba sông Hàn dài 23,4 km, sông Thu Bồn từ ngã ba Vĩnh Điện đến cửa hàn dài 21,7 km, sông Trường Giang từ ngã ba An Lạc đến cửa An Hòa dài 67 km. Đây là tuyến vận tải thủy theo trục Bắc - Nam của tỉnh Quảng Nam, góp phần vận chuyển hàng hóa, giao lưu văn hóa với thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc và Dung Quất ở phía Nam; đồng thời phát triển du lịch sinh thái, phố cổ Hội An, đồng thời thoát lũ cho địa phương. Với những lý do như trên, Bộ GTVT đã có quyết định số 1749/HKĐT ngày 04/7/1996 cho phép tiến hành chuẩn bị đầu tư dự án “nâng cấp tuyến vận tải thủy từ cửa Kỳ Hà qua sông Trường Giang đi cửa Đại - cửa Hàn” (dự án), giao Cục Đường sông Việt Nam (nay là Cục ĐTNĐ Việt Nam) làm chủ đầu tư. Cục ĐTNĐ Việt Nam đã phê duyệt dự án tại quyết định số 850/CĐS-XDCB ngày 29/4/2002 với tổng mức đầu tư 12,3 tỷ đồng, đầu tư các hạng mục: nạo vét, kè bờ, thanh thải chướng ngại vật, báo hiệu, nhà trạm... tiếp đó, ngày 15/7/2009, bộ GTVT có văn bản số 4778/BGTVT-KHĐT chấp thuận về chủ trương cho phép Cục ĐTNĐ Việt Nam tiếp tục thực hiện và điều chỉnh dự án “nâng cấp tuyến vận tải thủy từ cửa Kỳ Hà qua sông Trường Giang đi cửa Đại - cửa Hàn”. Cục ĐTNĐ việt nam đã hoàn thành điều chỉnh dự án với tổng mức đầu tư 182,6 tỷ đồng (tại thời điểm năm 2009). tuy nhiên do khó khăn về nguồn vốn nên dự án chưa triển khai thực hiện đầu tư.
Trong thời gian chưa triển khai dự án, để đảm bảo an toàn giao thông đường thủy nội địa và điều kiện phục vụ cho công tác quản lý tuyến luồng, từ năm 2003-2005, Cục ĐTNĐ Việt Nam đã thực hiện một số hạng mục bằng nguồn vốn sự nghiệp kinh tế đường sông như thanh thải cầu bê tông tam thanh, xây lắp nhà trạm quản lý đường sông Ngọc Thành và Kỳ Hà.
Trên cơ sở đề nghị của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam tại văn bản số 3891/UBND-KTN ngày 21/10/2009 và văn bản số 4766/ UBND-KTN ngày 18/12/2009, bộ GTVT đã có văn bản số 575/BGTVT-KHĐT ngày 27/01/2010 thống nhất về chủ trương việc UBND tỉnh Quảng Nam làm chủ đầu tư dự án. tài liệu, hồ sơ dự án đã được Cục ĐTNĐ Việt Nam hoàn thành bàn giao cho ban quản lý sắp xếp cư dân ven biển thuộc UBND tỉnh Quảng Nam.
Như vậy, hiện UBND tỉnh Quảng Nam là chủ đầu tư dự án “nâng cấp tuyến vận tải thủy từ cửa Kỳ Hà qua sông Trường Giang đi cửa Đại - cửa hHn”. bộ GTVT đề nghị đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Nam có ý kiến với UBND tỉnh Quảng Nam bổ sung các hạng mục được cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị nêu trên vào nội dung nghiên cứu của dự án, đồng thời nghiên cứu bố trí nguồn vốn địa phương để thực hiện. trường hợp nguồn vốn địa phương khó khăn, UBND tỉnh báo cáo thủ tướng chính phủ hỗ trợ nguồn vốn trung ương để thực hiện dự án. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với quý ủy ban trong quá trình báo cáo thủ tướng chính phủ.
Thêi gian tới, Bộ GTVT cũng sẽ tiếp tục chỉ đạo Cục ĐTNĐ Việt Nam nạo vét, khơi luồng khu vực Cửa Đại bằng nguồn vốn sự nghiệp kinh tế đường sông đảm bảo lưu thông cho tàu có trọng tải đến 800 tấn.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Quảng Nam để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn Tỉnh./.
56. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị thống nhất đầu tư Sân bay Quốc tế Chu Lai theo quy hoạch (đường băng, nhà ga, bãi đỗ sân bay) và đề nghị sớm xúc tiến đầu tư để phát triển sân bay theo hướng trung chuyển hàng hóa Quốc tế, Trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay, nhằm phát huy tiềm năng của sân bay nằm ngay trung tâm khu vực miền Trung, giữa 2 khu kinh tế lớn của cả nuớc là Chu Lai (Quảng Nam) và Dung Quất (Quảng Ngãi).
Trả lời: (Tại Công văn số 692/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Theo quy hoạch chi tiết đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 543/QĐ-TTg ngày 13/5/2008, đến năm 2015, Cảng hàng không Chu Lai được nâng cấp thành cảng hàng không quốc tế, giữ nguyên hệ thống hạ tầng cơ sở phía Tây hiện hữu, tiến hành xây dựng đồng bộ về phía Đông và đến năm 2025 sẽ đầu tư cải tạo, xây dựng đồng bộ cảng hàng không về phía Tây. Hiện nay, Cảng hàng không Chu Lai đạt cấp 4C với một đường cất hạ cánh kích thước 3.050x45m và nhà ga hành khách có công suất thiết kế khoảng 300.000 hành khách/năm.
Tuy nhiên, lượng hành khách thông qua Cảng hàng không Chu Lai trong những năm gần đây đã tăng đột biến so với công suất thiết kế của nhà ga hiện tại, năm 2016, lượng hành khách thông qua cảng là 468.442 lượt tăng 203% so với năm 2015. Để giải quyết tình trạng này, trước mắt Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) tiến hành sửa chữa, nâng cấp nhà ga hành khách cũ trong năm 2017. Bên cạnh đó, đã có một số nhà đầu tư quan tâm đề xuất đầu tư xây dựng CHK Chu Lai (trong đó có Vietjet và một số nhà đầu tư khác), Bộ GTVT đã giao Cục Hàng không Việt Nam phối hợp, hướng dẫn tạo điều kiến cho nhà đầu tư nghiên cứu lập đề xuất dự án theo quy định. Trong thời gian tới, Bộ sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Quảng Nam để xúc tiến đầu tư theo Quy hoạch đã được duyệt.
Trên đây là ý kiến của Bộ GTVT trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Nam và đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam chuyển thông tin đến cử tri được rõ.
Trả lời: (Tại Công văn số 1601/BGTVT- ngày ) ĐÃ GỘP TRẢ LỜI VÀO CÂU 54
57. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm đầu tư, thi công hoàn thành dự án nâng cấp quốc lộ 4 đoạn nối từ tỉnh Hà Giang đi tỉnh Lào Cai (do Ban quản lý dự án 6 thuộc Bộ Giao thông vận tải, làm đại diện chủ đầu tư), đã thi công dở dang từ năm 2009 đến nay vẫn chưa hoàn thành, gây lãng phí, thiệt hại ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, kinh doanh của nhân dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 821/BGTVT-KHĐT ngày 20/1/2017 )
Về việc sớm đầu tư, thi công hoàn thành Dự án nâng cấp Quốc lộ 4 đoạn nối từ tỉnh Hà Giang đi tỉnh Lào Cai: Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, Dự án phải đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện sau 2015. Hiện nay, do nguồn vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP) giai đoạn 2017 – 2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, Bộ
GTVT đang phối hợp với Bộ KHĐT xây dựng tiêu chí, sắp xếp thứ tự ưu tiên để xây dựng danh mục các dự án sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2017 - 2020 báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội thông qua để triển khai thực hiện.
58. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Dự án mở rộng Quốc lộ 1A, đoạn qua thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị thi công hệ thống cống thoát nước không đúng theo thiết kế nên không có hiệu quả sử dụng và có dấu hiệu biểu hiện tiêu cực. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải kiểm tra, chỉ đạo biện pháp khắc phục, xử lý.
Trả lời: (Tại Công văn số 1011/BGTVT- CQLXD ngày 25/1/2017 )
- Kiến nghị của cử tri nêu trên liên quan đến cống thoát nước tại Km769+00 (cách cầu Thạch Hãn về phía Bắc 800m) thuộc Dự án mở rộng QL1 đoạn từ thị xã Đông Hà - thị xã Quảng Trị đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT do Công ty CP Tập đoàn Trường Thịnh là Nhà đầu tư, Dự án được thi công xây dựng từ tháng 01/2009, hoàn thành tháng 6/2014 và được thu phí hoàn vốn từ tháng 7/2014.
- Trong quá trình khai thác, sử dụng phần hạ lưu các cống nêu trên đã được địa phương cấp đất xây dựng nhà cửa, vì vậy gây ngập úng cục bộ mỗi khi trời mưa to. UBND tỉnh Quảng Trị đã có Văn bản số 2219/UBND-CN ngày 8/7/2014 yêu cầu Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Thịnh nghiên cứu, xử lý.
- Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Thịnh đã phối hợp với UBND thị xã Quảng Trị, Hội đồng GPMB QL1 và các đơn vị có liên quan đầu tư bổ sung 02 đoạn mương dẫn để dẫn nước từ các vị trí cửa xã, tránh ngập úng, đã thi công hoàn thành tháng 12/2015. Việc triển khai thi công các công trình trên tuyến hoàn toàn được thực hiện theo đúng hồ sơ thiết kế được duyệt và đã được nghiệm thu đưa vào khai thác, chưa có dấu hiệu tiêu cực. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Nhà đầu tư Công ty CP Tập đoàn Trường Thịnh và Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan của địa phương để kiểm tra, rà soát thực tế hiện trường và giải quyết dứt điểm nội dung phản ánh của cử tri.
59. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Thôn Đông Yên 3, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi bị ngăn cách với trung tâm xã bởi sông Trà Bồng, nơi đây có hơn 250 hộ dân với hơn 1.000 nhân khẩu. Hàng năm, người dân ở đây, đặc biệt là học sinh qua lại trung tâm xã bằng cầu tre tạm bợ vào mùa nắng và bằng đò vào mùa mưa, rất nguy hiểm cho tính mạng và tài sản nhân dân. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét bổ sung Dự án cầu Đông Thạnh (bắt qua sông Trà Bồng vào thôn Đông Yên 3, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) vào Dự án xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (dự án LRAMP) để có nguồn vốn sớm triển khai xây dựng cầu, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại an toàn và phát triển sản xuất.
Trả lời: (Tại Công văn số 15571/BGTVT-KHĐT ngày 28/12/2016 )
Bộ GTVT thống nhất với cử tri tỉnh Quảng Ngãi về chủ trương xây dựng cầu Đông Thạnh (bắt qua sông Trà Bồng vào thông Đông Yên 3, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn), nhằm xóa bỏ cầu tre tạm bợ gây nguy hiểm đến tính mạng và tài sản của nhân dân khi đi qua cầu đặc biệt là các em học sinh mỗi khi phải qua cầu đến trường học, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện kết nối giao thông thông suốt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong vùng.
Dự án xây dựng cầu dân sinh và Quản lý tài sản đường địa phương (LRAMP) vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) đã được Chính phủ Việt Nam Ký Hiệp định tín dụng với WB ngày 02/7/2016 và sẽ được triển khai xây dựng các dự án thành phần từ năm 2017 trong đó có tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang phối hợp với Sở GTVT các tỉnh rà soát cập nhật danh mục cầu theo tiêu chí của dự án, báo cáo Bộ GTVT phê duyệt để thực hiện đầu tư xây dựng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Quảng Ngãi chỉ đạo Sở GTVT, chính quyền địa phương phối hợp với Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, nếu cầu Đông Thạnh đáp ứng tiêu chí của Dự án thì báo cáo Bộ GTVT bổ sung vào danh mục thực hiện đầu tư trong khuôn khổ Dự án LRAMP trên cơ sở kinh phí của tỉnh được phân bổ.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi chuyển thông tin đến cử tri được rõ. Bộ GTVT trân trọng cảm ơn ý kiến của cử tri và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm góp ý của cử tri đối với sự nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng GTVT./.
60. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đầu tư xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Đoan Hùng kết nối đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (theo hình thức BOT) có sự hỗ trợ từ vốn ngân sách của nhà nước
Trả lời: (Tại Công văn số 15573/BGTVT- ĐTCT ngày 28/12/2016 )
Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về chủ trương đầu tư xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Đoan Hùng kết nối đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Tuy nhiên trong điều kiện nguồn lực khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 9843/VPCP-KTN ngày 15/11/2016, theo đó giao Bộ GTVT làm việc với các địa phương để tìm nguồn vốn đầu tư các tuyến đường bộ theo quy hoạch. Ngày 23/12/2016, Bộ GTVT đã làm việc với tỉnh ủy tỉnh Tuyên Quang và thống nhất theo đề nghị UBND tỉnh Tuyên Quang, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Tuyên Quang là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ trì triển khai thực hiện dự án.
Bộ GTVT rất mong nhận được sự chia sẻ của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang và mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, góp ý của các cử tri để thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông trong thời gian tới.
61. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị xây dựng 02 tuyến đường dọc sông Lô, đấu nối với các tuyến Quốc lộ 37, Quốc lộ 2C, đường Hồ Chí Minh liên kết với đường cao tốc nối thành phố Tuyên Quang với cao tốc Lào Cai - Nội Bài.
Trả lời: (Tại Công văn số 825/BGTVT- KHĐTngày 20/1/2017 )
Bộ GTVT thống nhất với UBND tỉnh Tuyên Quang về sự cần thiết đầu tư các tuyến đường này. Tuy nhiên, đây là các tuyến đường do UBND tỉnh Tuyên Quang chịu trách nhiệm quản lý và đầu tư xây dựng. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Tuyên Quang chủ động cân đối nguồn vốn để đầu tư các tuyến đường này và trả lời Cử tri theo thẩm quyền.
62. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Để kết nối tuyến đường sắt quốc gia với cảng biển Nghi Sơn và nâng cao năng lực vận tải phục vụ KKT Nghi Sơn, đề nghị xem xét, đầu tư xây dựng tuyến đường sắt nhánh kết nối cảng Nghi Sơn với đường sắt Bắc - Nam với chiều dài 11,7 km theo Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 và Quy hoạch chi tiết hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc-Nam được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số 2477/QĐ-BGTVT ngày 09/7/2015
Trả lời: (Tại Công văn số 135/BGTVT-KHĐT ngày 6/1/2017 )
Như kiến nghị của cử tri đã nêu, hiện nay Quy hoạch chi tiết hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam đã định hướng cải tạo khoảng 8,8km đường sắt chính tuyến và xây dựng khoảng 11,7km đường sắt nhánh để kết nối với cảng Nghi Sơn nhằm nâng cao năng lực vận tải, phù hợp với Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt tại Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 và quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn tại Quyết định số 1364/QĐ-TTg ngày 10/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, do nguồn lực đầu tư còn nhiều khó khăn, trước mắt trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 chỉ tập trung vào một số dự án đang triển khai hoặc để đảm bảo an toàn giao thông đường sắt (như cải tạo, nâng cấp các cầu yếu, hầm yếu...) và một số nút thắt nhằm nâng cao năng lực thông qua (như đèo Khe Nét, khu gian Hòa Duyệt - Thanh Luyện...) trên tuyến đường sắt Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh hiện có. Vì vậy, việc cải tạo đoạn tuyến đường sắt qua Khu kinh tế Nghi Sơn và xây dựng tuyến đường sắt nhánh kết nối cảng Nghi Sơn như kiến nghị của cử tri chưa được xem xét ưu tiên đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Trường hợp có Nhà đầu tư quan tâm để đầu tư theo hình thức xã hội hóa, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
63. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Cử tri Bắc Ninh phản ánh đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang đoạn qua Bắc Ninh dài khoảng 25km (từ trạm thu phí gần cầu Phù Đổng đến Thành phố Bắc Ninh) chỉ có 2 làn đường, đường gom và điểm dừng đỗ đều không có, nên ô tô và xe máy phải đi chung đường. Tình trạng xe ôm, xe khách đón trả khách bừa bãi… gây mất an toàn giao thông. Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải tiếp tục xem xét, bổ sung cầu Đại Đình và Cầu Đồng Xép vào dự án đầu tư nâng cấp tuyến đường Hà Nội – Bắc Giang theo hình thức BOT và mở đường gom 2 bên nhằm hạn chế tại nạn giao thông
Trả lời: (Tại Công văn số 15570/BGTVT-ĐTCT ngày 28/12/2016 )
- Về việc đầu tư bổ sung hệ thống đường gom: Bộ GTVT đã có chủ trương bổ sung hệ thống đường gom đoạn qua tỉnh Bắc Ninh vào Dự án cải tạo, nâng cấp QL1 đoạn Hà Nội - Bắc Giang theo hình thức Hợp đồng BOT. Hiện nay, Nhà đầu tư, Tư vấn đã cơ bản hoàn thiện xong hồ sơ đầu tư bổ sung, dự kiến trình Bộ GTVT phê duyệt trong tháng 01/2017.
- Về việc bổ sung cầu Đại Đình và Đồng Xép: Sau khi đầu tư bổ sung hệ thống đường gom đoạn qua tỉnh Bắc Ninh, Tổng mức đầu tư dự án không còn đủ để tiếp tục đầu tư các cầu Đại Đình và Đồng Xép. Bộ GTVT đã giao Nhà đầu tư nghiên cứu phương án điều chỉnh TMĐT, tăng thời gian thu phí của dự án để đầu tư bổ sung 02 cầu nêu trên. Nếu điều kiện về nguồn vốn và phương án tài chính của dự án cho phép, Bộ GTVT sẽ triển khai đầu tư bổ sung 02 cầu Đại Đình và Đồng Xép trong năm 2017.
64. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị kịp thời kiểm tra, xử lý và thông báo đến cử tri rõ việc đầu tư, thi công không đồng bộ dự án nâng cấp Quốc lộ 1 (đoạn đi qua xã Xuân Tâm, xã Xuân Hòa và thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) không đảm bảo an toàn giao thông, do hệ thống cống thoát nước ở khu vực trên không đạt chất lượng.
Trả lời: (Tại Công văn số 876/BGTVT-QLXD ngày 23/1/2017 )
Để đảm bảo tính khả thi của Dự án cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết theo hình thức PPP, trong giai đoạn chuẩn bị Chính phủ đã cam kết với Ngân hàng Thế giới sẽ không đầu tư mở rộng đoạn tuyến Quốc lộ 1 song song với tuyến Dự án. Do dự án cải tạo nền, mặt đường Quốc lộ 1 đoạn Phan Thiết - Đồng Nai được triển khai cùng thời điểm, nên Bộ GTVT phê duyệt đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT với quy mô giữ nguyên bề rộng nền đường hiện tại và cải tạo cục bộ một số đoạn tuyến nhằm đạt tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng, đồng thời chỉ cải tạo tăng cường mặt đường.
Trong quá trình lập hồ sơ thiết kế và triển khai thi công Quốc lộ 1, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan rà soát kỹ lưỡng phương án thiết kế hệ thống thoát nước đảm bảo tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn thiết kế và phù hợp với thực tế dân cư hai bên tuyến. Cùng với hệ thống rãnh đã có từ trước, về cơ bản hệ thống rãnh mới đầu tư của dự án đã đảm bảo khả năng thoát nước dọc tuyến, vệ sinh môi trường và an toàn khai thác tuyến đường.
Về việc vẫn còn một số vị trí như phản ánh của cử tri, bên cạnh một số mương thoát nước cũ không còn phù hợp, việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất dọc hai bên tuyến của địa phương tăng nhanh, hiện trạng hành lang an toàn đường bộ dọc tuyến có nhiều thay đổi do một số tổ chức, cá nhân thực hiện san lấp làm nhà cửa đã gây ra hiện tượng đọng, ngập nước lề, mặt đường vào mùa mưa.
Sau khi công trình hoàn thành và đưa vào khai thác, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam (ĐBVN) tiếp tục theo dõi trong quá trình khai thác để kịp thời xử lý cho phù hợp. Tổng cục ĐBVN và Nhà đầu tư đã phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai tiến hành kiểm tra hiện trường và thống nhất đề nghị Bộ GTVT chấp thuận thực hiện đầu tư bổ sung hệ thống thoát nước tại các vị trí nêu trên. Hiện nay, Bộ GTVT đang tiến hành các thủ tục thẩm định, phê duyệt đầu tư bổ sung hệ thống thoát nước cùng việc đầu tư mở rộng nền, mặt đường để lắp đặt dải phân cách giữa hạn chế tai nạn giao thông của đoạn tuyến.
Bộ GTVT đề nghị cử tri và các cơ quan chức năng địa phương phối hợp với các cơ quan quản lý đường bộ quản lý chặt chẽ hành lang an toàn đường bộ của đoạn tuyến, đồng thời tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện để góp phần giảm thiểu hiện tượng ngập úng trong mùa mưa.
65. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm có kế hoạch đầu tư xây dựng đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh đi cửa khẩu Quốc tế Mộc Bài.
Trả lời: (Tại Công văn số 15791/BGTVT-KHĐT ngày 30/12/2017 )
Trong thời gian qua, Bộ GTVT đã tích cực làm việc với các nhà tài trợ để tìm kiếm, huy động nguồn vốn triển khai dự án, đến nay Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã đồng ý hỗ trợ nghiên cứu lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Dự án đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh – Mộc Bài để triển khai theo hình thức PPP (Biên bản ghi nhớ thống nhất nội dung Dự án Đối tác trao đổi kinh nghiệm phát triển trong lĩnh vực giao thông vận tải giữa Bộ GTVT và KOICA được ký ngày 14/6/2016).
Hiện nay, Bộ GTVT đã gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư Dự án Đối tác trao đổi kinh nghiệm phát triển (DEEP) trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Sau khi Dự án Đối tác trao đổi kinh nghiệm phát triển (DEEP) trong lĩnh vực giao thông vận tải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư, Bộ sẽ chỉ đạo các cơ quan đơn vị đẩy nhanh tiến độ lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh – Mộc Bài (phấn đấu hoàn thành trong năm 2017) làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo.
66. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Kiến nghị sớm thực hiện dự án đầu tư xây dựng sân bay Long Thành đồng thời nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất để đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng lớn của người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 15632/BGTVT- KHĐT ngày 28/12/2016)
- Đối với Dự án Cảng hàng không quốc tế (CHKQT) Long Thành:
Thực hiện Nghị quyết số 94/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đang giao Bộ GTVT và UBND tỉnh Đồng Nai lập Báo cáo nghiên cứu khả thi cho Giai đoạn 1 của Dự án và xây dựng phương án, thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư.
a) Về việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi cho giai đoạn 1 của Dự án
Chính phủ đã giao Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam làm chủ đầu tư và cho phép sử dụng nguồn vốn từ Quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp để đấu thầu tư vấn quốc tế thực hiện lập Báo cáo nghiên cứu khả thi Giai đoạn 1 của dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Hiện nay, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam đang tổ chức thi tuyển và tổ chức lấy ý kiến cộng đồng để lựa chọn phương án thiết kế kiến trúc Nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Long Thành, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 01 năm 2017. Sau khi tổ chức thi tuyển kiến trúc, các cơ quan liên quan sẽ tổ chức đấu thầu lựa chọn đơn vị tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi với thời gian lập Báo cáo nghiên cứu khả thi khoảng 16 tháng, dự kiến trình Quốc hội thông qua vào cuối năm 2018.
b) Công tác lập phương án, tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư cho Dự án
Sau khi Quốc hội có Nghị quyết thông qua chủ trương đầu tư Dự án, theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, cho phép Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai tổ chức lập quy hoạch khu tái định cư và lập dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư đồng thời với quá trình lập báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành; tiểu dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư được phê duyệt sau khi phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án.
Đến nay, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã hoàn thành công tác điều tra thông tin, xây dựng Đề án và khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư, giải quyết việc làm, tổ chức lại đời sống của người dân trong diện di dời, giải toả để thực hiện Dự án.
Để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, trên cơ sở đề xuất của Bộ Giao thông vận tải và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Thủ tướng Chính phủ đã giao Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chủ trì xây dựng cơ chế đặc thù về công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư của Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ ngành liên quan tổ chức thẩm định cơ chế đặc thù về thu hồi đất và tái định cư của Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Đối với CHKQT Tân Sơn Nhất:
Để đáp ứng nhu cầu vận tải tăng cao tại CHKQT Tân Sơn Nhất, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan đơn vị liên quan triển khai các giải pháp đồng bộ như: nghiên cứu, phân bổ điều tiết lịch bay phù hợp, giảm lưu lượng các chuyến bay đi và đến CHKQT Tân Sơn Nhất vào giờ cao điểm; áp dụng công nghệ mới trong công tác quản lý bay rút ngắn thời gian điều hành các chuyến bay, nâng tần suất chuyến bay khai thác; bên cạnh đó, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam đã tiến hành đầu tư xây dựng nâng cấp Nhà ga hành khách Quốc tế T2 – CHKQT Tân Sơn Nhất nâng tổng công suất của cảng lên 28 triệu hành khách/năm.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT, Bộ Quốc Phòng và UBND Tp. Hồ Chí Minh sẽ phối hợp triển khai một số dự án, công trình trọng điểm để nâng cao công suất và giảm tình trạng ùn tắc tại CHKQT Tân Sơn Nhất, cụ thể như sau:
- Dự án giao thông quan trọng tại khu vực xung quanh CHKQT Tân Sơn Nhất như xây dựng cầu vượt tại nút giao thông đường Trường Sơn, đường Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài và cầu vượt tại nút giao đường Nguyễn Thái Sơn, đường Nguyễn Kiệm;
- Nhà ga hành khách lưỡng dụng và Dự án mở rộng đường Phan Thúc Duyệt và đường vào Nhà ga hành khách lưỡng dụng;
- Xây dựng và mở rộng sân đỗ tàu bay dân dụng tại khu vực 21ha đất sân đỗ quân sự do Bộ Quốc phòng quản lý;
Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã giao Cục Hàng không Việt Nam nghiên cứu, lập quy hoạch điều chỉnh mở rộng tổng thể CHKQT Tân Sơn Nhất làm cơ sở cho công tác chuẩn bị đầu tư và xây dựng các công trình hạ tầng, nhà ga hành khách, đáp ứng yêu cầu nâng công suất CHKQT Tân Sơn Nhất đạt khoảng 40-50 triệu hành khách/năm.
Trên đây là ý kiến của Bộ GTVT trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Tây Ninh và đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh chuyển thông tin đến cử tri được rõ. Bộ GTVT trân trọng cảm ơn ý kiến của cử tri tỉnh Tây Ninh và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, góp ý của đại biểu, cử tri tỉnh Tây Ninh đối với sự nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải./.
67. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông Vận tải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi công các tuyến đường cao tốc, vì thực tế cho thấy đường mới đưa vào hoạt động thì lại bị xuống cấp, hư hỏng nghiêm trọng
Trả lời: (Tại Công văn số 15548/BGTVT-CQLXD ngày 27/12/2016 )
Trong thời gian qua các dự án xây dựng giao thông nói chung và dự án đường cao tốc nói riêng hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng, các địa phương nơi có công trình, dự án triển khai. Tuy nhiên, tại một số dự án, công trình khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình làm hạn chế khả năng khai thác sử dụng của công trình.
Có nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng tới chất lượng công trình, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân như: Do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên phải phân kỳ đầu tư dự án thành nhiều giai đoạn nên chưa đáp ứng được các yêu cầu sử dụng, khai thác; do công tác giải phóng mặt bằng chậm chễ, việc bàn giao mặt bằng “xôi đỗ” gây khó khăn cho việc triển khai thi công đồng loạt và kiểm soát chất lượng, đặc biệt tại nhiều đoạn tuyến phải xử lý nền đất yếu, việc bàn giao mặt bằng không kịp thời nên khó đảm bảo thời gian gia tải chờ lún; do sự tăng đột biến về lưu lượng xe và đặc biệt tải trọng trục nặng nằm ngoài kết quả dự báo nên ảnh hưởng tới chất lượng khai thác, sử dụng…
Bên cạnh các nguyên nhân khách quan nêu trên, còn nguyên nhân chủ quan là do Nhà thầu thi công, Tư vấn giám sát, Chủ đầu tư còn có lúc, có nơi chưa tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu kỹ thuật của dự án hoặc việc lựa chọn công nghệ, giải pháp thiết kế, thi công ở một số công trình chưa thực sự phù hợp. Để khắc phục các tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng, Bộ GTVT đã chỉ đạo các Cơ quan chức năng, Chủ đầu tư kiểm tra đánh giá đúng nguyên nhân, chỉ đạo khắc phục triệt để và xử lý trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia, đối với các nguyên nhân do lỗi của Nhà thầu thì Nhà thầu phải chịu hoàn toàn kinh phí khắc phục.
Bộ GTVT luôn xác định công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tiến độ trong đầu tư xây dựng công trình giao thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đảm bảo hiệu quả đầu tư các dự án. Vừa qua, Bộ GTVT đã triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ chất lượng công trình như:
- Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành của Bộ và các cơ quan tham mưu, nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ thực hiện từ khâu lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến thi công xây lắp.
- Rà soát, kiến nghị sửa đổi, điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật và chế độ chính sách để tăng cường công tác quản lý chất lượng và công tác lựa chọn Nhà thầu.
- Rà soát, hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ mới... đảm bảo thực hiện có chất lượng từ giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát-thiết kế đến giai đoạn thi công, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát quản lý chất lượng, góp phần đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án.
- Ban hành các quy định đánh giá kết quả thực hiện và xếp hạng, phân loại các chủ thể tham gia quá trình thực hiện các dự án: Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công và tiến hành thực hiện nghiêm túc, khách quan công tác đánh giá, xếp loại các chủ thể làm căn cứ để lựa chọn các đơn vị tham gia thực hiện dự án.
- Chủ động kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình, kiên quyết xử lý đối với các cá nhân, tổ chức có vi phạm.
- Tăng cường công tác kiểm định, giám định chất lượng tại các dự án có nghi ngờ về chất lượng để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh đảm bảo chất lượng công trình.
68. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua địa phận tỉnh Tây Ninh có thực hiện hay không? Vì ngừng thi công quá lâu, hiện nay cầu, đường trên tuyến này xuống cấp, gây lãng phí nghiêm trọng
Trả lời: (Tại Công văn số 15468/BGTVT-ĐTCT ngày 26/12/2016 )
Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa (Dự án) đã được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3950/QĐ-BGTVT ngày 17/12/2007 với chiều dài 84km, tổng mức đầu tư 3.389 tỷ đồng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Dự án được khởi công từ năm 2009, phần đường đã cơ bản thi công hoàn thành đắp nền K95, phần cầu đã cơ bản hoàn thành kết cấu phần dưới. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính Phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Dự án đang tạm đình hoãn.
Để phát huy hiệu quả nguồn vốn Nhà nước đã đầu tư vào Dự án, từng bước hoàn thành đường Hồ Chí Minh theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu vận tải và phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh khu vực Dự án, Bộ GTVT đã có văn bản số 5613/BGTVT-ĐTCT ngày 07/5/2015 báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư các hạng mục còn lại của Dự án sang đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT. Trên cơ sở ý kiến thống nhất của các Bộ, ngành và địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 872/TTg-KTN ngày 19/6/2015 chấp thuận chuyển đổi hình thức đầu tư các hạng mục còn lại của Dự án sang đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT.
Hiện tại, Bộ GTVT đang thẩm định, phê duyệt Đề xuất dự án và khẩn trương hoàn thiện các thủ tục liên quan theo quy định để sớm triển khai dự án theo hình thức hợp đồng BOT (dự kiến khởi công năm 2017).
69. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm khởi công xây dựng đường Quốc lộ 22B.
Trả lời: (Tại Công văn số 946/BGTVT-KHĐT ngày 24/1/2017 )
Tại buổi làm việc ngày 11/8/2016 giữa Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Lãnh đạo tỉnh Tây Ninh, hai bên đã thống nhất không đầu tư đự án nâng cấp Quốc lộ 22B theo hình thức BOT chỉ tiến hành sửa chữa cải tạo đảm bảo năng lực khai thác, an toàn giao thông để tập trung nguồn lực, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh – Mộc Bài và Gò Dầu – Tp. Tây Ninh – Xa Mát.
Để đảm bảm an toàn giao thông, khắc phục triệt để và ngăn chặn phát sinh hư hỏng các hạng mục, công trình trên tuyến Quốc lộ 22B, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam là chủ đầu tư Dự án sửa chữa, cải tạo Quốc lộ 22B với kinh phí khoảng 74,2 tỷ đồng từ nguồn Quỹ Bảo trì đường bộ Trung ương, thời gian thực hiện trong năm 2017.
70. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Quốc lộ 22B đoạn đường đối diện đường vào Công ty Cao Su Tây Ninh, ấp Đá Hàng, xã Phước Trạch, huyện Gò Dầu ở đây thường bị ngập, do cống thoát nước không thoát được gây ô nhiễm môi trường. Kiến nghị quan tâm sửa chữa, khắc phục đoạn đường này
Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Ngã tư Quốc lộ 22B, đoạn cuối từ ngã tư xã Thanh Điền đến Xóm Rẫy thuộc ấp An Điền, xã An Bình (hướng đi Sư đoàn BB5), có khúc cua bị khuất tầm nhìn, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Đề nghị ngành chức năng xem xét, làm gờ giảm tốc và gắn thiết bị hỗ trợ quan sát, để hạn chế tai nạn giao thông; mặt khác, kiến nghị nạo vét mương thoát nước đoạn từ ngã tư Trảng Lớn đến ngã ba Á Đông.
Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Đề nghị sửa chữa, khắc phục một số nắp cống bị hư hỏng, nạo vét mương thoát nước, lắp đặt đèn tín hiệu giao thông, đèn đường, gờ giảm tốc tại các chợ, khu dân cư, trường học và xử lý nghiêm việc lấn chiếm hành lang đường bộ.
Trả lời: (Tại Công văn số 952/BGTVT-KCHT ngày 24/1/2017 )
1. Để đảm bảo an toàn giao thông, xử lý các vị trí ngập nước mặt đường và hạn chế hư hỏng phát sinh đối với kết cấu mặt đường, Bộ GTVT đã cho phép cho phép triển khai Dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B từ Km0+000 đến Km84+162, với kinh phí khoảng 74 tỷ đồng, thực hiện trong năm 2017. Trong đó, sửa chữa hệ thống thoát nước dọc, bổ sung một số vị trí chưa có rãnh thoát nước, sửa chữa hư hỏng mặt đường, cầu trên tuyến và chỉnh trang, hoàn thiện hệ thống an toàn giao thông, bao gồm cọc tiêu, vạch sơn, biển báo hiệu đường bộ.
2. Đối với nội dung sửa chữa, khắc phục một số nắp cống bị hư hỏng, nạo vét mương thoát nước. Năm 2016, Bộ GTVT đã thực hiện công tác bảo trì QL.22B, sửa chữa thay thế một số tấm đan rãnh hư hỏng phát sinh mới, nạo vét định kỳ mương thoát nước một số vị trí gây ngập úng. Năm 2017, Bộ GTVT tiếp tục cho phép thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp QL.22B, trong đó tiến hành sửa chữa, cải tạo các điểm đen, nâng cao khả năng tầm nhìn cho người điều khiển phương tiện giao thông; rà soát bổ sung biển báo hiệu đường bộ theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 41:2016/BGTVT về báo hiệu đường bộ nhằm đảm bảo ATGT trên QL.22B.
3. Đối với các nội dung liên quan đến công tác bảo trì đường bộ, đảm bảo ATGT, bảo vệ hành lang ATGT đường bộ trên địa phận tỉnh Tây Ninh, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN thực hiện bảo trì đường bộ trong năm 2016, kết quả cụ thể như sau:
- Đối với việc lắp đặt đèn tín hiệu giao thông, đèn đường, gờ giảm tốc tại các chợ, khu dân cư, trường học, theo đề nghị của địa phương, đã lắp đặt mới 04 vị trí đèn tín hiệu giao thông chớp vàng; khắc phục 03 vị trí đèn tín hiệu giao thông chớp vàng bị hư hỏng; bổ sung thay thế 38 bộ biển báo trên tuyến; xử lý điểm đen tại Km37+500, QL.22;
- Công tác sơn gờ giảm tốc tại các vị trí chợ, trường học đã được xử lý tương đối đầy đủ theo các kiến nghị của địa phương;
- Đối với công tác bảo vệ hành lang ATGT đường bộ, đơn vị quản lý đường bộ thường xuyên kiểm tra nhắc nhở khi phát hiện lấn chiếm hành lang; lập biên bản vi phạm một số đối tượng không tuân thủ quy định của pháp luật;
- Về kiến nghị lắp đặt hệ thống đèn đường chiếu sáng ban đêm nhằm mục đích bảo đảm ATGT và an ninh trật tự xã hội, Bộ GTVT cho rằng là cần thiết, đặc biệt tại các đoạn tuyến có lưu lượng giao thông lớn, khu vực đô thị. Tuy nhiên, hiện nay nguồn kinh phí từ nguồn Quỹ Bảo trì đường bộ còn rất hạn chế, Bộ GTVT ưu tiên bố trí kinh phí cho sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước,... nhằm đảm bảo ATGT. Chia sẻ khó khăn với Bộ GTVT, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chỉ đạo các cơ quan chức năng trong tỉnh và chính quyền địa phương các cấp phối hợp chặt chẽ với ngành GTVT trong việc bảo vệ, giải tỏa hành lang an toàn đường bộ nhằm bảo vệ KCHT giao thông và đảm bảo ATGT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
71. Cử tri tỉnh Hải Phòng kiến nghị: Theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 24/6/2016, Dự án xây dựng cầu Hoàng Văn Thụ vượt sông Cấm sẽ được thực hiện từ năm 2016-2020, đồng thời theo quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1448/QĐ-TTg ngày 16/9/2009 và Quyết định số 2224/QĐ-UBND ngày 11/11/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng thì đến năm 2025 khu vực Cảng Hoàng Diệu - Lê Thánh Tông sẽ phải di dời về Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng. Hiện nay, Cảng Hải Phòng đã thu xếp đủ vốn để đầu tư xây dựng 03 bến đầu tiên và tiếp tục huy động từ các nguồn vốn đầu tư hợp pháp khác để đảm bảo tiến độ đầu tư các bến tiếp theo. Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải xem xét, sớm chấp thuận cho Cảng Hải Phòng được đầu tư xây dựng 06 bến tại khu vực Lạch Huyện để đảm bảo tiến độ di dời Cảng Hoàng Diệu cùng với tiến độ xây dựng cầu Hoàng Văn Thụ, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng hàng hóa qua khu vực Hải Phòng.
Trả lời: (Tại Công văn số 1041/BGTVT-KHĐT ngày 3/2/2017 )
Về đầu tư xây dựng các bến cảng tại Lạch Huyện:
- Tại buổi họp với thành phố Hải Phòng ngày 04/11/2016, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã chỉ đạo giao UBND thành phố Hải Phòng phối hợp Bộ GTVT và các cơ quan liên quan đề xuất phương án lựa chọn nhà đầu tư và thực hiện công tác đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác cảng Lạch Huyện.
- Tiếp đó, ngày 23/12/2016, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về kết quả tái cơ cấu và phương án cổ phần hóa Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã đồng ý về chủ trương giao Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) được trực tiếp đầu tư 02 bến cảng và khu dịch vụ hậu cần logistics ở khu vực cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) để thực hiện di dời cầu cảng nằm giữa trung tâm thành phố Hải Phòng theo đúng quy định của pháp luật.
- Thực hiện Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015, Bộ GTVT đã hoàn thành trình Chính phủ dự thảo Nghị định về Ban Quản lý và khai thác cảng cửa ngõ quốc tế phía Bắc dự kiến sẽ bao gồm toàn bộ khu bến cảng Lạch Huyện. Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND thành phố Hải Phòng triển khai lựa chọn nhà đầu tư và tổ chức thực hiện đầu tư các bến tiếp theo của khu bến cảng Lạch Huyện theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ sau khi Nghị định được Chính phủ ban hành.
2. Về di dời các cầu cảng của cảng Hải Phòng trên sông Cấm:
Theo Quy hoạch chi tiết phát triển nhóm cảng biển phía Bắc (nhóm 1) được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 2367/QĐ-BGTVT ngày 29/7/2016, khu bến trên sông Cấm là khu bến cảng tổng hợp có bến chuyên dùng, cho tàu trọng tải từ 5.000 đến 10.000 tấn. Trong khi khu bến Lạch Huyện là khu bến chính của cảng biển Hải Phòng, chủ yếu làm hàng tổng hợp, công ten nơ, kết hợp làm hàng trung chuyển quốc tế; tiếp nhận tàu tổng hợp trọng tải 50.000 đến 100.000 tấn, tàu công ten nơ đến 6.000 đến 8.000 TEUs; giai đoạn đến 2030 và sau 2030 tiếp nhận tàu tổng hợp trọng tải 100.000 tấn, tàu công ten nơ tới 8.000 TEUs. Do vậy, về công năng quy hoạch, khu bến cảng Lạch Huyện không phải là địa điểm để phục vụ di dời khu bến cảng Hoàng Diệu, Hải Phòng.
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện thành công mục tiêu tái cơ cấu Vinalines theo chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, hỗ trợ cho Công ty CP cảng Hải Phòng trong đầu tư xây dựng bến mới nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong việc khai thác loại hàng có giá trị, lợi nhuận thấp đang khai thác hiện nay tại cảng Hoàng Diệu, Bộ GTVT đã thành lập Tổ công tác xây dựng Đề án di dời cảng Hoàng Diệu và giao Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Công ty CP cảng Hải Phòng xây dựng Đề án di dời cảng Hoàng Diệu trong đó có nội dung báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Vinalines, Cảng Hải Phòng được giao xây dựng 02 bến công ten nơ tiếp theo cùng một số bến tổng hợp trong khu bến cảng Lạch Huyện theo quy hoạch. Sau khi hoàn thiện Đề án, Bộ GTVT sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hải Phòng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn Thành phố./.
72. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu trình Chính phủ báo cáo Quốc hội cho phép triển khai đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh để góp phần hoàn thiện hạ tầng giao thông nói chung, giảm tải cho đường bộ của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và nối các tỉnh miền núi phía bắc với Cảng cửa ngõ phía Bắc tại Hải Phòng.
Trả lời: (Tại Công văn số 140/BGTVT-KHĐT ngày 6/1/2017 )
Theo Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mạng lưới đường sắt từ Hà Nội kết nối khu vực các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng bao gồm các tuyến hiện có (Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Kép - Hạ Long) và các tuyến theo quy hoạch như sau:
- Tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dài khoảng 380km, khổ 1.435mm, tổng mức đầu tư dự kiến 158.842 tỷ đồng (có kết nối với Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng);
- Tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân dài 129km, đường lồng (khổ 1.000mm và khổ 1.435mm), tổng mức đầu tư dự kiến 10.550 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, để kết nối các các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, Quy hoạch cũng đã dự kiến xây dựng tuyến đường sắt ven biển Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh dài khoảng 120km, khổ đường 1.435mm, tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 10.116 tỷ đồng. Tuy nhiên, do nguồn lực đầu tư còn nhiều khó khăn, đến nay Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt cũng đã dự kiến nghiên cứu đầu tư các dự án nêu trên trong giai đoạn sau 2020 (trừ tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân đang được đầu tư). Vì vậy, trước mắt trong giai đoạn hiện nay, Bộ GTVT chưa triển khai nghiên cứu lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án. Trường hợp có nhà đầu tư quan tâm sớm triển khai, Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND các tỉnh và các cơ quan, đơn vị có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển các ý kiến trên để cử tri được rõ, và chia sẻ với những khó khăn của ngành GTVT; đồng thời chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan tăng cường phối hợp với Bộ GTVT trong việc triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch của ngành GTVT, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố và của cả nước./.
73. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Hiện nay lưu lượng phương tiện, hàng hóa vận chuyển trên tuyến Quốc lộ 10 ngày càng tăng mạnh, một số khu vực hiện đã quá tải. Để góp phần giảm tải cho tuyến đường bộ, cử tri đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, xem xét phê duyệt dự án nâng cấp Hành lang đường thủy số 2 (tuyến Hải Phòng - Hà Nội - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình) theo phương án đã được các địa phương đề xuất.
Trả lời: (Tại Công văn số 1071/BGTVT- KHĐT ngày 6/1/2017)
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp tuyến hành lang đường thủy số 2 (Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình) được Bộ trưởng Bộ GTVT cho phép chuẩn bị đầu tư tại Quyết định số 2561/QĐ-BGTVT ngày 04/7/2014. Ban Quản lý các dự án Đường thủy được giao quản lý Dự án.
Trên cơ sở văn bản ý kiến tham gia của các tỉnh/thành phố phạm vi Dự án (Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam) và ý kiến của đại diện các địa phương tại cuộc họp báo cáo cuối kỳ ngày 08/3/2016, Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban Quản lý các dự án Đường thủy, tư vấn Dohwa - Hàn Quốc (tư vấn lập dự án) cập nhật, bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo cuối kỳ.
- Đến nay, Dự án đã hoàn thành công tác nghiên cứu chuẩn bị đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 5.495 tỷ đồng trong đó bao gồm dự kiến vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) là 3.960 tỷ đồng (tương đương khoảng 180 triệu USD); chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng (vốn đối ứng) khoảng 1.208 tỷ đồng và vốn xã hội hóa huy động của doanh nghiệp xây dựng 03 cảng thủy nội địa (cảng Triều Dương, cảng Yên Lệnh, cảng Nam Định) là 363 tỷ đồng. Theo kết quả nghiên cứu nêu trên, để đảm bảo có thể khai thác đồng bộ, hiệu quả dự án Cải tạo, nâng cấp tuyến Hành lang đường thủy số 2 gặp khó khăn lớn trong việc cải tạo tĩnh không các cầu trong nội thành thành phố Hải Phòng, ảnh hưởng lớn đến tính khả thi và hiệu quả đầu tư của toàn bộ Dự án.
Ngoài ra, theo Luật Đầu tư công, các dự án chỉ được quyết định đầu tư khi xác định rõ về nguồn vốn, khả năng bố trí vốn. Do nguồn vốn ngân sách hạn chế, đồng thời việc xúc tiến vay vốn ODA của WB để đầu tư Dự án hiện nay là khó khả thi do trần nợ công tăng cao. Do vậy, hiện Bộ GTVT đã ghi nhận kết quả nghiên cứu của Dự án và sẽ tiếp tục tìm nguồn vốn đầu tư cho Dự án trong thời gian tới.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển ý kiến trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ thường xuyên trao đổi, phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hải Phòng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn Thành phố./.
74. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Hiện nay, nút giao ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm – Chùa Vẽ; Đường trục qua khu công nghiệp Đình Vũ; Đường vành đai I (Chùa Vẽ - Lê Thánh Tông - Hoàng Diệu) là những tuyến giao thông chính, đặc biệt quan trọng kết nối Quốc lộ 5, Quốc lộ 10, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng với các cảng biển tại Hải Phòng. Tuy nhiên, hạ tầng giao thông trên các tuyến này đang xuống cấp nghiêm trọng, lưu lượng phương tiện ngày càng lớn thường xuyên gây ùn tắc, ảnh hưởng lớn đến hoạt động vận tải hàng hóa đi các địa phương và cuộc sống của dân cư tại các khu vực này. Cử tri đề nghị nghiên cứu bố trí nguồn vốn để cải tạo, nâng cấp hạ tầng giao thông các tuyến trên để đáp ứng hoạt động vận tải hàng hóa từ Cảng biển Hải Phòng đi các địa phương, giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường sống của các khu dân cư.
Trả lời: (Tại Công văn số 722/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Theo Luật Ngân sách, các công trình: nút giao ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm - Chùa Vẽ; Đường trục qua khu công nghiệp Đình Vũ; Đường vành đai I là công trình giao thông do UBND thành phố Hải Phòng quản lý, đầu tư.
Do các công trình nêu trên có vai trò quan trọng kết nối Quốc lộ 5, Quốc lộ 10, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với các cảng biển tại Hải Phòng, nhưng hiện đã xuống cấp, lưu lượng phương tiện lớn qua lại nên thường xuyên gây ùn tắc, ảnh hưởng lớn đến hoạt động vận tải hàng hóa đi các địa phương và cuộc sống của dân cư tại các khu vực này. Vì vậy, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư nâng cấp các công trình nêu trên để đảm bảo an toàn giao thông, đáp ứng nhu cầu vận tải khu vực; đồng thời, đề nghị UBND thành phố Hải Phòng chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để nghiên cứu đầu tư các công trình trên và thông báo đến cử tri thành phố được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.
Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển ý kiến trên đến cử tri và mong sự chia sẻ của cử tri với khó khăn chung của Ngành. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hải Phòng để giải quyết các vấn đề liên quan./.
75. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị tiếp tục nghiên cứu lập Đề án đường sắt cao tốc Bắc – Nam để trình Quốc hội nghiên cứu thông qua, sớm có kế hoạch bố trí nguồn ngân sách trong giai đoạn tiếp theo để triển khai thực hiện
Trả lời: (Tại Công văn số 310/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017)
Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2014 của Ban Chấp hành TW Đảng Khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam (tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015); theo đó giai đoạn từ nay đến 2020: “Nghiên cứu phương án xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao, đường đôi khổ 1.435 mm, điện khí hóa trên trục Bắc - Nam”.
Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo Ban QLDA đường sắt tổ chức rà soát, nghiên cứu cập nhật, bổ sung để hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án làm cơ sở trình Quốc hội xem xét, thông qua chủ trương đầu tư dự án trước năm 2020 làm cơ sở để triển khai các thủ tục tiếp theo như ý kiến quan tâm của cử tri.
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển các ý kiến nêu trên để cử tri được rõ; đồng thời phối hợp chặt chẽ, đồng hành cùng với Bộ GTVT trong quá trình nghiên cứu, báo cáo chủ trương đầu tư dự án theo định hướng Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước./.
76. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị triển khai xây dựng Dự án hầm đường bộ nối từ đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư dự án.
Trả lời: (Tại Công văn số 720/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Hiện nay giao thông từ đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà được thực hiện bằng phà do thành phố Hải Phòng quản lý. Theo Luật Ngân sách, công trình hầm đường bộ nối từ đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà do UBND thành phố Hải Phòng quản lý, đầu tư.
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần nghiên cứu công trình thay thế phà để đảm bảo an toàn cho hành khách và phương tiện lưu thông từ đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà, đáp ứng nhu cầu vận tải, phát triển kinh tế - xã hội khu vực và đề nghị UBND thành phố Hải Phòng chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu chủ trương đầu tư dự án xây dựng công trình nối đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà làm cơ sở huy động nguồn lực đầu tư và thông báo đến cử tri thành phố được biết về công trình.
Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hải Phòng trong quá trình nghiên cứu, lập chủ trương đầu tư công trình nối đảo Cát Hải sang đảo Cát Bà.
77. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ và các Bộ Giao thông vận tải, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính sớm rà soát kế hoạch, bố trí nguồn kinh phí để triển khai thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn qua địa bàn thành phố Hải Phòng.
Trả lời: (Tại Công văn số 721/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017 )
Do vai trò quan trọng của QL.37 đoạn qua TP Hải Phòng, Bộ GTVT đã triển khai lập báo cáo chủ trương đầu tư dự án cải tạo, nâng cấp QL.37 đoạn qua TP Hải Phòng, chiều dài 15,26km, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, kinh phí đầu tư khoảng 825 tỷ đồng; đồng thời đã đưa dự án vào danh mục công trình đề nghị bố trí nguồn từ kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 11337/VPCP-KTTH ngày 28/12/2016 đồng ý về nguyên tắc việc sử dụng nguồn vốn dự phòng đầu tư công trung hạn 2017-2020 để bố trí triển khai dự án. Hiện nay, Bộ GTVT đang phối hợp với Sở GTVT Hải Phòng triển khai các thủ tục đầu tư theo Luật Đầu tư công để sớm triển khai thực hiện đầu tư tuyến đường.
78. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh, tuyến đường Quốc lộ 17B (đường 208 cũ, dài 12,5km từ bến phà An Dương (xã An Đồng, huyện An Dương, Hải Phòng) đến điểm giao cắt với tỉnh lộ 388 (xã Tam Kỳ, huyện Kim Thành, Hải Dương), hiện đoạn qua Thị trấn An Dương đã quá cũ nát, xuống cấp ngày càng trầm trọng gây ra những hệ lụy đối với đời sống dân sinh địa phương và làm mất an toàn giao thông. Đề nghị Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) bố trí kinh phí nâng cấp đoạn đường trên
Trả lời: (Tại Công văn số 718/BGTVT-KCHT ngày 19/1/2017)
QL.17B qua địa phận Tp. Hải Phòng dài 12,61 Km; điểm đầu Km28+890; điểm cuối Km41+500. Tình trạng đường hiện tại: nền đường Bn = 9m - 20m; mặt đường rộng Bm = 5,5m - 11m; kết cấu mặt đường láng nhựa (nâng lên quốc lộ tại Quyết định số 1982/QĐ-BGTVT ngày 27/6/2016 của Bộ GTVT); Bộ GTVT có văn bản số 11591/BGTVT-KCHT ngày 04/10/2016 giao Tổng cục ĐBNV rà soát và tổ chức tiếp nhận. Tổng cục ĐBVN đã phối hợp với Sở GTVT Hải Phòng và địa phương hoàn tất các thủ tục để tiếp nhận; Tổng cục ĐBVN đang tổng hợp, trình Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung quy hoạch QL.17B vào quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Trong khi chờ bổ sung quy hoạch và dự án đầu tư nâng cấp cải tạo; Bộ GTVT, Tổng cục ĐBVN đang xem xét, quyết định cho phép đầu tư sửa chữa các đoạn Km28+890-Km30+507; Km35+890-Km37+040, QL.17B; với tổng kinh phí 36,97 tỷ đồng; bằng nguồn vốn Quỹ Bảo trì đường bộ Trung ương; thời gian thực hiện năm 2017 (theo đề nghị của Sở GTVT Hải Phòng tại công văn số 133/TTr-SGTVT ngày 22/12/2016).
79. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị sớm đầu tư xây dựng tuyến đường quốc lộ ven biển ( từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa) đoạn qua tỉnh Thái bình vì sẽ khai thác tiềm năng ven biển ( đất đai, khí đốt, điện, than) và góp phần phòng chống biến đổi khí hậu.
Trả lời: (Tại Công văn số 872/BGTVT-KHĐT ngày 23/1/2017 )
Đường ven biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết tại Quyết định số 129/QĐ-TTg ngày 18/1/2010. Theo quy hoạch, đường ven biển đoạn qua tỉnh Thái Bình dài khoảng 44,5km, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, trong đó: 14,5km đoạn đi trùng cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh; 30km còn lại do địa phương thực hiện đầu tư.
Hiện nay, tỉnh Thái Bình đã lập xong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Thái Bình; Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ Xây dựng thẩm định nội dung báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án làm cơ sở để tỉnh Thái Bình triển khai các bước tiếp theo.
Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư tuyến đường ven biển nói chung, đoạn qua tỉnh Thái Bình nói riêng để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, tạo thuận lợi trong xử lý các tình huống ứng phó với thiên tai; đồng thời đề nghị UBND tỉnh Thái Bình chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để sớm đầu tư xây dựng các tuyến đường này.
80. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Đề nghị đầu tư kinh phí và đẩy nhanh tiến độ để sớm hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 39 đoạn qua huyện Hưng Hà thi công đã quá lâu mà chưa hoàn thành, làm mất an toàn giao thông, gây bức xúc trong nhân dân. Đây là tuyến quốc lộ chạy qua các huyện phía bắc của tỉnh Thái Bình, khi hoàn thiện sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh.
Trả lời: (Tại Công văn số 551/BGTVT-CQLXD ngày 16/1/2017)
Các công trình giao thông trên QL39 đoạn qua tỉnh Thái Bình bao gồm: Đoạn Triều Dương - Hưng Hà và Vô Hối - Diêm Điền thuộc Dự án Quản lý tài sản đường bộ sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới (Dự án VRAMP) do Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư. Dự án đã được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 3068/QĐ-BGTVT ngày 04/10/2013. Các gói thầu đã được khởi công từ ngày 15/01/2016, dự kiến hoàn thành ngày 15/7/2017.
Về tình hình triển khai thực hiện:
- Tuyến QL39 đoạn Triều Dương - Hưng Hà (Km42+714-Km64+00): Đã giải phóng mặt bằng (GPMB) được khoảng 8,5/19,9 km (3,5 km mới nhận từ tháng 11/2016), 04 cầu chưa trên tuyến đều chưa có mặt bằng để thi công. Về tiến độ: Đã thi công nền đường được 7,9/8,5km mặt bằng sạch; sản lượng toàn bộ đạt khoảng 30% khối lượng gói thầu.
- Tuyến QL39 đoạn Vô Hối - Diêm Điền (Km91-Km107+522): Đã GPMB được 9,8km/12,8km (mới nhận 4,8 km từ tháng 11/2016); đã đắp nền đạt 9,8/9,8km mặt bằng sạch; sản lượng toàn bộ đạt khoảng 35% khối lượng gói thầu.
Nhận biết được tầm quan trọng của Dự án và để đảm bảo tiến độ Dự án theo hiệp định đã ký, Bộ GTVT đã quyết liệt chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban Quản lý dự án 3 khẩn trương triển khai các gói thầu, phối hợp chặt chẽ với địa phương trong công tác GPMB. Dự án cũng đã được Lãnh đạo UBND tỉnh Thái Bình quan tâm, ứng trước một phần kinh phí (15 tỷ đồng) để đẩy nhanh công tác GPMB cho Dự án. Tuy nhiên, đến nay Dự án còn nhiều khó khăn về nguồn vốn đối ứng phục vụ công tác GPMB (mới có 63 tỷ /250 tỷ đồng), nhiều đoạn tuyến vướng mắc về GPMB gây ra tình trạng thi công xôi đỗ, ngắt quãng tiềm ẩn nguy cơ về mất an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân khu vực.
Thời gian tới, trong điều kiện còn nhiều khó khăn về nguồn vốn ngân sách, Bộ GTVT sẽ tiếp tục ưu tiên vốn đối ứng phục vụ công tác GPMB của Dự án; chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban Quản lý dự án 3 phối hợp chặt chẽ với các Ban ngành của tỉnh Thái Bình để đẩy nhanh công tác GPMB phục vụ thi công Dự án.
81. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri kiến nghị sớm nghiên cứu kế hoạch đầu tư thực hiện dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Nghệ An nhằm tạo sự thông suốt trong giao thông, vận tải giữa các tỉnh trong khu vực; đồng thời, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của khu vực miền Trung nói riêng và cả nước nói chung.
Trả lời: (Tại Công văn số 757/BGTVT-KHĐTngày 19/1/2017)
Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ GTVT đã triển khai lập, hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ chương trình đầu tư tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam đoạn Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, trong đó có đoạn từ Đà Nẵng – Nghệ An, chiều dài khoảng 271km, quy mô 4 làn xe hạn chế.
Thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 10/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020, Bộ GTVT đang xây dựng phương án đầu tư dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam đoạn Hà Nội – TP Hồ Chí Minh để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.
Sau khi có ý kiến chấp thuận chủ trương của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các địa phương liên quan hoàn thành các thủ tục đầu tư để sớm thực hiện đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam đoạn Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh.
82. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm bố trí vốn để nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 14 và Quốc lộ 14G (đi qua địa phận thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam) trong thời gian sớm nhất nhằm đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến Quốc lộ này, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội các huyện nghèo phía Tây Bắc tỉnh Quảng Nam, các tỉnh Hạ Lào với thành phố Đà Nẵng; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ Hội nghị APEC 2017 cũng như nhiều sự kiện quốc tế và trong nước sẽ diễn ra tại Đà Nẵng vào năm 2017.
Trả lời: (Tại Công văn số 755/BGTVT- KHĐT ngày 19/1/2017)
Trên địa bàn thành phố Đà Nằng chỉ có hai tuyến Quốc lộ 14B và Quốc lộ 14G, tình hình đầu tư như sau:
1. Quốc lộ 14B:
Quốc lộ 14B từ cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) đến Thạch Mỹ (Quảng Nam), dài 74 km (đoạn qua thành phố Đà Nẵng, dài 32 km, đoạn qua tỉnh Quảng Nam, dài 42 km), trong đó: Đoạn từ cảng Tiên Sa - Túy Loan, dài 24 km đã được xây dựng với tiêu chuẩn đường cấp II, 4 làn xe phù hợp theo quy hoạch được duyệt. Đoạn từ Túy Loan - Thạch Mỹ, dài 50 km, trong đó: đoạn từ Km24 - Km32 đã đạt tiêu chuẩn đường cấp III, 2 làn xe, còn lại đoạn từ Km32 - Km74 hiện nay là đường cấp IV miền núi (Bnền=9m, Bmặt=8m) phù hợp với quy hoạch đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1. Trên cơ sở đề nghị của địa phương và báo cáo của Bộ GTVT, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1726/TTg-KTN ngày 28/9/2015 cho phép điều chỉnh quy hoạch đoạn Túy Loan - cầu Hà Nha (Km23+908 - Km50) từ 2 làn xe thành 4 làn xe và đầu tư đoạn tuyến nêu trên theo hình thức BOT. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai dự án, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô Quảng Nam chưa đồng thuận với chủ trương đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Bộ GTVT đã có văn bản số 15396/BGTVT-ĐTCT ngày 23/12/2016 báo cáo Thủ tướng Chính phủ dừng triển khai dự án cải tạo, nâng cấp QL14B đoạn Túy Loan - cầu Hà Nha theo hình thức BOT.
Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 25,3 tỷ đồng.
2. Quốc lộ 14G (QL14G):
Quốc lộ 14G dài khoảng 66km, từ Hòa Vang (Đà Nẵng) đến Đông Giang ( Quảng Nam). Hiện trạng đạt tiêu chuẩn cấp V, riêng các đoạn Km0+000 - Km1+000, Km15+756 - Km16+463, Km17+134 - Km17+566, Km20+427 - Km20+898, Km24+390 - Km24+600, dài 2,95km đạt tiêu chuẩn cấp IV. Theo quy hoạch được duyệt, QL14G đạt tiêu chuẩn cấp IV, 2 làn xe. Để phù hợp theo quy hoạch được duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp dự án vào danh mục các dự án đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT. Tuy nhiên, nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND thành phố Đà Nẵng tiếp tục tìn kiếm nguồn vốn hợp pháp để triển khai dự án.
Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 18,1 tỷ đồng.
83. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục quan tâm nguồn lực đầu tư triển khai di dời Ga đường sắt Đà Nẵng ra khỏi trung tâm thành phố trong thời gian đến, nhằm giải quyết ách tắc giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 15519/BGTVT-ĐTCT ngày 27/12/2016)
Việc di dời ga đường sắt Đà Nẵng và các công trình liên quan ra khỏi trung tâm thành phố được thực hiện với mục tiêu chỉnh trang đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng và đã được xác định trong Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương tại Thông báo số 186/TB-VPCP ngày 05/5/2014 tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Đà Nẵng và nằm trong chiến lược, quy hoạch phát triển ngành giao thông vận tải đường sắt đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ GTVT.
Do nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 được Quốc hội bố trí cho Bộ GTVT là rất hạn hẹp; đối với lĩnh vực đường sắt, hiện nay Bộ GTVT đang tập trung sử dụng vốn vay từ nhà tài trợ vào các dự án có tính chất cấp bách theo chiến lược phát triển GTVT đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể phát triển GTVT đường sắt Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/02/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015); sử dụng để trả nợ xây dựng cơ bản, đầu tư vào những dự án cấp bách khác nhằm đảm bảo an toàn giao thông, nâng cao năng lực chạy tàu mà vẫn chưa được bố trí vốn.
Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Đà Nẵng ngày 28/9/2016 (Thông báo số 363/TB-VPCP ngày 04/11/2016) “đồng ý triển khai Dự án theo hình thức PPP; ga đường sắt mới phải đảm bảo đáp ứng Quy hoạch phát triển thành phố về lâu dài, nhà ga văn minh, hiện đại.”, ngày 14/11/2016 Lãnh đạo Bộ GTVT và Lãnh đạo UBND thành phố Đà Nẵng đã chủ trì buổi làm việc về di dời ga đường sắt Đà Nẵng và tái phát triển đô thị, do dự án có tổng mức đầu tư lớn cần có sự hỗ trợ vốn góp của nhà nước đảm bảo tính khả thi của dự án, các bên đã thống nhất nội dung chính sau: (i) Về xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt tại ga mới, thống nhất nghiên cứu phương án thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn từ trung ương (ngân sách hoặc ODA), tuy nhiên cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ để xem xét, chấp thuận bố trí vốn để triển khai; (ii) Về nhà ga đường sắt mới sẽ nghiên cứu thực hiện theo mô hình PPP. Bộ GTVT đang phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Đà Nẵng trong việc triển khai di dời ga Đà Nẵng và tái phát triển đô thị.
84. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri kiến nghị, Bộ Giao thông Vận tải xem xét cho mở rộng cống chui trên tuyến đường 409, đoạn đi qua địa bàn thôn Lệ Sơn 2, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi).
Trả lời: (Tại Công văn số 430/BGTVT-CQLXD ngày 12/1/2017)
1. Về việc mở rộng cống chui trên tuyến đường ĐH409:
Tại văn bản số 9747/UBND-QLĐTư ngày 21/11/2012, Ủy bản nhân dân (UBND) thành phố Đà Nẵng đã thống nhất về phương án thiết kế giao cắt giữa đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi với tuyến đường ĐH409 như sau:
- Kéo dài cầu tại Km5+650 trên đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi thêm một nhịp 21,0m, cách vị trí giao cắt giữa đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi với tuyến đường ĐH409 khoảng 90m. Dự kiến khi nâng cấp, mở rộng tuyến đường ĐH409 trong tương lai sẽ tiến hành chỉnh tuyến cục bộ để đường ĐH409 đi phía dưới đường cao tốc tại vị trí cầu Km5+650, đảm bảo tĩnh không BxH = (16,5x4,5)m; cao độ mặt đường ĐH409 tại vị trí giao cắt sau khi nâng cấp dự kiến là +5,25m (tương đương vành đai phía Nam);
- Để đảm bảo giao thông trên tuyến ĐH409, trước mắt bố trí cống chui dân sinh khẩu độ BxH = (5x3,5)m tại vị trí giao cắt hiện trạng, có cao độ phù hợp với mặt đường.
Thực tế, Chủ đầu tư dự án (Tổng công ty Đầu tư và Phát triển đường cao tốc Việt Nam) đã phê duyệt thiết kế kỹ thuật và chỉ đạo nhà thầu triển khai thi công cơ bản theo phương án đã được UBND thành phố Đà Nẵng thống nhất tại văn bản số 9747/UBND-QLĐTư nêu trên. Riêng cống chui dân sinh khẩu độ BxH = (5x3,5)m, có điều chỉnh nhỏ về vị trí (thiết kế cách vị trí giao cắt hiện trạng khoảng 12m về phía đầu tuyến) và nắn chỉnh cụ bộ một đoạn tuyến ĐH409 nhằm mục đích không làm ảnh hướng đến lưu thông trến tuyến ĐH409 hiện trạng trong quá trình thi công cống chui dân sinh này.
Ngày 23/10/2014, UBND thành phố Đà Nẵng có Quyết định số 7564/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch giao thông huyện Hoà Vang. Theo đó, tuyến đường ĐH409 cơ bản bám theo tuyến hiện trạng, nâng cấp cải tạo và mở rộng nền, mặt đường với quy mô mặt cắt ngang là Bnền = 16,5m và Bmặt = 10,5m. Như vậy, việc nắn cục bộ đoạn đường ĐH409 đi phía dưới đường cao tốc tại vị trí cầu Km5+650 theo phương án đã được UBND thành phố Đà Nẵng thống nhất không phù hợp với quy hoạch giao thông huyện Hoà Vang được UBND thành phố Đà Nẵng tại Quyết định số 7564/QĐ-UBND.
Trên cơ sở đề nghị của UBND TP Đà Nẵng tại các văn bản 6212/UBND-QLĐTư ngày 21/7/2016 và văn bản số 9107/UBND-SGTVT ngày 07/11/2016, Bộ GTVT đã chấp thuận về chủ trương bổ sung cống chui khẩu độ BxH = 2x(5,5x4,5)m tại Km5+737 (trùng với đường ĐH409 hiện trạng) tại văn bản 14511/BGTVT-CQLXD ngày 06/12/2016. Hiện cống chui dân sinh này đang được triển khai thi công.
85. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Đề nghị xây dựng các tuyến đường gom dân sinh thuộc dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân trong khu vực. Vấn đề này cử tri đã kiến nghị nhiều lần nhưng chưa thấy giải quyết. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải xem xét.
Trả lời: (Tại Công văn số 430/BGTVT-CQLXD ngày 12/1/2017)
Về kiến nghị bổ sung đường gom dân sinh:
Theo thiết kế kỹ thuật được duyệt, các vị trí đường tỉnh, đường huyện, đường dân sinh, đường nội đồng,…bị chiếm dụng hoặc bị tuyến cao tốc cắt ngang đều được cống chui dân sinh hoặc cầu vượt hoặc đường gom để hoàn trả.
Trong quá trình thi công, chủ đầu tư dự án (Tổng công ty Đầu tư và Phát triển đường cao tốc Việt Nam) đã phối hợp với các cơ quan chức năng địa phương rà soát, điều chỉnh, bổ sung thiết kế (đặc biệt là việc bổ sung đường gom dân sinh) cho phù hợp đảm bảo giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân địa phương. Cụ thể, đến thời điểm hiện tại, trên cơ sở kết quả rà soát của chủ đầu tư dự án, các kiến nghị của địa phương, Bộ GTVT đã chấp thuận bổ sung khoảng 22km đường gom, trong đó có một số đoạn đường gom thuộc đoạn tuyến qua địa bàn thành phố Đà Nẵng được Bộ GTVT chấp thuận bổ sung tại văn bản số 12045/BGTVT-CQLXD ngày 13/10/2016. Tổng số đường gom thuộc dự án sau khi bổ sung khoảng 82km.
Hiện nay, các Nhà thầu đang tập trung thi công tuyến chính, sau đó sẽ thi công đường gom để cơ bản hoàn thành toàn bộ các gói thầu vào quý II/2017.
86. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông - Vận tải sớm hoàn thành một số đoạn cống thoát nước ven Quốc lộ 1A và Quốc lộ 50 qua địa bàn huyện Cần Đước (thường xuyên ngập nước khi trời mưa, gây nguy hiểm cho người dân khi tham gia giao thông)
Trả lời: (Tại Công văn số 896/BGTVT-KCHT ngày 23/1/2017)
Trong thời gian qua, Bộ GTVT đã bố trí kinh phí để đầu tư xây dựng, sửa chữa hệ thống thoát nước trên QL.50, thuộc địa phận huyện Cần Đước, cụ thể như sau: năm 2015, 2016 xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thoát nước dọc đoạn Km26+900 - Km28+000; Năm 2017, Bộ GTVT đã cho phép xây dựng hệ thống thoát nước dọc đoạn Km28+000 - Km 30+300 (T) và sửa chữa hệ thống thoát nước dọc Km28+000 - Km 30+250 (P). Sau khi hoàn thành sửa chữa, cải tạo hệ thống thoát nước dọc trên QL.50 trên địa bàn huyền Cần Đước, việc ngấp úng trên đường bộ khi có mưa về cơ bản sẽ được khắc phục.
87. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị sớm hoàn thành một số đoạn cống thoát nước ven Quốc lộ 1A (đoạn qua huyện Bến Lức-Long An) vì hiện nay, tuyến đường chưa lắp đặt cống, mùa mưa ngập không thoát được nước, gây mất an toàn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 896/BGTVT-KCHT ngày 23/1/2017)
Do nguồn vốn bảo trì còn hạn hẹp, kết hợp với việc san lấp mặt bằng xây dựng, hệ thống thoát nước ngang và hệ thống thoát nước dọc chưa đồng bộ, nên vẫn xảy ra hiện tượng ngấp úng cục bộ trên QL.1, đoạn qua huyện Bến Lức, tỉnh Long An khi trời mưa to như kiến nghị của cử tri tỉnh Long An. Năm 2015 - 2016, trên đoạn tuyến này, Bộ GTVT đã xây dựng, sửa chữa, khôi phục khoảng 10 km cống, rãnh thoát nước dọc. Để hạn chế việc ngập úng cục bộ trên đoạn tuyến này, Bộ GTVT tiếp tục cân đối nguồn vốn hàng năm để xây dựng, sửa chữa hệ thống thoát nước trên QL.1 trên địa bàn tỉnh Long An. Đồng thời, đề nghị UBND tỉnh Long An chỉ đạo các đơn vị chức năng trong tỉnh kiểm soát chẽ việc san lấp mặt bằng, đấu nối đường nhánh vào quốc lộ; lập kế hoạch và bố trí kinh phí để xây dựng hệ thống thoát nước ngang, kết nối với hệ thống thoát nước dọc trên QL.1 nhằm đảm bảo việc thoát nước tổng thể tại khu vực trên địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long, giảm thiểu việc ngấp úng và tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện giao thông luu thông trên QL.1, đoạn đi qua địa bàn tỉnh Long An.
88. 90. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Quốc lộ 62 là tuyến chính nối thành phố Tân An với các huyện vùng Đồng Tháp Mười, kết nối nhiều tuyến đường quan trọng trong mạng lưới giao thông của tỉnh Long An như: QL1A, đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương, đường N2 (tuyến đường Hồ Chí Minh)... Đồng thời cũng là tuyến đường huyết mạch mang tầm chiến lược Quốc gia do nằm trong vùng Đồng Tháp Mười và kết nối cửa khẩu quốc tế Bình Hiệp, giao thương với Campuchia.
Tuy nhiên, do tuyến đường được đưa vào khai thác sử dụng đã lâu nên chất lượng nền mặt đường đã xuống cấp dẫn đến năng lực thông hành nhiều đoạn tuyến đã quá tải, ùn tắc và tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra. Cử tri đề nghị Bộ Giao thông và Vận tải khẩn trương nâng cấp, sửa chữa và mở rộng tuyến đường này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương và đảm bảo an toàn giao thông để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khu vực này này.
1. Đề nghị sớm triển khai thực hiện việc mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 62 qua các huyện Đồng Tháp Mười và thi công vòng xoay cao tốc trên địa bàn xã An Thạnh (Bến Lức, Long An), nếu không triển khai thực hiện thì thông báo cho người dân biết.
2. Quốc lộ 62 là tuyến chính nối thành phố Tân An với các huyện vùng Đồng Tháp Mười, kết nối nhiều tuyến đường quan trọng trong mạng lưới giao thông của tỉnh Long An như: QL1A, đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương, đường N2 (tuyến đường Hồ Chí Minh)... Đồng thời cũng là tuyến đường huyết mạch mang tầm chiến lược Quốc gia do nằm trong vùng Đồng Tháp Mười và kết nối cửa khẩu quốc tế Bình Hiệp, giao thương với Campuchia. Tuy nhiên, do tuyến đường được đưa vào khai thác sử dụng đã lâu nên chất lượng nền mặt đường đã xuống cấp dẫn đến năng lực thông hành nhiều đoạn tuyến đã quá tải, ùn tắc và tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra. Cử tri đề nghị Bộ GTVT khẩn trương nâng cấp, sửa chữa và mở rộng tuyến đường này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương và đảm bảo an toàn giao thông để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khu vực này này.
3. Đề nghị sớm triển khai dự án đường Tân Lập - Long Hậu - Quốc lộ 50 - Cảng Long An.
4. Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Long An, Tiền Giang nói riêng, giải tỏa phát triển công nghiệp từ Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang rất bức xúc và thực hiện chủ trương đầu tư hoàn thiện kết nối hạ tầng liên kết vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Kiến nghị quan tâm, cho chủ trương và hỗ trợ kinh phí giai đoạn 2017-2020 để thực hiện đầu tư các dự án giao thông nêu trên (Trục giao thông kết nối Tiền Giang - Long An -TP.HCM; Trục động lực phía Tây Nam TP.HCM; Mở rộng QL50 (đoạn từ TP.HCM-Ranh Long An); Đường tỉnh 822 (Tân Mỹ-Tân Thái); Đường tỉnh 824; Đường tỉnh 825…).
Trả lời: (Tại Công văn số 533/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
1. Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư nâng cấp Quốc lộ 62:
Theo quy hoạch, Quốc lộ 62 bắt đầu từ Tân An đến cửa khẩu Mộc Hóa, tỉnh Long An có chiều dài khoảng 76km. Trong đó, đoạn từ Quốc lộ 1 đến Âu tầu Rạch Chanh (Km0-Km7) đã được Bộ GTVT đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 để trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện.
Đoạn tuyến còn lại từ Âu tầu Rạch Chanh đến cửa khẩu Bình Hiệp (Km7-Km76), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư theo hình thức BOT (Thông báo số 367/TB-VPCP ngày 14/11/2016 của Văn phòng Chính phủ), Bộ GTVT đang tổ chức lấy ý kiến tham vấn của Tỉnh ủy Long An, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lon An, HĐND tỉnh Long An, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô tỉnh Long An. Đến nay, Bộ GTVT đã nhận được ý kiến đồng thuận của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An (văn bản số 153/ĐĐBQH-TH ngày 26/12/2016), Hiệp hội vân tải ô tô Việt Nam (văn bản số 117/HHVT-TV ngày 28/12/2016) và Hiệp hội vận tải tỉnh Long An (văn bản số 02/NQ-HVT ngày 27/12/2016); chưa nhận được ý kiến của Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh Long An. Sau khi có được ý kiến và nhận được sự đồng thuận của tất cả các bên, Bộ GTVT sẽ khẩn trương thực hiện các bước tiếp theo theo quy định để sớm triển khai dự án.
Riêng đối với đề nghị thi công vòng xoay cao tốc trên địa bàn xã An Thạnh (Bến Lức, Long An), Bộ GTVT đã có văn bản số 802/BGTVT-KHĐT ngày 20/01/2016 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Long An về vấn đề này.
2. Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư, hỗ trợ vốn đầu tư các công trình của địa phương:
Bộ GTVT thống nhất về sự cần thiết đầu tư xây dựng các tuyến đường nêu trên để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của TP Hồ Chí Minh, tỉnh Long An nói riêng và của khu vực phía Nam nói chung. Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT không thể đầu tư cho công trình này. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Long An chủ động cân đối nguồn vốn để triển khai thực hiện, báo cáo Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính trình Chính phủ, Quốc hội hỗ trợ kinh phí giai đoạn 2017-2020 để triển khai thực hiện các dự án nêu trên.
89. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị hỗ trợ đầu tư xây kè bờ sông Cần Giuộc (đoạn sạt lở tại xã Long Hậu và đoạn qua thị trấn Cần Giuộc). Đoạn sông này đã sạt lở nhiều năm, mức độ sạt lở ngày càng nghiêm trọng ảnh hưởng đến 62 hộ dân đang sinh sống ở xã Long Hậu, ảnh hưởng đến tuyến đường tỉnh 826C và gây sạt lở đoạn sông qua thị trấn Cần Giuộc.
Trả lời: (Tại Công văn số 1603/BGTVT- KHĐT ngày 20/2/2017)
- Sông Cần Giuộc thuộc tuyến đường thủy nội địa quốc gia ủy quyền cho Khu Quản lý đường thủy nội địa thành phố Hồ Chí Minh thực hiện quản lý bảo trì với tổng chiều dài 35,5 km (đoạn từ ngã 3 sông Soài Rạp đến ngã ba kênh Nước Mặn - Cần Giuộc 9,6 km đạt cấp II; đoạn từ ngã ba kênh Nước Mặn - Cần Giuộc đến ngã ba kênh Cây Khô dài 25,9 km đạt cấp III). Đoạn luồng có bờ sạt lở tại xã Long Hậu (khu vực sát đường ĐT 826C và cầu Mương Chuối) có chiều rộng trung bình 100 m - 110 m và đoạn luồng qua thị trấn Cần Giuộc có chiều rộng trung bình 120 m -130 m hiện đảm bảo chuẩn tắc luồng chạy tàu theo cấp kỹ thuật.
- Trường hợp thực hiện lập dự án đầu tư xây dựng kè bờ sông Cần Giuộc (đoạn sạt lở tại xã Long Hậu và đoạn qua thị trấn Cần Giuộc) phải tuân thủ, triển khai theo Luật Đầu tư công, cần có thời gian để triển khai các bước với trình tự thủ tục theo quy định. Mặt khác, do nguồn vốn ngân sách trung ương hiện khó khăn nên việc thực hiện đầu tư kè bờ sông Cần Giuộc bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước khó có thể thực hiện ngay. Bộ GTVT sẽ giao Cục ĐTNĐ Việt Nam phối hợp với các Sở, ngành, các đơn vị liên quan của địa phương và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định phạm vi, mức độ, nguyên nhân sạt lở, trên cơ sở đó xác định phương án, nguồn vốn sửa chữa. Nguồn vốn sự nghiệp kinh tế đường sông là hạn hẹp, được bố trí để bảo trì duy tu báo hiệu, nạo vét các đoạn cạn… trên các tuyến đường thủy của cả nước. Do vậy, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An kiến nghị với UBND Tỉnh xem xét bố trí nguồn vốn ngân sách địa phương để xây dựng kè bờ sông Cần Giuộc. Trường hợp nguồn vốn địa phương phó khăn, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ nguồn vốn trung ương để thực hiện dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với quý UBND tỉnh trong quá trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ
91. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Kiến nghị xem xét tiếp tục bố trí vốn Dự án kè đá sông Vàm Cỏ Tây giai đoạn 2 (phường 1- thành phố Tân An-tỉnh Long An) đoạn từ bến đò Diệp Mai đến bến đò Chú Tiết. Hiện dự án này đã giải phóng mặt bằng khoảng 50% hộ dân toàn tuyến và đang thi công, còn lại 50% hộ dân chưa được nhận tiền đền bù giải tỏa.
Trả lời: (Tại Công văn số 1602/BGTVT-KHĐT ngày 20/2/2017)
Dự án kè đá sông Vàm Cỏ Tây giai đoạn 2 (phường 1- thành phố Tân An-tỉnh Long An) đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An quyết định đầu tư và giao Ban Quản lý dự án của Tỉnh làm chủ đầu tư, thực hiện từ năm 2014. Do vâyy, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An có ý kiến với UBND tỉnh Long An tiếp tục bố trí vốn địa phương để triển khai thực hiện dự án. Trường hợp nguồn vốn địa phương khó khăn, bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ nguồn vốn Trung ương để thực hiện. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với quý Ủy ban trong quá trình báo cáoThủ tướng Chính phủ.
92. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị sớm đầu tư xây dựng tuyến đường Quốc lộ 6 tránh thành phố Sơn La, đảm bảo mật độ lưu thông phương tiện giao thông cũng như an toàn giao thông nội thị thành phố Sơn La.
Trả lời: (Tại Công văn số 15575/BGTVT-ĐTCT ngày 28/12/2016)
Dự án tuyến tránh TP Sơn La, tỉnh Sơn La được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT tại văn bản số 1581/TTg-KTN ngày 27/8/2014. Ngày 12/9/2014, Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt đầu tư dự án tại Quyết định số 3464/QĐ-BGTVT, trong đó trạm thu phí hoàn vốn cho dự án dự kiến đặt trên QL6 hiện hữu tại Km285+300.
Hiện nay, Dự án đang tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án. Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến của đại diện các bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội vận tải ô tô Việt nam trong Hội nghị tổng kết đánh giá công tác đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức Hợp đồng BOT và BT giai đoạn 2011-2015 do Bộ GTVT tổ chức vào tháng 7/2016, Bộ GTVT đã có văn bản 7271/BGTVT-ĐTCT ngày 27/6/2016 báo cáo Thủ tướng Chính phủ quan điểm, định hướng đầu tư theo hình thức PPP trong thời gian tới. Trong đó, đối với các dự án đầu tư theo hình thức BOT cần đảm bảo quyền lựa chọn khi tham gia giao thông của người dân và người sử dụng dịch vụ hay nói cách khác là không triển khai các dự án theo hình thức BOT đặt trạm thu phí trên đường hiện hữu.
Để đảm bảo đúng quan điểm, định hướng đầu tư theo hình thức PPP trong thời gian tới như Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ban QLDA An toàn giao thông (Bên mời thầu) đã tổ chức thương thảo với các Nhà đầu tư theo phương án đặt trạm thu phí trong phạm vi tuyến tránh. Tuy nhiên, do các Bên không thống nhất được nội dung nêu trên nên Bộ trưởng Bộ GTVT đã có Quyết định hủy đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư và dừng triển khai thực hiện Dự án theo quy định hiện hành.
Bộ GTVT ghi nhận đề xuất của cử tri và đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La về việc cần thiết phải đầu tư dự án tuyến tránh TP Sơn La, tỉnh Sơn La , Bộ GTVT sẽ tiếp tục xem xét việc đầu tư dự án vào thời điểm thích hợp khi nguồn lực cho phép.
93. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị sớm xem xét, đầu tư tuyến đường cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu bằng hình thức thu hút đầu tư phù hợp, tạo cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế, du lịch đối với huyện Mộc Châu nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung.
Trả lời: (Tại Công văn số 822/BGTVT-KHĐT ngày 20/1/2017)
Về việc sớm xem xét, đầu tư tuyến đường cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu: Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/03/2016). Trong đó, tuyến cao tốc Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên được xác định là tuyến tiềm năng. Trong quá trình triển khai Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, căn cứ nhu cầu vận tải và nguồn lực thực tế, Bộ GTVT sẽ nghiên cứu thực hiện đầu tư tuyến đường này.
94. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị đầu tư nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 279 từ Than Uyên (Lai Châu) – Quỳnh Nhai (Sơn La), là yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nối liền 3 tỉnh Sơn La – Lai Châu – Lào Cai, cũng như hình thành tuyến du lịch khép kín từ Sa Pa (Lào Cai) – Quỳnh Nhai (Sơn La).
Trả lời: (Tại Công văn số 822/BGTVT-KHĐT ngày 20/1/2017)
Về việc đầu tư nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 279 từ Than Uyên (Lai Châu) - Quỳnh Nhai (Sơn La): Do các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ dự kiến bố trí cho Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế nên chưa thể triển khai được dự án này. Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục cân đối, bố trí vốn để sửa chữa, bảo trì bảo đảm giao thông êm thuận và an toàn.
95. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị xem xét đầu tư dự án cầu bê tông dự ứng lực qua Sông Mã để đi đến trung tâm xã Bó Sinh. Xã Bó Sinh bị chia cắt bởi dòng Sông Mã, việc giao thương hàng hóa của nhân dân chủ yếu qua huyện Thuân Châu bởi việc đi lại đến trung tâm xã hiện nay phải đi qua cầu tạm (do nhân dân tự làm bắc qua sông Mã, đáy Sông rất nhiều đá tảng rất nguy hiểm đến tính mạng của nhân dân). Để có đường đến trung tâm xã, kết nối giao thông giữa đường Bó Sinh - Co Tòng với quốc lộ 12 tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội các xã đầu nguồn Sông Mã. Hiện nay số cầu cần được đầu tư của huyện Sông Mã là 89 cầu (7 cầu qua Sông Mã và 82 cầu qua suối).
Trả lời: (Tại Công văn số 556/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
Theo quy định tại Luật Giao thông đường bộ và Luật Ngân sách, Bộ GTVT chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông vận tải địa phương, các địa phương chịu trách nhiệm đầu tư phát triển, quản lý khai thác và bảo trì, vì vậy vốn đầu tư xây dựng cầu bê tông dự ứng lực qua sông Mã như cử tri đề nghị thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của Sơn La cũng như một số tỉnh miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thiếu nhiều công trình cầu nên những năm qua Chính phủ đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ các tỉnh xây dựng hệ thống GTNT trong đó có Chương trình xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 2529/QĐ-TTg TTg ngày 31/12/2015) với mục tiêu đầu tư xây dựng 4145 cầu, trong đó có 3.664 cầu cứng (dầm BTCT, thép) và 481 cầu treo với tổng mức đầu tư là 8.338,98 tỷ đồng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số thuộc 50 tỉnh/ thành. Riêng tỉnh Sơn La dự kiến được đầu tư 74 cầu/tổng mức đầu tư 220 tỷ đồng (giai đoạn 1 của Chương trình “Đầu tư xây dựng 186 cầu treo dân sinh đảm bảo ATGT trên phạm vi 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên” đã hoàn thành 14 cầu treo với tổng mức đầu tư 67 tỷ đồng trên địa bàn tỉnh Sơn La. Giai đoạn 2, tỉnh Sơn La dự kiến được đầu tư khoảng 60 cầu thông qua dự án Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (LRAMP) theo Quyết định 622/QĐ-BGTVT ngày 02/3/2016 của Bộ GTVT. Đối với đường đến trung tâm xã Bó Sinh, hiện nay người dân đang phải vượt sông Mã bằng cầu treo đã xuống cấp rất nguy hiểm, Bộ GTVT sẽ đầu tư xây dựng cầu Bản Phống (thuộc xã Bó Sinh, huyện Sông Mã) trong giai đoạn 2 của Chương trình nhằm kết nối trung tâm xã Bó Sinh với trục trung tâm huyện Sông Mã. Việc đầu tư xây dựng cầu Bản Phống sẽ giải quyết được nhu cầu đi lại hàng ngày của người dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội cho xã Bó Sinh và các xã đầu nguồn Sông Mã.
Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thành các thủ tục để triển khai Dự án, sớm hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
97. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị sớm thực hiện dự án đường tránh Quốc lộ 53 đoạn qua chợ huyện Cầu Ngang
98. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị khẩn trương đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi bắt qua sông Hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi về lưu thông, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng và cả khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
99. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải hoàn thiện các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật và báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định việc đầu tư nâng cấp Quốc lộ 53 để đáp ứng nhu cầu giao thông, giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội 02 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long.
Trả lời: (Tại Công văn số 477/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
1. Về kiến nghị đầu tư xây dựng cầu Đại Ngãi:
Ngày 12/12/2015, Bộ GTVT đã tổ chức Lễ khởi động dự án để triển khai các thủ tục đầu tư dự án theo hình thức BOT đối với Hợp phần 1 (phần cầu chính dây văng của cầu Đại Ngãi 1) và nguồn vốn Nhà nước đối với Hợp phần 2 (gồm toàn bộ phần cầu dẫn của cầu Đại Ngãi 1, cầu Đại Ngãi 2, phần đường dẫn và công tác giải phóng mặt bằng). Tuy nhiên, do khó khăn trong việc lựa chọn nhà đầu tư, việc bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước rất khó khăn, do vậy Thủ tướng Chính phủ đã cho phép nghiên cứu, tìm kiếm nguồn vốn ODA để đầu tư dự án (Thông báo số 218/TB-VPCP ngày 05/8/2016). Bộ GTVT đã có văn bản gửi Bộ KH&ĐT đề xuất dự án xây dựng cầu Đại Ngãi sử dụng vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản (văn bản số 10227/BGTVT-KHĐT ngày 31/8/2016), hiện Bộ KH&ĐT đang lấy ý kiến của các Bộ và địa phương liên quan để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan kêu gọi nguồn vốn vay ODA và hoàn thiện các thủ tục theo quy định để có thể sớm triển khai dự án.
2. Về các kiến nghị liên quan đến đầu tư Quốc lộ 53:
Tuyến tránh Quốc lộ 53 đoạn qua chợ huyện Cầu Ngang thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp QL53 đoạn Trà Vinh – Long Toàn, được đầu tư bằng nguồn vốn TPCP, đã được khởi công từ đầu năm 2011. Tuy nhiên, dự án nằm trong danh mục đình hoãn theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ.
Bộ GTVT đã đưa Dự án cải tạo, nâng cấp QL53 đoạn Trà Vinh – Long Toàn và xây dựng tuyến tránh QL53 qua thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, do nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 dự kiến bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với Bộ KH&ĐT xây dựng tiêu chí, rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên để lựa chọn các dự án đưa vào danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 trình Chính phủ, Quốc hội thông qua làm cơ sở triển khai thực hiện.
100. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải tiến hành đánh giá lại toàn bộ giai đoạn 1 của dự án Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu, đồng thời có biện pháp xử lý việc sạt lở 2 bờ kênh chưa kè.
Trả lời: (Tại Công văn số 1131/BGTVT- KHĐT ngày 7/2/2017)
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (Dự án) là dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với mục tiêu xây dựng luồng cho tàu biển có trọng tải đến 10.000 tấn đầy tải, tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải có thể hành hải vào, ra các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) giai đoạn 2014 - 2016. Thực hiện Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bố trí cho dự án 6.100 tỷ đồng. Đến nay, dự án đã hoàn thành đầu tư giai đoạn thông luồng kỹ thuật.
- Nguồn vốn được bố trí theo Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội chỉ bố trí vốn cho giai đoạn 1 của Dự án để đảm bảo yêu cầu thông luồng kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ Dự án. Một số khu vực xung yếu của Dự án cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời xử lý sạt lở, sụt trượt mái luồng. Dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu được thi công nạo vét với mái dốc m = 6 trên nền địa chất tương tự như đoạn luồng kênh Tắt. Tuy nhiên, trong Giai đoạn thông luồng kỹ thuật, dự án chưa được bố trí kinh phí để xây dựng hệ thống kè bảo vệ bờ đoạn kênh này. Nhu cầu tăng cường bảo vệ luồng kênh Quan Chánh Bố hiện hữu để không bị sạt lở, đầu tư xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu là thật sự cần thiết, cấp bách nhằm bảo vệ luồng tàu, đảm bảo ổn định dân sinh dọc hai bên bờ kênh.
- Nhận thức được tầm quan trọng, cấp thiết nêu trên, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về phương án sử dụng vốn dư giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án (khoảng 1.550 tỷ đồng) để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 của Dự án, tập trung các hạng mục quan trọng, cấp thiết để đảm bảo điều kiện khai thác ổn định, hiệu quả cũng như đảm bảo điều kiện an sinh của người dân khu vực Dự án bao gồm các hạng mục được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên như sau: Xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố (các vị trí hai bên bờ kênh chưa kè); Thiết lập các vị trí tránh tàu; Lắp đặt hệ thống VTS kết hợp phân luồng; Xây dựng đường dân sinh dọc kênh Tắt.
- Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 3963/VPCP-KTTH ngày 26/5/2016 truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng ý báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2014 - 2016 đã bố trí giai đoạn 1 của Dự án nhưng còn dư để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 và giao Bộ KH&ĐT tổng hợp chung trong phương án điều chỉnh kế hoạch và sử dụng vốn dư TPCP giai đoạn 2014 - 2016.
- Bộ GTVT cũng đã giao Ban Quản lý dự án Hàng hải chỉ đạo Tư vấn nghiên cứu theo dõi, đánh giá diễn biến sa bồi trên luồng tàu, đánh giá ổn định của đường bờ, kè bảo vệ bờ và đê chắn sóng để đánh giá ổn định, hiệu quả giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án, đồng thời hoàn chỉnh phương án thiết kế kỹ thuật các hạng mục giai đoạn 2, đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả toàn Dự án để có thể thực hiện ngay sau khi được giao kế hoạch vốn TPCP năm 2017.
101. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các chủ đầu tư hoàn thiện các tiêu chí, hạng mục còn lại của đường cao tốc Hà Nội- Thái Nguyên như: đường gom, các công trình liên quan để đảm bảo an toàn giao thông ( kiến nghị đã được Bộ GTVT trả lời bằng văn bản, nhưng thực tế vẫn chưa triển khai )
Trả lời: (Tại Công văn số 15586/BGTVT- CQLXD ngày 28/12/2017)
Dự án Quốc lộ 3 mới đoạn qua địa phận tỉnh Thái Nguyên đã được Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Ban Quản lý dự án 2, Nhà thầu thi công hoàn thiện và đưa vào khai thác từ ngày 13/7/2013. Dự án cũng được bàn giao cho đơn vị quản lý khai thác là Tổng cục Đường bộ Việt Nam từ ngày 01/8/2015 đối với các hạng mục thuộc tuyến cao tốc, những hạng mục còn lại như đường gom, cầu vượt, đường ngang đã được hoàn thành, đưa vào khai thác và bàn giao cho các đơn vị chức năng của địa phương quản lý, bảo trì trong năm 2016.
Việc đầu tư hoàn thiện tuyến Quốc lộ 3 mới đoạn qua địa phận tỉnh Thái Nguyên theo quy mô cao tốc, bao gồm mở rộng mặt đường đáp ứng 4 làn xe cao tốc và bổ sung hoàn thiện hệ thống đường ngang, đường gom và các công trình liên quan để đảm bảo an toàn giao thông, nâng cao năng lực khai thác tuyến đường … và đầu tư xây dựng đoạn tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn theo hình thức hợp đồng BOT đã được Bộ Giao thông vận tải báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 14944/BGTVT-ĐTCT ngày 15/12/2016. Hiện tại, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản xin ý kiến của các Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính… Sau khi dự án được phê duyệt sẽ triển khai thi công ngay để đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải cũng như phát triển kinh tế xã hội của địa phương và khu vực.
102. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri phản ánh các công trình giao thông khi đưa vào khai thác sử dụng mau xuống cấp, kém chất lượng, đề nghị có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời sớm thi công dự án nâng cấp, nới rộng tuyến Quốc lộ 54, vì hiện nay tuyến Quốc lộ này lưu lượng xe qua lại nhiều nhưng mặt đường hẹp, đang xuống cấp ảnh hưởng đến việc đi lại và lưu thông hàng hóa của người dân nơi đây
Trả lời: (Tại Công văn số 594/BGTVT-CQLXD ngày 17/1/2017)
Trong thời gian qua các dự án xây dựng giao thông hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng, các địa phương nơi có công trình, dự án triển khai. Tuy nhiên, tại một số dự án, công trình khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình làm hạn chế khả năng khai thác sử dụng của công trình.
Bộ GTVT luôn xác định công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tiến độ trong đầu tư xây dựng công trình giao thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đảm bảo hiệu quả đầu tư các dự án. Vừa qua, Bộ GTVT đã triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ chất lượng công trình như:
- Nâng cao năng lực, phân định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể tham gia dự án (Chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát…) trong quá trình thực hiện đầu tư nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ thực hiện từ khâu lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến thi công xây lắp.
- Rà soát, kiến nghị sửa đổi, điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật và chế độ chính sách để tăng cường công tác quản lý chất lượng và công tác lựa chọn Nhà thầu.
- Rà soát, hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ mới... đảm bảo thực hiện có chất lượng từ giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến giai đoạn thi công, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát quản lý chất lượng, góp phần đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án.
- Ban hành các quy định đánh giá kết quả thực hiện và xếp hạng, phân loại các chủ thể tham gia quá trình thực hiện các dự án: Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công và tiến hành thực hiện nghiêm túc, khách quan công tác đánh giá, xếp loại các chủ thể làm căn cứ để lựa chọn các đơn vị tham gia thực hiện dự án.
- Chủ động kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình, kiên quyết xử lý đối với các cá nhân, tổ chức có vi phạm.
- Tăng cường công tác kiểm định, giám định chất lượng tại các dự án có nghi ngờ về chất lượng để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh đảm bảo chất lượng công trình.
Đối với Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL54 thuộc tỉnh Vĩnh Long, Bộ GTVT đã giao cho đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ GTVT (Ban Quản lý đầu tư các dự án đối tác công – tư) nghiên cứu đầu tư theo hình thức đối tác công tư mà cụ thể là theo hình thức hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT). Tuy nhiên, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai đầu tư theo hình thức BOT đối với dự án mở rộng quốc lộ hiện hữu. Trong thời gian chờ chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT tạm thời ngừng triển khai dự án theo hình thức BOT, hiện nay chưa có phương án khác để triển khai dự án. Tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long, Bộ trưởng đã giao Tổng Cục Đường bộ Việt Nam rà soát, triển khai đảm bảo giao thông êm thuận trên tuyến.
103. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Kiến nghị Bộ GTVT sớm xem xét đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án nâng cấp, sửa chữa Quốc lộ 80 đoạn Lấp Vò – Vàm Cống.
Trả lời: (Tại Công văn số 525/BGTVT-KHĐT – ngày16/1/2017)
Đề nghị đầu tư nâng cấp Quốc lộ 30 tuyến Cao Lãnh- Hồng Ngự để đảm bảo lưu thông hàng hóa và an toàn giao thông vì nơi đây đường quá hẹp.
Trả lời: (Tại Công văn số 525/BGTVT-KHĐT – ngày16/1/2017) ĐÃ TẬP HỢP TẠI CÂU 46
104. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Đề nghị sớm hoàn thành Quốc lộ 54 nối liền tỉnh Đồng Tháp với Vĩnh Long.
Trả lời: (Tại Công văn số 15702/BGTVT- CQLXD ngày 29/12/2016)
Quốc lộ 54 bắt đầu từ huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến thị xã Trà Vinh, dài 153 km, đi qua 03 tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long và Trà Vinh. Đối với đoạn qua địa phận tỉnh Đồng Tháp, Bộ GTVT đã phê duyệt và phê duyệt điều chỉnh Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 54 (giai đoạn II) để hoàn chỉnh toàn tuyến với quy mô đường cấp IV đồng bằng; Bmặt/Bnền = 9/12 m đối với các đoạn qua khu đô thị, khu đông dân cư, cụm công nghiệp; Bmặt/Bnền = 7/9 m đối với đoạn còn lại; nguồn vốn sử dụng từ ngân sách Nhà nước; giao cho Sở Giao thông Vận tải tỉnh Đồng Tháp làm Chủ đầu tư; thời gian hoàn thành Dự án là tháng 6/2017.
Trong những tháng vừa qua do tác động của thời tiết nên tiến độ công trình bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Chủ đầu tư đang chỉ đạo Tư vấn giám sát, Nhà thầu huy động nhân lực, vật tư, máy móc thiết bị triển khai thi công hoàn thành các hạng mục còn lại đến cuối tháng 12/2016, đảm bảo chất lượng công trình.
105. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh, đường Hồ Chí Minh đoạn đi qua khu dân cư thuộc xã Phú Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình nhưng không có rãnh thoát nước gây ngập úng, ô nhiễm; đoạn đường này cũng không có đường gom dân sinh nên thường xảy ra tai nạn. Đề nghị Bộ Giao thông - Vận tải xem xét, giải quyết.
Trả lời: (Tại Công văn số 849/BGTVT- KCHT ngày 23/1/2017)
1. Hiện trạng công trình, tình hình khai thác:
- Đường Hồ Chí Minh qua địa phận xã Phú Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình dài 8,41km (từ Km1020+346-Km1028+787) được xây dựng hoàn thành đưa vào khai thác năm 2003 với quy mô đường cấp III miền núi, mặt đường bê tông nhựa, bề rộng mặt đường 7m, bề rộng nền đường 9m, tần suất thiết kế P=4%. Các đoạn Km1020+346-Km1022+300, Km1022+450-Km1024+750, Km1025+300-Km1025+750 (dài 4,7km) tuyến qua khu vực dân cư thưa, tập trung về một bên đường (bên đối diện là đồng ruộng); các đoạn còn lại (dài 3,741km) hai bên tuyến là đồng ruộng. Địa hình khu vực bằng phẳng, đường chủ yếu nền đắp với chiều cao 1-1,5m đối với đoạn qua khu vực dân cư và 2-2,5m đối với đoạn qua đồng ruộng.
- Từ khi đưa công trình vào sử dụng, công tác quản lý, BDTX công trình được thực hiện đáp ứng yêu cầu nên mặt đường êm thuận, hệ thống an toàn giao thông, công trình phòng hộ đầy đủ và tuân thủ quy định, đảm bảo an toàn giao thông, an toàn khai thác, vì vậy, lưu thông trên đoạn tuyến trong những năm qua không xẩy ra tai nạn nghiêm trọng, riêng năm 2016 không xẩy ra tai nạn giao thông.
2. Tình trạng ngập úng do không có rãnh dọc theo ý kiến phản ánh của cử tri:
- Đoạn tuyến qua địa phận xã Phú Thủy chủ yếu là nền đắp cao, nước từ thượng lưu theo địa hình tự nhiên về các công trình thoát nước ngang đường để thoát về hạ lưu. Thực tế, sau 13 năm đưa công trình vào khai thác, đoạn tuyến chưa xẩy ra tình trạng ngập đường gây cản trở giao thông; tuy nhiên, trong những năm gần đây mưa lớn gây ngập dềnh cục bộ khu vực dân cư nằm trong phạm vi đoạn tuyến Km1021+00-Km1022+300 (bên phải tuyến), đặc biệt là đợt lũ lịch sử năm 2016 gây ngập với chiều sâu ngập từ 1,2-1,5m (thời gian ngập khoảng 3 giờ), làm nước tràn mặt đường tại một số vị trí với chiều sâu khoảng 10cm.
- Nguyên nhân, do quá trình phát triển dân cư dọc tuyến, tình trạng làm đường ra vào, nâng cấp các đường ngang nhưng không bố trí cống thoát nước … làm thay đổi, cản trở dòng chảy (dọc tuyến) thoát nước về các cống ngang qua đường Hồ Chí Minh gây ngập dềnh khu vực dân cư bên phải tuyến.
3. Để giải quyết tình trạng ngập úng nêu trên, Bộ Giao thông vận tải:
- Giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ II phối hợp với chính quyền địa phương rà soát và xử lý các vị trí xây dựng đường ra vào, đường ngang làm cản trở dòng chảy.
- Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương phối hợp với Cục Quản lý đường bộ II trong quá trình xử lý đường ra vào, đường ngang nêu trên.
106. Cử tri tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Đề nghị sớm khởi công xây dựng cầu Đại Ngãi phục vụ cho việc thông thương trao đổi hàng hóa, đi lại của bà con trong và ngoài tỉnh, đặc biệt vào mùa mưa bão, việc qua lại phà rất nguy hiểm cho bà con, nhằm phát huy Quốc lộ 60 nối với các tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Trả lời: (Tại Công văn số 478/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
Ngày 12/12/2015, Bộ GTVT đã tổ chức Lễ khởi động dự án để triển khai các thủ tục đầu tư dự án theo hình thức BOT đối với Hợp phần 1 (phần cầu chính dây văng của cầu Đại Ngãi 1) và nguồn vốn Nhà nước đối với Hợp phần 2 (gồm toàn bộ phần cầu dẫn của cầu Đại Ngãi 1, cầu Đại Ngãi 2, phần đường dẫn và công tác giải phóng mặt bằng). Tuy nhiên, do khó khăn trong việc lựa chọn nhà đầu tư, việc bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước rất khó khăn, do vậy Thủ tướng Chính phủ đã cho phép nghiên cứu, tìm kiếm nguồn vốn ODA để đầu tư dự án (Thông báo số 218/TB-VPCP ngày 05/8/2016). Bộ GTVT đã có văn bản gửi Bộ KH&ĐT đề xuất dự án xây dựng cầu Đại Ngãi sử dụng vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản (văn bản số 10227/BGTVT-KHĐT ngày 31/8/2016), hiện Bộ KH&ĐT đang lấy ý kiến của các Bộ và địa phương liên quan để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan kêu gọi nguồn vốn vay ODA và hoàn thiện các thủ tục theo quy định để có thể sớm triển khai dự án.
107. Cử tri tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Đề nghị nâng cấp mở rộng tuyến lộ Nam Sông Hậu; Quản lộ Phụng Hiệp qua địa phận tỉnh Sóc Trăng vì hiện nay tuyến đường qua các tỉnh Hậu Giang, Bạc Liêu mặt đường hẹp, sụt lún nên tai nạn giao thông tăng cao.
Trả lời: (Tại Công văn số 478/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
Dự án cải tạo, nâng cấp tuyến Nam Sông Hậu và tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp mới được đầu tư xây dựng và hoàn thành năm 2011 với quy mô đường cấp IV đồng bằng, mặt đường láng nhựa. Hàng năm, Bộ GTVT vẫn bố trí nguồn vốn bảo trì để duy tu, sửa chữa đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
Theo dự kiến của Bộ KH&ĐT, nguồn vốn NSNN giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ cân đối cho các dự án đang triển khai dở dang, nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016-2020 Quốc hội mới thông qua chủ trương sử dụng vốn TPCP giai đoạn cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Sau khi có chủ trương cụ thể về sử dụng vốn TPCP và các tiêu chí lựa chọn dự án, Bộ GTVT sẽ sắp xếp các dự án theo thứ tự ưu tiên để trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định. Tuy nhiên khả năng cân đối bố trí nguồn vốn để đầu tư nâng cấp các tuyến nêu trên là rất khó khăn. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
108. Cử tri tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Cử tri cho rằng việc đầu tư duy tu, bảo dưỡng, chất lượng các tuyến đường giao thông chưa được quan tâm, các tuyến đường được đầu tư xây dựng trước đây đã xuống cấp nghiêm trọng. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải trình Chính phủ tiếp tục quan tâm đầu tư nâng cấp xây dựng các cầu, tuyến đường liên thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa với thành thị để tạo điều kiện nâng cao đời sống, thuận lợi trong việc sản xuất đi lại cho người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 1072/BGTVT-KCHT ngày 3/2/2017)
1. Đối với các quốc lộ: trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có 05 Quốc lộ đi qua với tổng chiều dài khoảng 245,5km, trong đó: QL.1 (61,3km), QL.60 (19,8km), QL.61B (28km), QL. NSH (101km), QL. QLPH (35,4km). Ngoài QL.1, các quốc lộ còn lại chủ yếu là kết cấu mặt đường láng nhựa. Do nguồn kinh phí Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương hạn hẹp, hàng năm chỉ bố trí được kinh phí cho công tác quản lý, bảo trì các tuyến quốc lộ nêu trên mang tính chất đảm bảo giao thông. Mặt khác, những năm gần đây lưu lượng xe lưu thông các tuyến tăng cao, cùng với biến đổi khí hậu, mưa nhiều làm cho các tuyến quốc lộ ngày càng xuống cấp.
2. Đối với các đường địa phương: trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có khoảng 5.959km đường địa phương, trong đó: Đường tỉnh là 426km; Đường đô thị là 294km, Đường huyện là 1.129km; Đường xã là 4.082km, đường chuyên dùng là 28km.
Do Sóc Trăng là một tỉnh nghèo, nhiều đồng bào dân tộc Khơ Me sinh sống; nguồn kinh phí dành cho công tác quản lý bảo trì đường địa phương hạn hẹp, kết cấu mặt đường chủ yếu là láng nhựa, hiện đã xuống cấp (đặc biệt là các tuyến đường huyện, đường xã).
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tham mưu, kiến nghị Chính phủ xem xét, bố trí vốn để đầu tư thảm BTN mặt đường các tuyến QL.61B, NSH, QLPH… và quan tâm đầu tư các cầu, tuyến đường liên thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa với thành thị để tạo điều kiện nâng cao đời sống, thuận lợi trong việc đi lại và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
109. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri phản ánh một số tuyến đường giao thông mới đưa vào sử dụng đã bị lún, nứt nhất là tuyến đường đầu tư BOT như đường cao tốc Hà Nội – Hải phòng. Cử tri đề nghị ngành giao thông cần tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng xây dựng đường giao thông; cương quyết không cho nhà đầu tư thu phí trên tuyến đường không đảm bảo chất lượng công trình.
Trả lời: (Tại Công văn số 15765/BGTVT-CQLXD ngày 30/12/2016)
Để tăng cường quản lý chất lượng các công trình xây dựng trong ngành Giao thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát định kỳ theo kế hoạch, kiểm tra đột xuất công tác quản lý chất lượng của các chủ thể tham gia xây dựng công trình và kiểm tra chất lượng các công trình xây dựng. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, bất cứ các vấn đề vi phạm về chất lượng đều bị nghiêm khắc xử lý như xử phạt hành chính, cấm tham gia đấu thầu các dự án tiếp theo…
Vì vậy, về chất lượng xây dựng công trình, đa số các dự án xây dựng giao thông hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và các vùng, các địa phương nơi có công trình, dự án triển khai nói riêng.
Song tại một số dự án, công trình vẫn còn tồn tại về công tác quản lý chất lượng, từ khâu thiết kế đến quá trình xây dựng, do vậy khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số hư hỏng cục bộ ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình sau một thời gian đưa vào sử dụng như lún, nứt mặt đường.
Các công trình có khiếm khuyết về chất lượng phần lớn do chất lượng thi công của nhà thầu, quản lý và giám sát của Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án và Tư vấn giám sát chưa nghiêm khắc.
Để khắc phục thực trạng trên, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp: Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm định chất lượng các công trình, kiên quyết xử lý các công trình có dấu hiệu yếu kém về chất lượng; những vi phạm về chất lượng của các chủ thể đã được xử lý, công bố công khai trước dư luận, do đó các tổ chức và cá nhân tham gia dự án đã chủ động tự kiểm điểm nâng cao vai trò trách nhiệm của mình, tự giác sửa chữa khắc phục các tồn tại. Để phát huy sự kiểm tra giám sát của xã hội, Bộ Giao thông vận tải đã thiết lập qui chế phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Bộ Công an, Trung ương Đoàn TNCS HCM trong việc kiểm tra, tuyên truyền, giám sát tiến độ, chất lượng các công trình giao thông; thiết lập hệ thống đường dây nóng để mọi người dân, tổ chức có thể phản ánh trực tiếp về các vấn đề liên quan đến chất lượng của các dự án.
Đối với Dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, dự án được triển khai thực hiện tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư xây dựng, trong đó có nội dung về chất lượng công trình; dự án đã được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng nghiệm thu tại Thông báo số 28/TB-HĐNTNN ngày 05/10/2016, trong đó Hội đồng đã chỉ đạo Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam (VIDIFI) tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến lún tại các vị trí tiếp giáp giữa cầu, cống chui dân sinh, cống thoát nước với đường để có giải pháp bù lún kịp thời nhằm đảm bảo chạy xe an toàn, êm thuận.
Trong quá trình khai thác của dự án, thực hiện theo yêu cầu của Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng, Bộ Giao thông vận tải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng của dự án, đặc biệt tại các vị trí phải theo dõi lún nêu trên; đồng thời chỉ đạo VIDIFI thường xuyên tiến hành quan trắc, theo dõi diễn biến lún, có giải pháp bù lún kịp thời đảm bảo chất lượng, an toàn giao thông trong quá trình khai thác của dự án.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục kiểm tra theo dõi các nội dung được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng lưu ý; kịp thời xử lý các vấn đề về chất lượng (nếu có) trong quá trình khai thác. Trong trường hợp tuyến đường không đảm bảo điều kiện chất lượng khai thác, Bộ Giao thông vận tải sẽ yêu cầu Chủ đầu tư (VIDIFI) dừng thu phí để khắc phục xử lý.
110. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm triển khai đoạn đường kết nối giữa Cái Mép-Thị Vải với đường cao tốc Bến Lức –Long Thành.
111. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm triển khai đường cao tốc Biên Hòa-Vũng Tàu. Trong trường hợp không triển khai thì cũng công bố cho nhân dân biết xóa bỏ quy hoạch để người sử dụng đất trong quy hoạch yên tâm sản xuất và sinh sống.
Trả lời: (Tại Công văn số 15767/BGTVT-KHĐT ngày 30/12/2016)
Hiện nay, việc kết nối cảng Cái Mép - Thị Vải với hệ thống đường bộ quốc gia được thực hiện thông qua tuyến đường liên cảng và Quốc lộ 51. Trong thời gian vừa qua, Quốc lộ 51 đã được đầu tư nâng cấp theo hình thức BOT, quy mô 6 làn xe và 2 làn xe hỗn hợp, đảm bảo nhu cầu vận tải cho cảng Cái Mép - Thị Vải.
Nhằm phát huy hiệu quả và đáp ứng yêu cầu kết nối của cụm cảng Cái Mép Thị Vải với hệ thống đường cao tốc trong khu vực, Bộ GTVT đã đưa tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu vào quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc quốc gia để thực hiện đầu tư trước năm 2020 (Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 1/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ). Trong đó, Dự án thành phần 1 (Đoạn Biên Hòa - Tân Thành - cảng Cái Mép Thị Vải: chiều dài 47km, tổng mức đầu tư khoảng 9.108 tỷ đồng, kết nối từ Tp Biên Hòa – đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây - cảng Cái Mép Thị Vải) đang được nghiên cứu đầu tư theo hình thức BOT. Đối với Dự án thành phần 2 (Đoạn Tân Thành - Vũng Tàu: chiều dài 28km, tổng mức đầu tư khoảng 9.600 tỷ), Bộ GTVT đang phối hợp với các Bộ, ngành và cơ quan liên quan, làm việc với các nhà tài trợ, tư vấn giao dịch để tìm kiếm nguồn vốn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác để triển khai dự án. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phối hợp, hỗ trợ trong công tác quản lý, quy hoạch đất đai trên khu vực dự án.
112. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri cho rằng hiện nay, đường băng cất, hạ cánh của sân bay Côn Đảo chỉ đáp ứng được cho các loại máy bay loại nhỏ (hiện đang khai thác máy bay ATR 72). Do vậy với nhu cầu khách du lịch đến Côn Đảo ngày một tăng, hạ tầng sân bay không thể đáp ứng được. Mặt khác, việc khai thác máy bay loại nhỏ làm giá thành tăng cao, giá vé máy bay đắt đỏ hơn so với các chặng bay ngắn khác trong nước. Cử tri đề nghị ngành hàng không tiến hành khảo sát, có kế hoạch nâng cấp, mở rộng sân bay Côn Đảo để các loại máy bay cỡ lớn có thể cất, hạ cánh được, đáp ứng việc đi lại cho nhân dân và khách du lịch đi, đến Côn Đảo.
Trả lời: (Tại Công văn số 15624/BGTVT-KHĐT ngày 28/12/2016)
Cảng hàng không Côn Sơn (huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là cảng hàng không nội địa đạt cấp 3C, công suất 500.000 hành khách/năm, sử dụng 01 đường cất hạ cánh kích thước 1.830m x 30m, với 05 vị trí đỗ đáp ứng khai thác thường xuyên tàu bay ATR72 và tương đương. Hiện nay, nhà ga đã được xây dựng đảm bảo khai thác khoảng 400.000 hành khách/năm. Năm 2015 Cảng hàng không Côn Sơn mới đạt sản lượng khai thác gần 230.000 hành khách. Như vậy, quy mô công suất của nhà ga hiện hữu của Cảng hàng không Côn Sơn vẫn đảm bảo khai thác bình thường.
Cảng hàng không Côn Sơn nằm giữa hai ngọn núi, hai đầu đường cất hạ cánh đều tiếp giáp biển. Do địa hình phức tạp, việc nâng cấp kéo dài đường cất hạ cánh sẽ rất tốn kém, gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu vận tải và hiệu quả kinh tế trước khi tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng.
Hiện nay, Bộ GTVT đang giao cho Cục Hàng không Việt Nam nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch, làm cơ sở để nâng cấp mở rộng Cảng hàng không Côn Đảo, dự kiến hoàn thành trong năm 2017. Sau khi có kết quả nghiên cứu, Bộ sẽ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, lập dự án và tiến hành cải tạo, nâng cấp mở rộng Cảng hàng không Côn Sơn vào thời điểm thích hợp.
113. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Quốc lộ 55 đi qua địa bàn huyện Hàn Tân, tỉnh Bình Thuận là con đường huyết mạch đi từ Bà Rịa – Vũng Tàu lên Lâm Đồng. Hiện nay lưu lượng xe qua lại nhiều nhưng đường nhỏ, hẹp chậm được nâng cấp. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải quan tâm sớm đầu tư nâng cấp tuyến đường này.
Trả lời: (Tại Công văn số 945/BGTVT-KHĐT ngày 24/1/2017)
Quốc lộ 55 có tổng chiều dài 233 km đi qua 3 tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Lâm Đồng, trong đó đoạn qua tỉnh Bình Thuận dài 152,5 km (Km52+640 - Km205+140. Hiện nay, đoạn tuyến từ Km97+692 - Km205+140, dài 107,5 km đã được Bộ GTVT đầu tư với quy mô cấp III, 2 làn xe phù hợp theo quy hoạch được duyệt, còn lại đoạn từ Km52+640 - Km97+692 có quy mô hiện hữu với chiều rộng nền đường Bnền=9m, chiều rộng mặt đường Bmặt=6m. Để phù hợp với quy hoạch được duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 55, đoạn Km52+640 - Km97+692, tỉnh Bình Thuận vào danh mục các dự án đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn của Bộ GTVT còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND tỉnh Bình Thuận tiếp tục tìm kiếm nguồn vốn hợp pháp để triển khai dự án.
Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 12 tỷ đồng.
114. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Cử tri phản ánh việc thi công làm quốc lộ 14 xe chở đất, đá nặng làm hư hỏng đường, ruộng của người dân (ruộng thuộc buôn Đăng). Tại ngã ba đường Cuôr Đăng đi xã Ea Kiết đã hư hỏng, không có cống thoát nước dẫn đến nước đọng, dễ gây tai nạn. Cử tri đề nghị đầu tư kinh phí khắc phục, sửa chữa để người dân thuận tiện khi tham gia giao thông qua tuyến đường này
Trả lời: (Tại Công văn số 27/BGTVT-CQLXD ngày 3/1/2017)
Về việc xử lý các vấn đề tồn tại, phát sinh trên dự án đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh Đắk Lắk, Lãnh đạo Bộ GTVT và Lãnh đạo UBND tỉnh Đắk Lắk đã thống nhất chỉ đạo Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh và Nhà đầu tư dự án BOT kiểm tra, rà soát, yêu cầu các đơn vị liên quan triển khai thực hiện (tại Văn bản số 577/BGTVT-UBND ngày 06/10/2016 Thông báo kết luận của Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường và Phó chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Tuấn Hà tại cuộc họp về giải quyết một số nội dung tồn tại, công tác quyết toán dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh Đắk Lắk).
Khu vực các cử tri phản ánh liên quan đến dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí Minh đoạn (Km1738+148 - Km1763+610) tỉnh Đắk Lắk, thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT, do Công ty Cổ phần BOT Quang Đức là Nhà đầu tư dự án và Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh là Đại diện Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý thực hiện dự án, Bộ GTVT sẽ giao Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh và Nhà đầu tư dự án BOT phối hợp với địa phương kiểm tra cụ thể tại thực địa các nội cử tri dung phản ánh để xử lý nếu do các đơn vị thi công dự án đường Hồ Chí Minh gây ra. (Theo báo cáo của Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh và Nhà đầu tư dự án BOT tại Văn bản số 4028/ĐHCM-VP ngày 26/12/2016, quá trình thi công dự án các đơn vị thi công không sử dụng các tuyến đường địa phương nêu trên để vận chuyển vật liệu, việc thi công dự án không làm ảnh hưởng đến ruộng vườn của người dân).
115. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải, Tổng Cục đường sắt quan tâm sửa chữa Hầm Chí Thạnh, Hầm Vũng Rô 4 (hiện nay đã bị phong hóa, xuống cấp) và nâng cấp hai cầu yếu là Cầu So Đũa và Cầu Hóc Mít.
Trả lời: (Tại Công văn số 143/BGTVT- KCHT ngày 6/1/2017)
1. Hiện trạng công trình
- Hầm Chí Thạnh (hầm số 17) dài 325m từ Km 1168+541 – Km 1168+866, xây dựng năm 1935, vỏ hầm bằng bê tông; hiện tại bị nứt, vỡ nhiều vị trí nước thấm qua vỏ hầm đặc biệt là mùa mưa;
- Hầm Vũng rô 4 (hầm 19) dài 368 m từ Km 1226+936 – 1227+304, xây dựng năm 1935, vỏ hầm bằng bê tông trên tường xây bằng đá hộc; hiện tại bị nứt, vỡ, nhiều vị trí nước thấm qua vỏ hầm, đặc biệt là mùa mưa;
- Cầu So Đũa Km 1215+876, chiều dài 67,01m là cầu dàn thép được xây dựng năm 1936, hiện tại cũ, gỉ và là cầu yếu, tải trọng thông qua thấp (T13);
- Cầu Hốc Mít, Km 1217+216, chiều dài 23,18 m đã thay dầm sửa mố năm 2003 (cải tạo, sửa chữa năm 2003); hiện tại trạng thái hoạt động bình thường.
2. Phương án cải tạo, sửa chữa
- Tổng công ty ĐSVN đã thực hiện xong bước lập Dự án đầu tư xây dựng công trình: “Gia cố các hầm yếu trên tuyến đường sắt Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh” gồm 22 công trình hầm yếu, trong đó có hầm Chí Thạnh (hầm số 17) và hầm Vũng Rô 4 (hầm số 19), đang trình Bộ GTVT thẩm định, phê duyệt và sẽ được thực hiện đầu tư, cải tạo, sửa chữa trong thời gian sớm nhất;
- Đối với cầu So Đũa Km 1215+876, Tổng công ty ĐSVN đã thực hiện xong bước chuẩn bị đầu tư, đang triển khai bước thực hiện dự án theo quyết định phê duyệt kế hoạch đấu thầu số 40/QĐ-BGTVT ngày 06/01/2009 về dự án cải tạo, nâng cấp tải trọng các cầu yếu còn lại trên tuyến đường sắt Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh (gói thầu số 16).
116. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm sớm đầu tư tuyến đường sắt từ Tuy Hòa lên Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên
Trả lời: (Tại Công văn số 301/BGTVT-KHĐT ngày 10/1/2017)
Nhằm tăng cường kết nối các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ với các tỉnh Tây Nguyên, Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt (tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ) đã định hướng đầu tư xây dựng tuyến đường sắt từ Tuy Hòa lên Buôn Ma Thuột (dài khoảng 169km, khổ 1.435mm), tuyến Đắk Nông - Bình Thuận (dài khoảng 121km, khổ 1.435mm) và tuyến kết nối các tỉnh Tây Nguyên: Đà Nẵng - Kon Tum - Đắk Lắc - Đắk Nông - Bình Phước (dài khoảng 550km, khổ 1.435mm).
Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng cân đối về nguồn lực đầu tư, Chiến lược và Quy hoạch cũng đã xác định nghiên cứu, đầu tư các tuyến đường sắt này trong giai đoạn sau 2020 (trước mắt, từ nay đến 2020 chỉ tập trung cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có có nhu cầu vận tải lớn). Trường hợp có Nhà đầu tư quan tâm để sớm đầu tư tuyến đường sắt nêu trên theo hình thức xã hội hóa, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND các tỉnh và các cơ quan có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
117. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri phản ánh, trên tuyến Quốc lộ 1A đoạn qua tỉnh Quảng Bình được đầu tư nâng cấp theo hình thức BOT do Tập Đoàn Sơn Hải làm Chủ đầu tư thì rất tốt, bảo hành 5 năm; còn Công ty TASCO làm chủ đầu tư đường chưa xong đã thu phí, bồi thường giải phóng mặt bằng chậm, đường mới đưa vào sử dụng chưa lâu nhưng đã xuống cấp, hư hỏng, hằn lún gây mất an toàn khi tham gia giao thông. Thời gian qua, nhiều báo chí đã phản ánh nhưng việc khắc phục, sửa chữa còn chậm và sơ sài. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải kiểm tra, đánh giá chất lượng và chỉ đạo đơn vị thi công sớm khắc phục, sửa chữa; đồng thời, đề nghị Bộ không cho tiếp tục tham gia những lần sau vì sẽ làm mất lòng tin trong nhân dân và uy tín của ngành giao thông
Trả lời: (Tại Công văn số 565/BGTVT-CQLXD ngày 17/1/2017)
Các Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A đoạn qua tỉnh Quảng Bình gồm: 02 Dự án sử dụng vốn TPCP; 02 Dự án sử dụng vốn BOT (Tập đoàn Sơn Hải là Nhà thầu thi công 02 gói thầu thuộc Dự án sử dụng vốn TPCP do Sở GTVT Quảng Bình làm Chủ đầu tư). Dự án do Tasco làm Chủ đầu tư là Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A đoạn Km597+549 - Km605+00; đoạn Km617+00 - Km641+00, tỉnh Quảng Bình theo hình thức hợp đồng BOT; Dự án được Chủ đầu tư khởi công tháng 4/2013 và hoàn thành tháng 6/2015, vượt trước tiến độ 6 tháng và đưa vào thu phí tháng 7/2015.
Trong quá trình thực hiện dự án, tiểu dự án GPMB do địa phương làm Chủ đầu tư và tổ chức thực hiện. UBND tỉnh Quảng Bình đã tích cực chỉ đạo các huyện, thị thực hiện kịp thời công tác GPMB, góp phần đưa dự án cơ bản hoàn thành sớm hơn 6 tháng so với kế hoạch. Tuy nhiên, do tính chất khó khăn phức tạp của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, một số đoạn tuyến chưa thể thi công hoàn thiện do còn vướng mặt bằng, đến tháng 4/2015 mới được giải quyết (như đoạn Km621+100 - Km625+300 qua 2 xã Quảng Thuận và Quảng Thọ, thị xã Ba Đồn một số hộ dân không đồng ý nhận tiền, phải tổ chức bảo vệ thi công).
Về chất lượng thi công hạng mục mặt đường bê tông nhựa: Sau khi dự án hoàn thành đưa vào khai thác, đã xuất hiện một số vị trí bị hằn lún vệt bánh xe (diện tích 25.760m2, chiếm 4,43% diện tích mặt đường). Bộ GTVT đã kịp thời và kiên quyết chỉ đạo Nhà đầu tư khẩn trương khắc phục bằng kinh phí bảo hành của Nhà thầu, nhằm đảm bảo giao thông an toàn và êm thuận. Bộ GTVT đã quy định, trường hợp Nhà đầu tư chậm trễ trong việc khắc phục chất lượng công trình thì kiên quyết dừng thu phí, đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ sử dụng hạ tầng giao thông theo quy định và theo cam kết tại Hợp đồng dự án.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo và giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban QLDA 6 tăng cường kiểm tra, giám sát về chất lượng mặt đường, yêu cầu Nhà đầu tư khắc phục triệt để các tồn tại nhằm đảm bảo chất lượng công trình, tổ chức giao thông an toàn và thông suốt.
Về đánh giá kết quả thực hiện của Nhà đầu tư, Nhà thầu: Từ năm 2012, hàng năm Bộ GTVT đều đánh giá và công bố kết quả thực hiện của Nhà thầu xây lắp và quy định sử dụng kết quả đánh giá vào công tác lựa chọn nhà thầu đối với các dự án Bộ GTVT quản lý. Riêng đối với việc đánh giá kết quả thực hiện của Nhà đầu tư dự án BOT, Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu để có quy định đánh giá, xếp hạng, phục vụ cho việc lựa chọn Nhà đầu tư của các dự án
118. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị nâng cấp tuyến đường ĐT 268 thành Quốc lộ 3C theo mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông được phê duyệt tại Quyết định số 419/QĐ-TTg, ngày 17/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Hỗ trợ kinh phí sớm chuyên tuyến đường ĐT 268 thành Quốc lộ 3C: Đây là một trong những mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông theo quyết định 419/QĐ-TTg, ngày 17/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên – Tuyên Quang – Bắc Cạn đến năm 2030.
Trả lời: (Tại Công văn số 15841/BGTVT-KCHT ngày 30/12/2016)
1. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang - Bắc Kạn đến năm 2030. Ngày 01/11/2016, Bộ GTVT đã ban hành Quyết định số 3414/QĐ-BGTVT về việc nâng cấp các tuyến ĐT.268 thuộc tỉnh Thái Nguyên, ĐT.254 thuộc tỉnh Bắc Kạn thành tuyến QL.3C đồng thời, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan của 2 tỉnh: Thái nguyên, Bắc Kạn tổ chức tiếp nhận, bàn giao để đưa các tuyến ĐT.268, ĐT.254 vào hệ thống quốc lộ theo quy định.
2. Thực hiện chỉ đạo của Bộ GTVT đến nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã ủy quyền và sẽ bố trí nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương năm 2017 đối với công tác quản lý, khai thác và bảo trì 2 tuyến ĐT.268, ĐT.254 cho các Sở GTVT: Thái Nguyên, Bắc Kạn để thực hiện từ năm 2017.
3. Đối với tuyến ĐT.268 sau khi nâng cấp thành QL.3C, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương sửa chữa thảm bê tông nhựa mặt đường và sửa chữa các công hệ thống thoát nước, hệ thống an toàn giao thông trên tuyến đoạn từ Km0+00-Km19+00 với kinh phí khoảng 30 tỷ đồng để phục vụ Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Bác Hồ về ATK Thái Nguyên và đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
Trên đây là ý kiến của Bộ GTVT gửi đến các đồng chí Lãnh đạo của các cơ quan và cử tri tỉnh Thái Nguyên. Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên chuyển các thông tin nêu trên đến cử tri tỉnh Thái Nguyên đồng thời tiếp tục phối hợp với Bộ GTVT để thực hiện tốt công tác phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và an toàn giao thông trên trên các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Thái Nguyên./.
119. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tiếp tục quan tâm thi công giai đoạn 2 tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ Cầu Sơn Quy đến đoạn ấp Xã Lới, xã Tân Trung thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang nhằm tăng hiệu quả đầu tư và sử dụng công trình này.
Trả lời: (Tại Công văn số 526/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chuyển khoảng 50 tỷ đồng từ phần vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 còn dư của dự án Quốc lộ 50 đoạn Gò Công – Mỹ Tho sang dự án Quốc lộ 50 đoạn Mỹ Lợi – Gò Công để tiếp tục đầu tư hoàn thiện thảm BTN đoạn từ Km43+000-Km47+334 (Văn bản số 5936/VPCP-KTTH ngày 29/7/2015 của Văn phòng Chính phủ). Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án, phê duyệt thiết kế và lựa chọn nhà thầu, đồng thời đề nghị Bộ KH&ĐT điều hòa, điều chỉnh kế hoạch vốn của dự án nên trên để tổ chức triển khai thi công, tuy nhiên đến nay Bộ KH&ĐT đang rà soát để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ giao vốn, Bộ GTVT sẽ tổ chức triển khai thi công ngay.
120. Cử tri tỉnh Đăk Nông kiến nghị: Hiện nay các tuyến tỉnh lộ 1, tỉnh lộ 6 và tuyến đường biên giới (Quốc lộ 14C) bị hư hỏng nặng, gây mất an toàn giao thông cũng như ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế của địa phương cũng như đảm bảo quốc phòng – an ninh khi có vấn đề phát sinh; tuy nhiên, do nguồn ngân sách của tỉnh rất hạn chế nên không thể tiến hành đầu tư, nâng cấp. Vì vậy, đề nghị Trung ương quan tâm, sớm bố trí vốn cho các công trình này.
121. Cử tri tỉnh Đăk Nông kiến nghị: Đường tỉnh lộ 4 đã được chuyển thành Quốc lộ 28 (kéo dài), tuy nhiên hiện còn nhiều đoạn bị hư hỏng rất nặng, gây khó khăn trong lưu thông cũng như mất an toàn giao thông. Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ giao thông vận tải sớm có kế hoạch sửa chữa, nâng cấp tuyến đường này.
Trả lời: (Tại Công văn số 15759/BGTVT- ngày 30/12/2017)
- Về bố trí vốn đầu tư các tuyến tỉnh lộ 1, tỉnh lộ 6 và tuyến đường biên giới (Quốc lộ 14C)
- Quốc lộ 14C:
Quốc lộ 14C đi qua địa phận các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Bình Phước, trong đó đoạn qua Đắk Nông dài khoảng 113,0km là tuyến giao thông dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, có ý nghĩa chiến lược về đảm bảo an ninh, quốc phòng của tỉnh Đắk Nông nói riêng và của khu vực Tây Nguyên nói chung. Cho đến nay, Bộ GTVT đã đầu tư xong giai đoạn 1 (nền đường và hệ thống thoát nước) và đã bàn giao đưa vào khai thác sử dụng năm 2014. Bộ GTVT cũng đã dự kiến tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 và đã đề xuất trong danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho các dự án này. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
- Các tuyến Tỉnh lộ 1 và Tỉnh lộ 6:
Các tuyến Tỉnh lộ 1 và Tỉnh lộ 6 được đầu tư sẽ tạo điều kiện lưu thông thuận lợi và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương. Vì vậy, việc sớm đầu tư nâng cấp các tuyến đường là cần thiết.
Theo quy định tại Luật Ngân sách đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho tuyến đường nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét để được hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
- Về sửa chữa, nâng cấp Tỉnh lộ 4
Ngày 18/01/2016, Bộ GTVT có Quyết định số 148/QĐ-BGTVT chuyển tuyến Tỉnh lộ 4 (đường tỉnh 684), tỉnh Đắk Nông thành QL28 kéo dài. Đồng thời, tuyến đường cũng chưa được bổ sung vào quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam. Hiện tại, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 chưa bao gồm danh mục đầu tư nâng cấp tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ ngành đề xuất nguồn vốn đầu tư thích hợp, trước mắt trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông.
122. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị nâng cấp tuyến ĐT.268 thành Quốc lộ 3C theo mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông được phê duyệt tại Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ;
Hỗ trợ kinh phí sớm chuyển tuyến ĐT.268 thành Quốc lộ 3C: Đây là một trong những mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông theo Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang - Bắc Kạn đến năm 2030.
Trả lời: (Tại Công văn số 15841/BGTVT-KCHT ngày 30/12/2016)
1. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang - Bắc Kạn đến năm 2030. Ngày 01/11/2016, Bộ GTVT đã ban hành Quyết định số 3414/QĐ-BGTVT về việc nâng cấp các tuyến ĐT.268 thuộc tỉnh Thái Nguyên, ĐT.254 thuộc tỉnh Bắc Kạn thành tuyến QL.3C đồng thời, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan của 2 tỉnh: Thái nguyên, Bắc Kạn tổ chức tiếp nhận, bàn giao để đưa các tuyến ĐT.268, ĐT.254 vào hệ thống quốc lộ theo quy định.
2. Thực hiện chỉ đạo của Bộ GTVT đến nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã ủy quyền và sẽ bố trí nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương năm 2017 đối với công tác quản lý, khai thác và bảo trì 2 tuyến ĐT.268, ĐT.254 cho các Sở GTVT: Thái Nguyên, Bắc Kạn để thực hiện từ năm 2017.
3. Đối với tuyến ĐT.268 sau khi nâng cấp thành QL.3C, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương sửa chữa thảm bê tông nhựa mặt đường và sửa chữa các công hệ thống thoát nước, hệ thống an toàn giao thông trên tuyến đoạn từ Km0+00-Km19+00 với kinh phí khoảng 30 tỷ đồng để phục vụ Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Bác Hồ về ATK Thái Nguyên và đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
123. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 1B, vì hiện nay lưu lượng xe nhiều, đường chật hẹp gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 964/BGTVT-ĐTCT ngày 24/1/2017)
Do Quốc lộ 1B đoạn qua địa phận tỉnh Thái Nguyên bị xuống cấp, Bộ GTVT đã giao Sở GTVT Thái Nguyên lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư và trình Thủ tướng Chính phủ đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT hết sức hạn chế nên chưa thể cân đối nguồn vốn thực hiện đầu tư tuyến đường. Ngoài ra, tại văn bản số 14096/BGTVT-ĐTCT ngày 28/11/2016, Bộ GTVT đã đề nghị UBND tỉnh Thái Nguyên đồng thuận không đầu tư dự án theo hình thức hợp đồng BOT (có thu phí người sử dụng) do do việc đầu tư thực hiện trên đường hiện hữu, không đảm bảo quyền lựa chọn của người dân khi tham gia giao thông.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tuy, sửa chữa tuyến đường đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực.
124. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Tuyến Quốc lộ 37 qua địa phận huyện Đại Từ hiện nay đang quá tải, mặt đường hẹp, lưu lượng phương tiện tham gia giao thông lớn nên thường xuyên xảy ra tai nạn. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm đầu tư mở rộng nâng cấp tuyến đường này.
Trả lời: (Tại Công văn số 820/BGTVT- KHĐT ngày 20/1/2017)
Quốc lộ 37 đoạn qua tỉnh Thái Nguyên, dài 75km, trong đó:
- Đoạn từ Km96 -Km138, dài 42km đã hoàn thành đầu tư năm 2009 từ nguồn vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB), quy mô đường cấp IV, hiện đang khai thác bình thường.
- Đoạn Km139 (Bờ Đậu) – Km171 (Đèo Khế), dài 33km, do bị xuống cấp, Bộ GTVT đã giao Sở GTVT Thái Nguyên lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư và trình Thủ tướng Chính phủ đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT hết sức hạn chế nên chưa thể cân đối nguồn vốn thực hiện đầu tư tuyến đường.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tu, sửa chữa các tuyến đường nêu trên, đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên chuyển ý kiến nêu trên đến cử tri và mong sự chia sẻ của cử tri với khó khăn chung của ngành GTVT. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Thái Nguyên để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn tỉnh./.
125. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển KT-XH vũng Tây Bắc, củng cố quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia và kết nối Tây Bắc với hệ thống giao thông toàn quốc, đề nghị nghiên cứu cho chủ trương bổ sung quy hoạch xây dựng đường cao tốc từ Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên.
Trả lời: (Tại Công văn số 904/BGTVT-KHĐT ngày 23/1/2017)
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 1/3/2016, trong đó không quy hoạch tuyến cao tốc từ Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên.
Trong quá trình lập quy hoạch, Tư vấn đã nghiên cứu quy hoạch tuyến đường bộ cao tốc từ Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên nhưng do nhu cầu vận tải còn thấp và các điều kiện địa hình, địa chất từ khu vực các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên phức tạp, nhiều đèo, núi, độ dốc lớn, chi phí xây dựng rất lớn nên chưa quy hoạch tuyến đường bộ cao tốc này. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, căn cứ nhu cầu vận tải và nguồn lực cho phép, Bộ GTVT sẽ nghiên cứu về đề xuất này.
Hiện nay, kết nối giao thông đường bộ giữa các tỉnh Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên được thực hiện thông qua tuyến QL.6 đã và đang được Bộ GTVT đầu tư, đáp ứng nhu cầu vận tải khu vực, trong đó: Đoạn Hòa Bình – Sơn La đã đầu tư nâng cấp năm 2005, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, hiện đang thực hiện thi công thảm tăng cường mặt đường bê tông nhựa trong dự án Quản lý tài sản đường bộ Việt Nam (VRAMP), hoàn thành tháng 10/2017; Đoạn Sơn La – Điện Biên (Tuần Giáo) đã đầu tư hoàn thành năm 2010, quy mô đường cấp III, 2 làn xe, hiện đang khai thác bình thường.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên chuyển ý kiến nêu trên đến cử tri được biết. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Điện Biên để giải quyết các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn tỉnh./.
126. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Điện Biên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng an ninh, yêu cầu nâng cấp sân bay Điên Biên Phủ để phục vụ nhiệm vụ Quốc phòng an ninh chiến lược là rất cần thiết, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Đề nghị Chính phủ, bộ ngành chức năng sớm triển khai dự án đầu tư nâng cấp đường băng Sân bay Điên Biên Phủ.
Trả lời: (Tại Công văn số 687/BGTVT-KHĐT ngày 19/1/2017)
Cảng hàng không Điện Biên là cảng hàng không đạt cấp 3C với 01 đường cất hạ cánh kích thước 1.830x30m và nhà ga hành khách có công suất thiết kế khoảng 300.000 hành khách/năm. Trong năm 2016, lượng hành khách thông qua Cảng hàng không Điện Biên đạt 58.187 lượt giảm 17,2% so với năm 2015.
Để nâng cao năng lực khai thác, phát huy hiệu quả đầu tư của Cảng hàng không Điện Biên, Bộ GTVT đang chỉ đạo Cục Hàng không Việt Nam nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch Cảng hàng không Điện Biên theo hướng xây dựng đường Cất hạ cánh mới để phục vụ khai thác tàu bay A320/A321 và tương đương. Trên cơ sở đó, Bộ sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Điện Biên để xúc tiến đầu tư theo Quy hoạch đã được duyệt.
127. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý tình trạng lạm thu, gian lận tại các Trạm thu phí BOT, góp phần giảm gánh nặng chi phí vận tải cho người dân và doanh nghiệp.
Trả lời: (Tại Công văn số 15683/BGTVT-TC ngày 29/12/2016)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Các dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định.
Để quản lý tốt, đảm bảo tính minh bạch, phòng, chống tiêu cực thất thoát doanh thu, gian lận trong hoạt động thu phí tại các trạm thu phí BOT, Bộ GTVT đã triển khai rất nhiều các giải pháp như:
1. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thay mặt Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn kinh doanh, khai thác và chuyển giao công trình dự án chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; công tác tổ chức thu phí; có biện pháp chống thất thoát doanh thu; thực hiện quyền của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng dự án theo các quy định của hợp đồng dự án…;
2. Thường xuyên chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra (định kỳ và đột xuất) tại các trạm thu phí BOT của các dự án do Bộ GTVT quản lý (ví dụ như: trạm thu phí Pháp Vân – Cầu Giẽ, trạm thu phí trên Quốc lộ 5, trạm thu phí Đại Yên - quốc lộ 18…) để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nếu để xảy ra vi phạm;
3. Bộ GTVT đã tổ chức họp bàn các giải pháp triển khai thực hiện với Bộ Tài chính về các nội dung này và kiến nghị Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí trong đó có phí sử dụng đường bộ hoàn vốn các dự án BOT. Ngày 28/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8737/BTC-CST chỉ đạo Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí; đảm bảo công khai minh bạch, công bằng trong hoạt động thu phí, lệ phí của các dự án BOT thu phí hoàn vốn, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động thu phí, lệ phí và kê khai nộp thuế, phí, lệ phí.
4. Giao Tổng cục ĐBVN chủ trì mời Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục thuế các địa phương tham gia đoàn kiểm tra, giám sát hoạt động thu phí đối với các trạm thu phí BOT trên cơ sở kiến nghị, đề xuất của Tổng cục ĐBVN;
5. Phê duyệt dự án thu phí tự động không dừng và kiểm soát tải trọng xe trên toàn quốc – giai đoạn 1 áp dụng cho Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, tiến tới triển khai áp dụng toàn bộ tại các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý;
6. Triển khai đề án “tăng cường giám sát và công khai minh bạch doanh thu thu phí đối với các dự án đường bộ có thu phí do Bộ GTVT quản lý” qua việc giám sát lưu lượng, doanh thu các trạm thu phí BOT bằng phần mềm giám sát thu phí trực tuyến...;
7. Đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT: thông qua công tác quyết toán để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu quả, quản lý chặt chẽ công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước, hạn chế tình trạng dự án kéo dài, giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản, tiết kiệm vốn đầu tư, chống thất thoát ngân sách nhà nước…Đối với dự án BOT ngoài các nội dung trên, giá trị quyết toán là căn cứ để tính toán, xác định lại chính thức thời gian thu phí hoàn vốn đối với các dự án, công khai, minh bạch chi phí đầu tư xây dựng công trình, thời gian thu phí hoàn vốn trước các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ và nhân dân…;
8. Yêu cầu các Nhà đầu tư/Doanh nghiệp dự án:
- Xây dựng các giải pháp để chống thất thoát trong công tác thu phí. Xây dựng các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ thu phí, giám sát hậu kiểm chặt chẽ. Thường xuyên phổ biến và tập huấn các quy chế, quy định liên quan đến công tác thu phí cho các cán bộ công nhân viên...;
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, chế tài xử phạt, bồi thường thiệt hại đủ sức răn đe để hạn chế, xử lý các cá nhân, phương tiện trốn phí;
- Rà soát, kiểm tra và lắp đặt đầy đủ trang thiết bị thu phí, giám sát, hậu kiểm đồng bộ, hiện đại (bao gồm hệ thống phần mềm, camera nhận dạng biển số xe...) để kiểm soát chặt chẽ các phương tiện qua trạm thu phí, hạn chế các tác động của con người vào quá trình thu phí, giám sát, hậu kiểm; Khắc phục ngay các sự cố, hư hỏng về hệ thống, thiết bị, phần mềm... đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện;
- Hiện đại hóa công nghệ thu phí để đáp ứng yêu cầu thu phí tự động không dừng theo chủ trương của Bộ GTVT;
- Bán kịp thời đầy đủ các loại vé (vé lượt, vé tháng, vé quý) theo quy định và yêu cầu của người mua;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các chủ phương tiện thực hiện đúng các quy định, trình tự, thủ tục thu phí...
- Tăng cường bố trí nhân lực, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định trong công tác thu phí...; thực hiện các biện pháp luân chuyển cán bộ; xử lý kỷ luật các cán bộ liên quan vi phạm, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
- Nghiêm túc tuân thủ chế độ báo cáo về tình hình thu phí và doanh thu thu phí theo nội dung quy định trong hợp đồng dự án và Quyết định số 2777/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT; cụ thể: Báo cáo định kỳ hàng quý (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) về tình hình thu phí và doanh thu thu phí; báo cáo định kỳ 06 tháng (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) và cả năm (trước ngày 31/01 của năm tiếp theo) về tình hình giao thông, lưu lượng xe, doanh thu thu phí, các thông số đầu vào liên quan đến phương án tài chính của dự án và các nội dung liên quan đến quản lý, bảo trì công trình dự án theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ và hợp đồng dự án. Riêng báo cáo cả năm về doanh thu thu phí phải có kiểm toán độc lập kiểm toán hoặc xác nhận của cơ quan thuế.
Với các giải pháp nêu trên, Bộ GTVT tin tưởng rằng đã và sẽ hạn chế được các hành vi tiêu cực, gian lận tại trạm thu phí BOT đường bộ trong quá trình thu phí.
128. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Kiến nghị có phương án sửa chữa lại một số đoạn trên Quốc lộ 1A (trong đó có đoạn đi qua địa phận tỉnh Bình Định) tuy mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp, hư hỏng.
Trả lời: (Tại Công văn số 224/BGTVT- CQLXD ngày 9/1/2017)
- Nội dung 1:
Đoạn tuyến QL1A từ Km1125 - Km1265 qua tỉnh Bình Định và một phần tỉnh Phú Yên có tổng chiều dài là 140 km, trong đó có khoảng 121 km được đầu tư nâng cấp, mở rộng trong thời gian vừa qua và chia thành 03 dự án (các đoạn còn lại đã đủ quy mô bề rộng mặt đường không đầu tư mở rộng). Cả 03 dự án đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015.
Từ khi thông xe đến nay, tuyến đường đã trải qua 02 mùa mưa lũ. Do ảnh hưởng của các đợt mưa lũ, một số đoạn trên tuyến QL1, bao gồm cả những đoạn không thuộc các dự án nâng cấp mở rộng đã bị hư hỏng mặt đường. Ngay khi phát hiện hư hỏng, Bộ GTVT đã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo các nhà đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phụchư hỏng theo trách nhiệm bảo hành (đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp) và bảo trì công trình (đối với các đoạn không thuộc các dự án mở rộng, nâng cấp do Tổng cục ĐBVN quản lý). Đặc biệt, đợt mưa lũ năm 2016 vừa qua, với diễn biến phức tạp của thời tiết, mưa, lũ lớn kéo dài gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng nặng nề hơn cho mặt đường. Để đảm bảo yêu cầu khai thác an toàn trên tuyến, Lãnh đạo Bộ GTVT và các cơ quan chức năng của Bộ đã thường xuyên tổ chức kiểm tra, chỉ đạo và đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương kịp thời khắc phụcnhững hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông trong giai đoạn mưa lũ và tiến hành sửa chữa hoàn trả mặt đường theo tiêu chuẩn của dự án ngay sau khi điều kiện thời tiết cho phép. Để đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ khẩn trương tìm biện pháp sửa chữa phù hợp đảm bảo chất lượng.
- Nội dung 2:
Hệ thống an toàn giao thông trên tuyến QL1A là một hạng mục quan trọng được thiết kế theo Quy chuẩn 41:2012/BGTVT. Vị trí và khoảng cách các điểm mở dải phân cách giữa đã được nghiên cứu, xem xét và thống nhất về nguyên tắc thiết kế trên toàn tuyến QL1 cho phù hợp với Tiêu chuẩn thiết kế và đảm bảo an toàn giao thông, trong đó đã đề cập đến khu vực đô thị, đông dân cư và khu vực ngoài đô thị. Hệ thống ATGT của các dự án QL1 đã thi công theo đúng hồ sơ thiết kế được phê duyệt. Tuy nhiên, sau khi thông xeđã phát sinh một số vấn đề về liên quan đến hệ thốngan toàn giao thông, trong đó có việc điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa cho phù hợp với thực tế dân sinh. Trên cơ sở phối hợp và đề nghị của địa phương, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ (tại Văn bản số 11373/BGTVT-KCHT ngày 27/8/2015 về việc “Rà soát, điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa trên QL.1 đoạn từ Hà Nội đến Cần Thơ”) phối hợp với địa phương rà soát và đề xuất điều chỉnh cho phù hợp. Theo đó, Đoàn công tác của Bộ GTVT do Tổng cục ĐBVN chủ trì đã tiến hành rà soát và lập Biên bản thống nhất báo cáo và đề xuất điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa (tại Văn bản số 5363/TCĐBVN-ATGT ngày 02/10/2015). Trong quá trình xử lý điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa, Bộ GTVT tiếp tục nhận được các văn bản kiến nghị của tỉnh Bình Định về vấn đề nêu trên. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, đề xuất của Tổng cục ĐBVN và các ý kiến đề nghị của địa phương, trong tháng 10/2015,Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Đoàn công tác của Bộ phối hợp các cơ quan liên quan gồm: Tổng cục ĐBVN, Cục QLĐB III, Ban ATGT tỉnh Bình Định, Sở GTVT tỉnh Bình Định và lãnh đạo các địa phương tỉnh Bình Định tổ chức tiến hành rà soát lại lần cuối để báo cáo Bộ xử lý. Căn cứ kết quả kiểm tra, rà soát thực tế hiện trường, nội dung đề xuất tại Biên bản kiểm trahiện trường và báo cáo của Đoàn công tác, Bộ GTVT đã thống nhất cho phép điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa và một số nội dung liên quan đến vấn đề an toàn giao thông đối với tuyến QL1 qua tỉnh Bình Định tại Văn bản số 15759/BGTVT-CQLXD ngày 25/11/2015 Hệ thống ATGT trên tuyến QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định, trong đó có điều chỉnh điểm mở dải phân cách giữa đã được điều chỉnh thi công lắp đặt và nghiệm thu đưa vào sử dụng.
Nhằm phát huy khả năng khai thác của công trình và đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ kiểm tra rà soát và điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế, vừa đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình, an toàn giao thông theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Bộ GTVT đề nghị tỉnh Bình Định chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền, vận động và kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan đối với người tham gia giao thông cũng như cư dân sinh sống hai bên đường.
129. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục đường sắt Việt Nam phối hợp với tổng công ty đường sắt Việt Nam sớm rà soát nghiên cứu phương án đầu tư nối tuyến đường sắt từ ga Diêu Trì đến Cảng Quy Nhơn và Cảng Thị Nại để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trả lời: (Tại Công văn số 304/BGTVT-KHĐT – ngày 10/1/2017 )
Theo định hướng Chiến lược và Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt (tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ), đã xác định xây dựng tuyến đường sắt kết nối cảng Quy Nhơn như kiến nghị của cử tri; tuy nhiên, để phù hợp với khả năng cân đối về nguồn lực đầu tư, Chiến lược và Quy hoạch phát cũng đã dự kiến đầu tư tuyến đường sắt nêu trên trong giai đoạn sau năm 2020 (trước mắt, từ nay đến 2020 chỉ tập trung cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có có nhu cầu vận tải lớn). Trường hợp có Nhà đầu tư quan tâm để sớm đầu tư tuyến đường sắt nêu trên theo hình thức xã hội hóa, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Bình Định và các cơ quan có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
130. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Cử tri trên địa bàn thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương kiến nghị tiểu dự án Lim – Phả Lại thuộc dự án xây dựng tuyến đường sắt từ Yên Viên – Phả Lại – Hạ Long – Cái Lân đi qua thị xã Chí Linh đã thực hiện giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng xong từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai xây dựng, không những gây lãng phí lớn trong đầu tư còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân chịu ảnh hưởng của dự án. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, tách nhiệm và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.
Trả lời: (Tại Công văn số 308/BGTVT-KHĐT – ngày 10/1/2017)
Tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư từ năm 2004 và được chia thành 04 Tiểu dự án vận hành độc lập; trong đó tiểu dự án Lim - Phả Lại đã cơ bản đền bù, giải phóng mặt bằng và thi công phần nền đường, các công trình nhân tạo trên tuyến (cầu, cống, hầm chui...); Tuy nhiên, thực hiện Nghị Quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Dự án đã bị tạm dừng dãn tiến độ và chỉ thực hiện đến điểm dừng kỹ thuật trong phạm vi vốn đã được bố trí; vì vậy, đến nay dự án chưa hoàn thành công tác thi công xây dựng như kiến nghị của cử tri.
Vừa qua, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã triển khai rà soát, đánh giá tổng thể về dự án, theo đánh giá của tư vấn, kết quả rà soát cho thấy Dự án có hiệu quả về kinh tế; nếu tiếp tục dừng dãn, dự án sẽ không phát huy được hiệu quả nguồn vốn đã được đầu tư và tiếp tục có những thiệt hại nhất định. Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực đầu tư khó khăn như hiện nay, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chỉ tập trung cho một số dự án cấp bách để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến đường sắt Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh hiện có. Vì vậy, Bộ GTVT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận giao Bộ GTVT nghiên cứu, kêu gọi để tiếp tục đầu tư Dự án theo hình thức xã hội hóa đối với các hạng mục còn lại để hoàn thành Dự án theo Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt.
131. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị cho phép Phú Thọ triển khai Đường quốc lộ 32 đoạn Cổ Tiết – Thu Cúc, chiều dài 54,4km nâng cấp từ đường cấp IV lên cấp III để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tham gia giao thông từ thủ đô Hà Nội đi Yên Bái, Sơn La và các tỉnh Tây Bắc.
Trả lời: (Tại Công văn số 826/BGTVT- ngày 20/1/2017)
Do các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ dự kiến bố trí cho Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế nên chưa thể triển khai được dự án này. Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục cân đối, bố trí vốn để sửa chữa, bảo trì bảo đảm giao thông êm thuận và an toàn.
Bộ GTVT đề nghị đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ chuyển các ý kiến trên đến Cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Phú Thọ để giải quyết các vấn đề liên quan đến GTVT trên địa bàn./.
132. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị cho phép Phú Thọ triển khai Nút IC11 đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai (đã có trong quy hoạch và đã giải phóng xong mặt bằng) kết cấu với Quốc lộ 70B nhằm tạo điều kiện cho nhân dân về thăm viếng Đền Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền Lượng, huyện Hạ Hòa.
Trả lời: (Tại Công văn số 903/BGTVT- ngày 23/1/2017)
Trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư dự án đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tại Quyết định số 3415/QĐ-BGTVT ngày 5/01/2007 và điều chỉnh đầu tư dự án tại Quyết định số 4544/QĐ-BGTVT ngày 2/12/2014, tổng mức đầu tư 30.132 tỷ đồng sử dụng vốn vay ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và vốn đối ứng của Chính phủ, trong đó trên địa bàn tỉnh Phú Thọ sẽ xây dựng 02 nút giao nối đường cao tốc nối thành phố Việt Trì (nút giao IC7) và nối với đường Hồ Chí Minh (nút giao IC9); Nút giao IC11 nối đường cao tốc với QL.70B sẽ được đầu tư trong giai đoạn 2 khi xác định được nguồn vốn. Tuyến đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đã đưa vào khai thác từ tháng 6/2014; nút giao IC7 và IC9 đang thi công, hoàn thành năm 2017.
Do kinh phí đầu tư dự án đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai giai đoạn 1 rất lớn, hiện nay, phương án tài chính dự án đang rất khó khăn, nguồn thu không đủ để trả lãi, phải hỗ trợ từ các tuyến cao tốc khác do VEC làm chủ đầu tư nên trước mắt Bộ GTVT chưa thể đầu tư giai đoạn 2 của dự án, trong đó có nút giao với IC11. Trường hợp, UBND tỉnh Phú Thọ thực hiện đầu tư nút giao IC11 bằng nguồn ngân sách địa phương, đề nghị UBND tỉnh Phú Thọ có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ để được xem xét, quyết định, Bộ GTVT sẽ có văn bản ủng hộ đề nghị này.
133. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị cho phép chuyển đường Nguyễn Tất Thành thành Quốc lộ 2, đường Hùng Vương thành đường Nội Thị vì đường Hùng Vương đang triển khai đầu tư là tuyến đường lễ hội.
Trả lời: (Tại Công văn số 665/BGTVT- ngày 18/1/2017)
Ngày 12/1/2017, Bộ GTVT đã có văn bản số 427/BGTVT-KCHT về việc nâng cấp một số tuyến đường tỉnh thuộc địa bàn các tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái thành QL.2D. Trong đó, Bộ GTVT đã trả lời đề nghị của UBND tỉnh Phú Thọ và UBND tỉnh Yên Bái với các nội dung cụ thể như sau:
1. Về đề nghị điều chỉnh tuyến QL.2, đoạn từ Km54+250 - Km65+370 đoạn qua trung tâm thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ dài 11,12Km sang tuyến phố Nguyễn Tất Thành, thành phố Việt trì, tỉnh Phú Thọ dài 9,5Km, Bộ GTVT thống nhất chủ trương điều chỉnh tuyến QL.2 như theo đề nghị của UBND tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, do hiện nay Bộ GTVT đã bố trí vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương để sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước, hệ thống an toàn giao thông, hệ thống điện chiếu sáng và hè đường trên đoạn tuyến này trong kế hoạch bảo trì năm 2016, 2017 do đó việc điều chỉnh đoạn tuyến nêu trên cho tỉnh Phú Thọ quản lý sẽ được thực hiện sau khi thi công hoàn chỉnh công trình trên theo kế hoạch.
2. Về đề nghị cho phép chuyển đường Tỉnh lộ 320, Tỉnh lộ 324 thành đường QL.2D. Về cơ bản tuyến hình thành trục đường kết nối thành phố Việt Trì với Thị xã Phú Thọ, các huyện: Lâm Thao, Hạ Hòa và kết nối với các tuyến đường: Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, QL.32C, QL.70B và QL.70 tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên việc kết nối các địa danh và các tuyến quốc lộ nêu trên đã được kết nối bởi các tuyến: QL.2, QL.32C (song song với tuyến TL.324, TL.320) do đó, Bộ GTVT thấy chưa cần thiết phải nâng cấp các tuyến tỉnh lộ nêu trên thành QL.2D.
134. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị cho phép chuyển đường tỉnh lộ 320, tỉnh lộ 324 thành đường Quốc lộ 2D.
Trả lời: (Tại Công văn số 665/BGTVT- ngày 18/1/2017)
Ngày 12/1/2017, Bộ GTVT đã có văn bản số 427/BGTVT-KCHT về việc nâng cấp một số tuyến đường tỉnh thuộc địa bàn các tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái thành QL.2D. Trong đó, Bộ GTVT đã trả lời đề nghị của UBND tỉnh Phú Thọ và UBND tỉnh Yên Bái với các nội dung cụ thể như sau:
1. Về đề nghị điều chỉnh tuyến QL.2, đoạn từ Km54+250 - Km65+370 đoạn qua trung tâm thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ dài 11,12Km sang tuyến phố Nguyễn Tất Thành, thành phố Việt trì, tỉnh Phú Thọ dài 9,5Km, Bộ GTVT thống nhất chủ trương điều chỉnh tuyến QL.2 như theo đề nghị của UBND tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, do hiện nay Bộ GTVT đã bố trí vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương để sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước, hệ thống an toàn giao thông, hệ thống điện chiếu sáng và hè đường trên đoạn tuyến này trong kế hoạch bảo trì năm 2016, 2017 do đó việc điều chỉnh đoạn tuyến nêu trên cho tỉnh Phú Thọ quản lý sẽ được thực hiện sau khi thi công hoàn chỉnh công trình trên theo kế hoạch.
2. Về đề nghị cho phép chuyển đường Tỉnh lộ 320, Tỉnh lộ 324 thành đường QL.2D. Về cơ bản tuyến hình thành trục đường kết nối thành phố Việt Trì với Thị xã Phú Thọ, các huyện: Lâm Thao, Hạ Hòa và kết nối với các tuyến đường: Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, QL.32C, QL.70B và QL.70 tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên việc kết nối các địa danh và các tuyến quốc lộ nêu trên đã được kết nối bởi các tuyến: QL.2, QL.32C (song song với tuyến TL.324, TL.320) do đó, Bộ GTVT thấy chưa cần thiết phải nâng cấp các tuyến tỉnh lộ nêu trên thành QL.2D.
135. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh, các tuyến đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai là tuyến đường kết nối liên tỉnh có ý nghĩa quan trọng trong việc đi lại, giao thương của nhân dân khu vực dọc hữu ngạn sông Hồng từ Lào Cai về Yên Bái. Nhằm từng bước nâng cấp, hoàn thành mạng lưới giao thông theo quy hoạch, góp phần tạo tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho các công tác quản lý, phát huy hết hiệu quả kết nối giữa các tuyến đường trong vùng.
Tuyến đường có chiều dài 274km (gồm 94km thuộc địa phận tỉnh Yên Bái, 180km thuộc địa phận tỉnh Lào Cai). Tuyến đường có điểm đầu tại Km96 +500 – Quốc lộ 32C (giao với Km283 +800 Quốc lộ 37) thuộc địa phận tỉnh Yên Bái, điểm cuối tại cửa khẩu phụ Bản Vược, tỉnh Lào Cai.
Cử tri đề nghị xem xét, chấp thuận chuyển các tuyến đường kết nối hai tỉnh Yên Bái – Lào Cai thành quốc lộ và lấy tên là quốc lộ 32C kéo dài như đề nghị của 2 tỉnh Yên Bái và Lào Cai.
Trả lời: (Tại Công văn số 15338/BGTVT-KCHT - ngày 22/12/2016)
1. Tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Lào Cai, Bộ trưởng đã có ý kiến tại Thông báo kết luận số 493/TB-BGTVT ngày 25/8/2016. Trong đó: Bộ GTVT thống nhất về chủ trương chuyển các tuyến đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai thành Quốc lộ. Tuy nhiên, do cấp kỹ thuật các tuyến đường tỉnh còn thấp, nhiều đoạn hư nặng, tồn tại cầu tải trọng thấp, ngầm vượt suối và hiện tại lưu lượng giao thông trên tuyến chưa lớn. Do vậy, đề nghị tỉnh Lào Cai trước mắt ưu tiên tập trung cải tạo, nâng cấp các tuyến đường để dần hình thành tuyến đủ điều kiện đưa vào quy hoạch Quốc lộ trong tương lai. Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh quy hoạch và chuyển tuyến đường liên tỉnh này thành Quốc lộ vào thời điểm thích hợp.
2. Trên cơ sở đó Bộ GTVT đã có văn bản gửi UBND hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai tại văn bản số 10816/BGTVT-KCHT ngày 14/9/2016 về việc điều chỉnh bổ sung quy hoạch và điều chuyển đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai thành quốc lộ. Trong đó:
- Thống nhất về chủ trương chuyển các tuyến đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai thành quốc lộ (Thông báo kết luận số 493/TB-BGTVT ngày 25/8/2016 và số 518/TB-BGTVT ngày 01/09/2016) với hướng tuyến cụ thể như sau: Tuyến xuất phát tại Km280+800/QL.37 (tương ứng với Km96+500/QL.32C) đi trùng QL.37 dài 3km, tuyến đi tiếp trên địa phận tỉnh Yên Bái gồm: ĐT.166, ĐT.163, ĐT.164, ĐH.91C; trên địa phận tỉnh Lào Cai gồm: ĐT.161, QL.279, ĐT.151, ĐT.152, đường Sa Pả - Hào Thảo, QL.4D, ĐT.155, ĐT.158 và kết thúc tại cửa khẩu Bản Vượt (Việt Nam - Trung Quốc), có tổng chiều dài khoảng 270km.
- Tuy nhiên trên tuyến đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai còn một số tồn tại:
+ Địa phận tỉnh Yên Bái: tuyến gồm nhiều loại đường cấp IV, V, VI miền núi, kết cấu mặt đường bê tông nhựa, láng nhựa nhiều đoạn xấu hư hỏng; trên tuyến có 14 cầu tải trọng H13-XB60, 13 ngầm vượt sông suối (trong đó có 2 ngầm rọ đá), 01 công chui qua đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, 06 điểm giao cắt với đường sắt, mốc lộ giới, cọc tiêu, biển báo còn thiếu chưa đầy đủ;
+ Địa phận tỉnh Lào Cai: tuyến gồm nhiều loại đường cấp IV, V, VI miền núi, kết cấu mặt đường bê tông nhựa, láng nhựa nhiều đoạn xấu hư hỏng; trên tuyến có 05 cầu tải trọng H13-XB60, 10 ngầm vượt sông suối, 01 cống chui qua đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, mốc lộ giới, cọc tiêu, biển báo còn thiếu chưa đầy đủ;
+ Hành lang an toàn đường bộ một số đoạn qua khu dân cư bị lấn chiếm không đảm bảo theo quy định.
- Đề nghị UBND tỉnh Yên Bái và UBND tỉnh Lào Cai trước mắt ưu tiên tập trung cải tạo, nâng cấp và khắc phục sửa chữa các tồn tại nêu trên để dần hình thành tuyến đủ điều kiện đưa vào quy hoạch quốc lộ. Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh quy hoạch và chuyển tuyến đường liên tỉnh Yên Bái – Lào Cai thành quốc lộ vào thời điểm thích hợp
136. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri và nhân dân tỉnh Quảng Nam rất bức xúc vì Quốc lộ 1A không có làn đường dành riêng cho xe mô tô, xe thô sơ và người đi bộ nên thường xuyên xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng gây chết người. Đề nghị xem xét đầu tư, mở rộng thêm làn đường dành riêng cho xe mô tô, xe thô sơ và người đi bộ trên quốc lộ 1A (đoạn qua tỉnh Quảng Nam).
Trả lời: (Tại Công văn số 420/BGTVT- ngày 12/1/2017)
Liên quan đến vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ đã có các văn bản số 2365/TTg-KTN ngày 25/12/2015, số 132/TTg-KTN ngày 19/01/2016 và Bộ GTVT có văn bản số 14702/BGTVT-KHĐT ngày 04/11/2015 trả lời Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, theo đó QL1 đoạn qua tỉnh Quảng Nam từ Km942 - Km1027, dài 85 km; tại thời điểm trước khi triển khai Đề án mở rộng QL1, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép đầu tư mở rộng theo hình thức BOT với quy mô 4 làn xe đoạn Tứ Câu - Vĩnh Điện (Km942 - Km947), dài 5 km tại văn bản số 1735/TTg-KTN ngày 27/9/2011 và đoạn từ huyện Phú Ninh - huyện Núi Thành (Km987 - Km1027), dài 40 km tại văn bản số 1999/TTg-KTN ngày 03/11/2010. Còn lại đoạn từ Vĩnh Điện - huyện Phú Ninh (Km947 - Km987), dài 40 km giữ nguyên hiện trạng (2 làn xe).
Theo Đề án mở rộng QL1 đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Thông báo số 55/TB-VPCP ngày 21/02/2012 và Quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đoạn từ Vĩnh Điện - huyện Phú Ninh (Km947 - Km987), dài 40 km nói trên giữ nguyên hiện trạng, chỉ tiến hành tăng cường mặt đường bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do song hành với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đang triển khai xây dựng.
Để đảm bảo an toàn giao thông, UBND tỉnh Quảng Nam đã có Tờ trình số 1992/TTr-UBND ngày 04/6/2013, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng QL1 đoạn Km947 - Km987 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến (văn bản số 5689/VPCP-KTN ngày 12/7/2013 của Văn phòng Chính phủ): "Trước mắt, chưa tiến hành đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 đoạn Km947 - Km987, tỉnh Quảng Nam. Việc đầu tư nâng cấp, mở rộng đoạn tuyến quốc lộ 1 này sẽ triển khai khi có đủ điều kiện".
Do đây là tuyến đường có nhiều khu công nghiệp, dẫn đến lưu lượng lưu thông trên đoạn tuyến ngày càng tăng cao. Để đảm bảo ATGT trên tuyến, UBND tỉnh Quảng Nam tiếp tục có văn bản số 2831/UBND-KTN ngày 21/7/2013 gửi Bộ GTVT về việc đầu tư mở rộng QL1 đoạn Km947 - Km987 theo hình thức BOT với chiều dài toàn tuyến 40 km (trong đó 11 km đã được đầu tư mở rộng với quy mô 4 làn xe, gồm các tuyến tránh thị trấn Vĩnh Điện, cầu Bà Rén, cầu Hương An, còn lại 29 km cần phải đầu tư mở rộng), quy mô đoạn ngoài đô thị chiều rộng nền đường 16,5m, sử dụng trạm thu phí Hòa Phước để hoàn vốn cho dự án và đề nghị Bộ GTVT xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho triển khai thực hiện.
Trên cơ sở đề xuất của Bộ GTVT và UBND tỉnh Quảng Nam, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT chỉ đạo tư vấn tính toán lại dự báo lưu lượng cho QL1 đoạn tuyến này trong bối cảnh giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, có xét đến phân bổ lưu lượng cho tuyến cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi sau khi đưa vào khai thác, đồng thời nhằm đảm bảo hiệu quả tài chính của dự án BOT (do sử dụng trạm thu phí Hòa Phước hiện tại, không lập thêm trạm mới) và xác định nhu cầu đầu tư với quy mô chiều rộng nền đường 16,5m là hợp lý, hiệu quả. Vì vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư đoạn tuyến này theo hình thức BOT có sự hỗ trợ vốn của Nhà nước với quy mô đoạn qua đô thị có chiều rộng nền đường 20,5m, đoạn ngoài đô thị có chiều rộng nền đường 16,5m (văn bản số 7645/VPCP-KTN ngày 13/9/2013). Như vậy, việc mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Quảng Nam đã được triển khai đúng quy định, đảm bảo hiệu quả.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri tỉnh Quảng Nam, sau khi dự án cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đưa vào khai thác, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với tỉnh Quảng Nam đánh giá lưu lượng xe để có giải pháp xử lý an toàn giao thông trên tuyến quốc lộ 1.
137. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng cầu treo Trà Linh bắt qua sông Thu Bồn tại khu vực Hòn Kẽm đá dừng (xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức).
Trả lời: (Tại Công văn số 15675/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Cầu treo Trà Linh dự kiến bắt qua sông Thu Bồn tại xã Hiệp Hoà, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam là cầu có quy mô lớn không hội đủ tiêu chí đề án xây dựng cầu dân sinh trên địa bàn 50 tỉnh miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 2529/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 nên sở GTVT không báo cáo bộ GTVT để đưa vào đề án.
Để tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực, đồng thời đảm bảo công tác cứu hộ, cứu nạn khi có lũ lớn xảy ra. Bộ GTVT thống nhất với UBND tỉnh Quảng Nam về chủ trương xây dựng cầu treo Trà Linh nói trên
Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của luật ngân sách, vốn đầu tư xây dựng công trình này thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, vì vậy đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam cân đối và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp để thực hiện. trường hợp tỉnh không có khả năng cân đối vốn, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ương để thực hiện.
138. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng cầu Cẩm Kim, thành phố Hội An.
Trả lời: (Tại Công văn số 15630/BGTVT- ngày 28/12/2016)
Bộ GTVT thống nhất với kiến nghị của cử tri về sự cần thiết đầu tư xây dựng cầu Cẩm Kim, thành phố Hội An để kết nối hệ thống giao thông từ quốc lộ đến đường tỉnh, đường huyện, đường xã đảm bảo giao thông thông suốt bốn mùa, thúc đẩy phát triển KT-XH và bảo đảm an toàn giao thông của địa phương, đặc biệt là khu đông dân cư và nơi có địa điểm du lịch.
Theo phân cấp, công trình này do địa phương quản lý, khai thác và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, vốn đầu tư xây dựng công trình này thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, vì vậy Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam căn cứ vào chiến lược, quy hoạch GTVT đã được duyệt, cân đối ngân sách địa phương và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện. Trường hợp Tỉnh không có khả năng cân đối vốn, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần từ ngân sách Trung ương để thực hiện.
1390. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng tuyến đường Thắng Lợi ( từ xã Tiên Hà, huyện Tiên Phước đi ngã ba An Tráng, xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức) dài 2km, đây là tuyến đường hết sức khó khăn, trong khi ngân sách tỉnh không đủ điều kiện đầu tư, xây dựng. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện nhân dân đi lại, đảm bảo an toàn và góp phần phát triển kinh tế;
Trả lời: (Tại Công văn số 15631/BGTVT- ngày 28/12/2016)
Bộ GTVT thống nhất với kiến nghị của cử tri về sự cần thiết đầu tư xây dựng tuyến đường Thắng Lợi (từ xã Tiên Hà, huyện Tiên Phước đi ngã ba An Tráng, xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức) để kết nối hệ thống giao thông từ quốc lộ đến đường tỉnh, đường huyện, đường xã đảm bảo giao thông thông suốt bốn mùa, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại, bảo đảm an toàn giao thông, thúc đẩy phát triển KT-XH và góp phần hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới của địa phương,.
Theo phân cấp, công trình này do địa phương quản lý, khai thác và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, vốn đầu tư xây dựng công trình này thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, vì vậy Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam căn cứ vào chiến lược, quy hoạch GTVT đã được duyệt, cân đối ngân sách địa phương và huy động mọi nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện. Trường hợp Tỉnh không có khả năng cân đối vốn, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần từ ngân sách Trung ương để thực hiện
140. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị sửa chữa nâng cấp mở rộng tuyến Quốc lộ 14B (đoạn từ ngã ba thị trấn Ái Nghĩa đi xã Đại Hiệp, huyện Đại Lộc).
Trả lời: (Tại Công văn số 1235/BGTVT- ngày 9/2/2017)
141. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị sửa chữa nâng cấp Quốc lộ 40B (đoạn từ xã Tam Thanh, thành phố Tam Kỳ đi Tây Nguyên), từ UBND xã Duy Sơn giáp với đường lên căn cứ địa cách mạng Hòn Tàu tại xã Duy Sơn (căn cứ địa cách mạng Khu ủy Quảng Đà), vì mặt đường đã hư hỏng nặng, xuống cấp nghiêm trọng, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 1235/BGTVT- ngày 9/2/2017)
1. Quốc lộ 14B:
Quốc lộ 14B từ cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) đến Thạch Mỹ (Quảng Nam), dài 74 km (đoạn qua thành phố Đà Nẵng, dài 32 km, đoạn qua tỉnh Quảng Nam, dài 42 km), trong đó: Đoạn từ cảng Tiên Sa - Túy Loan, dài 24 km đã được xây dựng với tiêu chuẩn đường cấp II, 4 làn xe phù hợp theo quy hoạch được duyệt. Đoạn từ Túy Loan - Thạch Mỹ, dài 50 km, trong đó: đoạn từ Km24 - Km32 đã đạt tiêu chuẩn đường cấp III, 2 làn xe, còn lại đoạn từ Km32 - Km74 hiện nay là đường cấp IV miền núi (Bnền=9m, Bmặt=8m) phù hợp với quy hoạch đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1. Trên cơ sở đề nghị của địa phương và báo cáo của Bộ GTVT, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1726/TTg-KTN ngày 28/9/2015 cho phép điều chỉnh quy hoạch đoạn Túy Loan - cầu Hà Nha (Km23+908 - Km50) từ 2 làn xe thành 4 làn xe và đầu tư đoạn tuyến nêu trên theo hình thức BOT. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai dự án, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô Quảng Nam chưa đồng thuận với chủ trương đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Bộ GTVT đã có văn bản số 15396/BGTVT-ĐTCT ngày 23/12/2016 báo cáo Thủ tướng Chính phủ dừng triển khai dự án cải tạo, nâng cấp QL14B đoạn Túy Loan - cầu Hà Nha theo hình thức BOT. Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 25,3 tỷ đồng.
Riêng đoạn tuyến Quốc lộ 14B (cũ) đoạn từ thị trấn Ái Nghĩa đến xã Đại Hiệp, huyện Đại Lộc thuộc đường tỉnh 609B do UBND tỉnh Quảng Nam quản lý nên việc đầu tư sửa chữa thuộc nguồn ngân sách của UBND tỉnh Quảng Nam.
2. Quốc lộ 40B:
Quốc lộ 40B đã được Bộ GTVT nâng cấp từ tuyến đường Nam Quảng Nam (Tam Thanh - Tam Kỳ - Trà My - Tắc Pỏ - Đắc Tô) tại Quyết định số 2825/QĐ-BGTVT ngày 16/9/2013, chiều dài toàn tuyến L=209,1 km, trong đó: đoạn qua tỉnh Quảng Nam dài 147,4 km; đoạn qua tỉnh Kon Tum dài 61,7 km. Trước đây, xác định là tuyến đường quan trọng, Bộ GTVT đã phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định 1144/QĐ-BGTVT ngày 26/4/2005 với quy mô đường cấp IV, 2 làn xe, dài 209,1 km, tổng mức đầu tư khoảng 2.072 tỷ đồng, trước mắt đầu tư giai đoạn 1 khoảng 60 km (trong đó đoạn qua tỉnh Quảng Nam dài 46,1 km) với tổng mức đầu tư là 664 tỷ đồng. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1561/TTg-KTTH ngày 03/10/2006, Bộ GTVT đã chuyển về cho tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum thực hiện quản lý và thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, đến nay đã cơ bản hoàn thành giai đoạn 1. Do nguồn vốn khó khăn, giai đoạn 2 của dự án chưa được triển khai. Như vậy, Quốc lộ 40B đoạn qua tỉnh Quảng Nam đã được xây dựng phù hợp theo quy hoạch dài 46,1 km, còn lại 101,3 km chưa được đưa vào cấp.
Để triển khai đầu tư 101,3 km đoạn còn lại phù hợp theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp dự án QL40B vào danh mục các dự án đầu tư công giai đoạn 2016-2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn khó khăn, vì vậy việc đầu tư QL40B bằng nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 là chưa thực hiện được. Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 26,9 tỷ đồng.
Riêng tuyến đường từ xã Duy Sơn lên khu di tích căn cứ địa Hòn Tàu. Đây là tuyến đường địa phương đã được UBND tỉnh Quảng Nam phân loại, đặt số hiệu là ĐH8.ĐX và giao cho UBND huyện Duy Xuyên quản lý nên việc đầu tư sửa chữa thuộc nguồn ngân sách của UBND tỉnh Quảng Nam.
142. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị kiểm tra, chấn chỉnh tuyến đường DH7 thăng nhưng lại thi công đi vòng, gây khó khăn cho người tham gia giao thông tại xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên.
Trả lời: (Tại Công văn số 431/BGTVT-CQLXD ngày 12/1/2017 )
- Đường ĐH7 hiện trạng của huyện Duy Xuyên giao cắt với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi tại lý trình Km28+997 (theo lý trình đường cao tốc). Trên cơ sở biên bản thỏa thuận giữa Chủ đầu tư, Tư vấn thiết kế và UBND huyện Duy Xuyên ngày 16/4/2012 về vị trí xây dựng cống chui dân sinh, VEC đã phê duyệt thiết kế kỹ thuật cống chui dân sinh khẩu độ BxH = (6,5x4,5)m tại lý trình Km29+042 (không trùng với vị trí giao cắt hiện trạng, cách đường hiện trạng khoảng 47m), đồng thời có thiết kế đường ngang rộng 6,5m để nắn chỉnh cục bộ một đoạn tuyến ĐH7 đi qua cống chui dân sinh nêu trên. Việc bố trí cống chui dân sinh không trùng vị trí giao cắt hiện hữu nhằm mục đích không làm ảnh hưởng đến việc lưu thông trên tuyến ĐH7 trong quá trình thi công cống chui. Thực tế, việc thiết kế nắn chỉnh tuyến ĐH7 đoạn qua cống chui tuy đáp ứng các yếu cầu kỹ thuật của tuyến ĐH7 nhưng phần nào vẫn tạo cảm giác không thoải mái cho người tham gia giao thông trên tuyến ĐH7.
- Ngày 24/6/2013, UBND huyện Duy Xuyên có Quyết định số 3088/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới và ban hành Quy định quản lý xây dựng theo quy hoạch xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012 - 2020. Theo đó, tuyến ĐH7 đoạn từ ngã ba thôn Hòa Nam đến Cẩm An có quy mô mặt cắt ngang 13,5m = (3+7,5+3)m, kết cấu bằng BTXM.
- Để phù hợp với quy hoạch của UBND huyện Duy Xuyên nêu trên, trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Quảng Nam tại văn bản số 3755/UBND-KTN ngày 08/8/2016, Bộ GTVT đã có văn bản số 12045/BGTVT-CQLXD ngày 13/10/2016 chấp thuận về chủ trương bổ sung cống chui dân sinh khẩu độ (7,5x4,5)m tại Km28+997 (trùng với vị trí giao cắt với tuyến ĐH7 hiện trạng) và mở rộng đường ngang qua cống chui mới bổ sung này với chiều rộng bằng chiều rộng Bmặt = 7,5m, kết cấu bằng BTXM phù hợp với quy hoạch của tuyến ĐH7, đề nghị của UBND tỉnh Quảng Nam cũng như nguyện vọng của nhân dân sinh sống hai bên tuyến. Hiện cống chui và đường ngang nêu trên đang được Nhà thầu khẩn trương hoàn thiện.
143. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị xem xét, bố trí nguồn vốn để đầu tư hạng mục thảm nhựa tăng cường mặt đường và vỉa hè, hệ thống thoát nước dọc tuyến đường tránh Nguyễn Hoàng qua thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Trả lời: (Tại Công văn số 1024/BGTVT- ngày 25/1/2017)
Để khôi phục phần nền, mặt đường, hệ thống thoát nước, an toàn giao thông bị hư hỏng; đặc biệt là các đoạn tuyến bị lún nứt, cao su, nền, mặt đường bị phá hoại, có xu hướng lan rộng sau đợt mưa lũ lịch sử ở miền Trung tháng 11 - 12/2016 trên tuyến đường tránh Nguyễn Hoàng qua thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, Bộ GTVT đã có văn bản số 922/BGTVT-KCHT ngày 24/1/2017 chấp thuận sửa chữa cấp bách nền, mặt đường, hệ thống thoát nước, an toàn giao thông trên Quốc lộ 1 đoạn tránh thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Trong đó có hạng mục xử lý nền, mặt đường cũ, thảm tăng cường trên phần mặt đường và lề đường gia cố và sửa chữa hệ thống thoát nước theo kiến nghị của cử tri.
144. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Việc xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi (đoạn qua tỉnh Quảng Nam) gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của nhân dân xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên; làm nứt nhà dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất của người dân tại khu vực xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo kiểm tra và có biện pháp khắc phục.
Trả lời: (Tại Công văn số 431/BGTVT-CQLXD ngày 12/1/2017 )
Đối với phản ánh về việc thi công đường xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi (đoạn qua tỉnh Quảng Nam) gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của nhân dân xã Duy Trung, huyện Duy; làm nứt nhà dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất của người dân tại khu vực xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành:
1. Về phản ánh việc thi công đường cao tốc gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của nhân dân xã Duy Trung, huyện Duy:
Theo thiết kế kỹ thuật được duyệt, tại các vị trí kênh, mương dẫn nước phục sản xuất nông nghiệp bị tuyến cao tốc cắt ngang hoặc chiếm dụng đều có thiết kế cống thoát nước ngang hoặc mương cải đảm bảo khẩu độ thoát nước; các vị trí đường tỉnh, đường huyện, đường dân sinh, đường nội đồng,…bị chiếm dụng hoặc bị tuyến cao tốc cắt ngang đều được cống chui dân sinh hoặc cầu vượt hoặc đường gom để hoàn trả. Cụ thể, theo thiết kế kỹ thuật được duyệt, đoạn tuyến có bố trí 16 vị trí cống ngang thoát nước (05 cống tròn và 11 cống hộp); 01 cống chui dân sinh (tại vị trí giao cắt đường huyện ĐH7); 700m đường gom; 180m rãnh thoát nước.
Trong quá trình thi công, chủ đầu tư dự án (Tổng công ty Đầu tư và Phát triển đường cao tốc Việt Nam) đã phối hợp với các cơ quan chức năng địa phương rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống thoát nước, đường gom, cống chui dân sinh đảm bảo giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân địa phương. Cụ thể, trong quá trình thi công, đã bổ sung 916m đường gom, điều chỉnh 01 vị trí cống ngang, bổ sung thêm khẩu độ cống chui dân sinh tại vị trí giao cắt đường huyện ĐH7, bổ sung mương cải tại 03 vị trí cống thoát nước. Tuy nhiên, thực tế trong giai đoạn chưa hoàn thành việc đấu nối hạ lưu các cống với hệ thống dẫn nước của địa phương đang thi công; các cống tạm trên đường công vụ khẩu độ nhỏ dẫn đến bồi lắng, ngập úng cục bộ.
Đến nay, hệ thống kênh dọc, mương thủy lợi đã được hoàn trả đầy đủ; các cống ngang thoát nước đã được chấp thuận kết nối với hệ thông kênh mương địa phương (hiện nhà thầu đang triển khai thi công và đã cơ bản hoàn thành); hệ thống bảo vệ mái dốc hai bên ta luy đắp của đường chính đã thi công xong không ảnh hưởng ra ngoài phạm vi GPMB; tại đường huyện ĐH7, đã thay đổi thiết kế và bổ sung thêm 01 khẩu độ cống chui dân sinh (7,5x6,4)m tại vị trí giao cắt.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Chủ đầu tư và các cơ quan đơn vị liên quan tiếp tục theo dõi và đánh giá để kịp thời điều chỉnh, bổ sung thiết kế cho phù hợp; đồng thời đôn đốc các Nhà thầu khơi thông cống tạm để không làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân địa phương.
2. Về việc thi công đường cao tốc làm nứt nhà dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất của người dân tại khu vực xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành:
Do tính chất đặc biệt của công việc, để đảm bảo độ chặt khu lu lèn các lớp vật liệu nền, móng và mặt đường, bắt buộc phải sử dụ lu rung, sóng giao động của lu rung có thể gây nứt các nhà dân nằm trong vùng ảnh hưởng. Theo báo cáo của Chủ đầu tư dự án, đoạn tuyến qua khu vực xã Tam Hiệp, huyện Núi Thành có 02 hộ dân có nhà nằm ngoài phạm vi GPMB của dự án bị nứt do ảnh hưởng của việc thi công đường xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi. Để giải quyết vấn đề trên phía Nhà thầu thi công và đơn vị bảo hiểm đã có 02 lần đo đạc, kiểm tra và mời các hộ dân bị ảnh hưởng đến để chi trả tiền đền bù thiệt hại, đại diện của các hộ dân này đã đồng ý nhận tiền đền bù nhưng kèm theo yêu cầu phải được bố trí đất tái định cư. Bộ GTVT kính đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh chỉ đạo các cơ quan ban ngành địa phương giải quyết dứt điểm các yêu cầu nêu trên của người dân trong thời gian tới.
145. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện tại nhiều tuyến đường Quốc lộ (QL) qua địa bàn tỉnh đã xuống cấp nghiêm trọng, việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đề nghị sớm bố trí kinh phí, hỗ trợ cho tỉnh nâng cấp các tuyến đường Quốc lộ, cụ thể: QL 14C (giai đoạn 2). QL 19C đoạn từ xã Krông Jing đến xã Ea M’Đoal (huyện M’Đrăk) sang tỉnh Phú Yên. QL 27 thuộc địa bàn tỉnh quản lý. QL29 từ cảng Vũng Rô ( Phú Yên) đến QL14 (tại thị xã Buôn Hồ).
Trả lời: (Tại Công văn số 15766/BGTVT- ngày 30/12/2016)
- Về tuyến đường Đông – Tây, thành phố Buôn Ma Thuột
Tuyến đường Đông – Tây, thành phố Buôn Ma Thuột được đầu tư sẽ tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung. Vì vậy, việc sớm đầu tư nâng cấp tuyến đường là cần thiết.
Theo quy định tại Luật Ngân sách đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho tuyến đường nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét để được hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
2.Về đường tránh phía Đông, thành phố Buôn Ma Thuột
Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk tại Thông báo số 166/TB-VPCP ngày 07/7/2016 của Văn phòng Chính phủ, Bộ GTVT đã có Văn bản số 10083/BGTVT-KHĐT ngày 29/8/2016 đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung Dự án đường tránh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai dự án theo quy định.
3. Về đầu tư nâng cấp các tuyến đường QL14C, QL19C, QL27 và QL.29 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk:
Các tuyến đường QL14C, QL27 và QL.29 là các dự án có vai trò rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Bộ GTVT đã dự kiến trong danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho các dự án nêu trên.
Riêng QL19C, đây là tuyến đường năm 2016 mới được nâng cấp từ đường tỉnh ĐT.13B, tỉnh Đắk Lắk cũng chưa được bổ sung vào quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam. Hiện tại, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 chưa bao gồm danh mục đầu tư nâng cấp tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ ngành đề xuất nguồn vốn đầu tư thích hợp.
Trước mắt trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông các tuyến đường nêu trên.
146. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm bố trí kinh phí bảo trì đường tỉnh lộ (TL) cho tỉnh để cải tạo, nâng cấp một số tuyến đường xuống cấp nghiêm trọng, bảo đảm lưu thông thuận lợi cho người dân như: TL 9 từ thị trấn Phước An (huyện Krong Păk) đến xã Khuê Ngọc Điền (huyện Krông Bông). TL12 từ ngã ba Yang Réh (huyện Krông) đến xã Cư Drâm (huyện Krông Bông). TL 3 (đoạn ngã từ thị xã Buôn Hồ đi qua thị trấn Krông Năng đến cây số 52 thuộc huyện EaKar); TL2 (đoạn giao nhau với QL14 đến trung tâm xã Ea Na, huyện Krông Ana), TL13 (xã Ea Lai vào xã Cư Prao, huyện M’Drắk), TL15 (đoạn từ thị trấn Ea Drăng đến xã Ea Sol, huyện Ea H’leo), TL1 (đoạn từ huyện Buôn Đôn đến huyện Ea Súp).
Trả lời: (Tại Công văn số 12/BGTVT- ngày 16/1/2017)
Trong các năm gần đây Quỹ BTĐB Trung ương, Bộ Giao thông vận tải đã luôn quan tâm, ưu tiên dành nguồn vốn dành cho công tác bảo trì đường bộ tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng, nguồn vốn bảo trì đường bộ liên tục tăng thêm, năm sau cao hơn năm trước. Chỉ tỉnh riêng nguồn vốn 65% để bảo trì quốc lộ được ủy thác cho Sở GTVT Đăk Lăk như sau: Năm 2014 là 48,437 tỷ đồng; năm 2015 là 68,271 tỷ đồng, năm 2016 là 108,136 tỷ đồng; năm 2017 là 129,304 tỷ đồng. Tương tự, đối với nguồn vốn 35%: Năm 2014 là 25,334 tỷ đồng; năm 2015 là 32,430 tỷ đồng, năm 2016 là 38,142 tỷ đồng.
Với nguồn vốn được phân bổ từ Quỹ TW như trên, các tuyến quốc lộ và nhiều tuyến đường địa phương trên địa bàn tỉnh Đăk Lắk đã được đầu tư sửa chữa, tuy nhiên do nguồn vốn còn hạn chế nên sửa chữa hàng năm chỉ mới đáp ứng yêu cầu đảm bảo giao thông êm thuận, chưa đảm bảo sữa chữa triệt để, dứt điểm, việc bố trí vốn tuy còn thiếu so với nhu cầu nhưng đã cơ bản bảo đảm an toàn giao thông so với giai đoạn trước.
Trên cơ sở đề xuất của Quỹ BTĐB tỉnh Đắk Lắk, trong các năm 2015 và 2016, Quỹ BTĐB Trung ương đã chấp thuận kế hoạch sửa chữa đối với các tuyến đường tỉnh, riêng tuyến đường tỉnh ĐT.689 (TL.9) ngoài kế hoạch chính thức, năm 2016 được Quỹ TW hỗ trợ bổ sung 8 tỷ đồng. Các tuyến ĐT.692 (TL.12), tuyến ĐT.697 (TL.1) đã được các Đoàn công tác của Quỹ TW kiểm tra ghi nhận các hư hỏng thực tế, đề nghị Hội đồng Quỹ TW bố trí kinh phí sửa chữa trong năm 2017 và các năm tiếp theo với quy mô sửa chữa nền mặt đường, hệ thống thoát nước và cứng hoá mặt đường bằng bê tông xi măng một số đoạn thường xuyên ngấp nước. Hiện nay Quỹ TW đang xây dựng phương án phân bổ ngồn 35% năm 2017 về các Quỹ BTĐB địa phương, căn cứ ý kiến của cử tri về sửa chữa các tuyến đường tỉnh nêu trên, Quỹ BTĐB Trung ương sẽ phối hợp với Quỹ BTĐB và Sở GTVT tỉnh Đắk Lắk để bố trí kinh phí sửa chữa, bảo trì các tuyến đường bộ trên địa bàn tỉnh.
Trong điều kiện nguồn vốn từ Quỹ TW còn hạn hẹp trong khi nhu cầu vốn bảo trì đường bộ của địa phương là rất lớn, Quỹ BTĐB Trung ương và Bộ GTVT sẽ tiếp tục xem xét, có ý kiến chỉ đạo các cơ quan thuộc Bộ GTVT quan tâm đề nghị nêu trên của cử tri tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk cân đối bố trí bổ sung kinh phí từ ngân sách hằng năm của tỉnh để sửa chữa các tuyến đường địa phương, bảo đảm ATGT cho người và phương tiện tham gia giao thông trên các tuyến đường bộ địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
147. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Đề nghị quan tâm đầu tư, sớm đưa các đường huyết mạch của thành phố Buôn Ma Thuật đi vào thông tuyến, bảo đảm lưu lượng xe lưu thông thông suốt, tránh ách tắc, dễ xảy ra tai nạn giao thông như hiện nay, gồm: Đường Đông – Tây thành phố Buôn Ma Thuật, đường tránh phía đông thành phố Buôn Ma Thuật
Trả lời: (Tại Công văn số 15766/BGTVT- ngày 30/12/2017)
- Về tuyến đường Đông – Tây, thành phố Buôn Ma Thuột
Tuyến đường Đông – Tây, thành phố Buôn Ma Thuột được đầu tư sẽ tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung. Vì vậy, việc sớm đầu tư nâng cấp tuyến đường là cần thiết.
Theo quy định tại Luật Ngân sách đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho tuyến đường nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trường hợp khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét để được hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.
- Về đường tránh phía Đông, thành phố Buôn Ma Thuột
Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk tại Thông báo số 166/TB-VPCP ngày 07/7/2016 của Văn phòng Chính phủ, Bộ GTVT đã có Văn bản số 10083/BGTVT-KHĐT ngày 29/8/2016 đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung Dự án đường tránh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai dự án theo quy định.
- Về đầu tư nâng cấp các tuyến đường QL14C, QL19C, QL27 và QL.29 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk:
Các tuyến đường QL14C, QL27 và QL.29 là các dự án có vai trò rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Bộ GTVT đã dự kiến trong danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho các dự án nêu trên.
Riêng QL19C, đây là tuyến đường năm 2016 mới được nâng cấp từ đường tỉnh ĐT.13B, tỉnh Đắk Lắk cũng chưa được bổ sung vào quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam. Hiện tại, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 chưa bao gồm danh mục đầu tư nâng cấp tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ ngành đề xuất nguồn vốn đầu tư thích hợp.
Trước mắt trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông các tuyến đường nêu trên.
148. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Cử tri trên địa bàn tỉnh tiếp tục kiến nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải quan tâm đầu tư kinh phí nâng cấp mở rộng quốc lộ 49A (đoạn từ thành phố Huế đến xã Hồng Hạ, huyện A Lưới). Để nhân dân thuận tiện trong việc đi lại và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội huyện miền núi A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
Trả lời: (Tại Công văn số 15561/BGTVT- ngày 28/12/2016)
- Dự án đầu tư xây dựng công trình QL49 đã được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 2050/QĐ-BGTVT ngày 14/7/2009 với tổng mức đầu tư 2.442 tỷ đồng (trong đó giai đoạn 1 là 1.892 tỷ đồng). Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 11/NQ-CP và Chỉ thị 1792/CT-TTg của Chính phủ dự án phải tạm đình hoãn. Đến nay, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã bố trí cho dự án là 353,8 tỷ đồng, do vậy Bộ GTVT đã chỉ đạo tập trung thi công hoàn thành các gói thầu từ Km65+00 đến Km74+00 (đoạn tuyến qua đèo Aco) và xử lý vuốt nối với đường hiện tại để khai thác và đảm bảo an toàn giao thông.
- Đối với đoạn từ thành phố Huế đến xã Hồng Hạ (từ Km18+00-Km65+00): Bộ GTVT đã tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư để hoàn thành Dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020 của Bộ. Tuy nhiên, do mức vốn trái phiếu Chính phủ bố trí cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 rất thấp, chưa đủ để cân đối cho các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách của ngành nên việc xem xét đầu tư dự án này trong giai đoạn 2016-2020 là hết sức khó khăn. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tìm kiếm nguồn vốn để sớm triển khai hoàn thành dự án, trước mắt Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường duy tu, bảo dưỡng tuyến đường để đảm bảo an toàn giao thông cho các phương tiện lưu thông trên tuyến đường huyết mạch kết nối trục đô thị A Lưới với thành phố Huế.
149. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị quan tâm đầu tư thực hiện dự án đường nối Quốc lộ 37, huyện Bắc Yên với tỉnh lộ 106, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Trả lời: (Tại Công văn số 822/BGTVT- KHĐT ngày 20/1/2017)
Về việc đầu tư thực hiện dự án đường nối Quốc lộ 37, huyện Bắc Yên với tỉnh lộ 106, huyện Mường La, tỉnh Sơn La: Bộ GTVT thống nhất với UBND tỉnh về sự cần thiết đầu tư tuyến đường này. Tuy nhiên, đây là đường do UBND tỉnh Sơn La chịu trách nhiệm quản lý và đầu tư xây dựng. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Sơn La chủ động cân đối, bố trí nguồn vốn để thực hiện đầu tư và trả lời Cử tri theo thẩm quyền.
150. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Đề nghị quan tâm bố trí nguồn vốn cho Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông kết nối Quốc lộ 32 (Tại Thị xã Nghĩa Lộ) với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai nút IC 14.
Trả lời: (Tại Công văn số 824/BGTVT- ngày 20/1/2017)
Do các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ dự kiến bố trí cho Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép đưa dự án vào danh mục vay vốn Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) giai đoạn 2015 - 2017. Hiện nay, đang ở bước chuẩn bị cung cấp hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu dự án. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với ADB và các Bộ, Ngành liên quan đẩy nhanh các thủ tục theo quy định để sớm triển khai dự án này.
151. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Trên Quốc lộ 1A, đoạn trước cổng thôn Mỹ Nhơn, xã Bắc phong, huyện Thuận Bắc được lắp đặt bảng báo, hướng dẫn giao thông chưa phù hợp nên bị che khuất tầm nhìn đối với người tham gia giao thông, từ đó đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông. Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các cơ quan, đơn vị hữu quan tổ chức khảo sát lại việt lắp đặt bảng báo, hướng dẫn giao thông và thiết kế hệ thống giảm tốc tại đây. Đồng thời nghiên cứu mở dải phân cách tại điểm vào xã Phước Ninh, huyện Thuận Nam.
Trả lời: (Tại Công văn số 929/BGTVT- ngày 24/1/2017)
- Tổng cục ĐBVN đã yêu cầu Công ty TNHH MTV BOT tỉnh Ninh Thuận thực hiện phát quang đảm bảo tầm nhìn để người tham gia giao thông dễ quan sát; hiện tại việc phát quang đảm bảo tầm nhìn đã hoàn thành; đồng thời, yêu cầu Công ty TNHH MTV BOT tỉnh Ninh Thuận triển khai thực hiện việc lắp đặt thay thế, bổ sung biển báo phân làn xe (biển R.415) trên tuyến QL.1 thuộc dự án BOT; thời gian hoàn thành trước ngày 30/01/2017.
- Tại Công văn số 11373/BGTVT-KCHT ngày 27/8/2015, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan giải quyết việc điều chỉnh, đóng, mở dải phân cách giữa trên các đoạn tuyến đã bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng thuộc dự án nâng cấp mở rộng QL.1 đoạn Thanh Hóa đến Cần Thơ. Đối với việc đề nghị mở dải phân cách giữa vào xã Phước Minh, huyện Thuận Nam, Tổng cục ĐBVN chủ trì, phối hợp với các cơ quan, ban ngành của địa phương đã tiến hành kiểm tra vào ngày 25/4/2016 và đã thống nhất không mở dải phân cách giữa tại vị trí này (lý trình Km1577+500) do đã có đường gom và đã bố trí 02 điểm mở dải phân cách giữa lân cận vị trí này tại Km1577+020 cách 480m và tại Km1577+700 cách 200m.
152. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Hiện nay tình trang xe quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu vẫn diễn ra phổ biến gây mất an toàn cho người tham gia giao thông, làm hỏng đường đề nghị các ngành chức năng khẩn trương chấn chỉnh
Trả lời: (Tại Công văn số 15562/BGTVT- ngày 28/12/2017)
Thực hiện Công điện số 95/CĐ-TTg ngày 10/01/2013 và Công điện số 1966/CĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và tăng cường kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ; Ngày 21/11/2013, liên Bộ Công an – Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA về phối hợp thực hiện kiểm soát, xử lý vi phạm chở hàng vượt quá tải trọng của xe ô tô, đồng loạt thực hiện từ ngày 01/4/2014 trên phạm vi cả nước. Sau hơn 02 năm thực hiện (tính đến ngày 01/8/2016), trên cả nước tình hình vi phạm về tải trọng phương tiện đã được kiểm soát, giảm trên 92% so với thời điểm trước khi thực hiện Kế hoạch 12593/KHPH-BGTVT-BCA. Tuy nhiên, từ sau ngày 01/8/2016 đến nay, sau khi kết thúc Kế hoạch liên Bộ, tình hình phương tiện vận tải vi phạm về kích thước thùng xe và chở quá tải trọng cho phép tại một số tỉnh, thành phố đang có diễn biến phức tạp và có chiều hướng tái diễn trở lại.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe, kịp thời ngăn chặn tái diễn và tiến tới chấm dứt tình trạng xe ô tô vi phạm tải trọng, cơi nới kích thước thùng xe tại các địa phương. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải vừa triển khai các giải pháp như sau:
1. Bộ GTVT đã ban hành văn bản số 15235/BGTVT-ATGT ngày 20/12/2016 về việc tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện để triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CTTg của Thủ tướng Chính phủ.
2. Phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, tổ chức 02 Đoàn Kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng phương tiện đường bộ tại một số địa phương (đã triển khai tại Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên và Hải Dương trong tháng 11 năm 2016).
3. Đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia để chỉ đạo và đề nghị Ban An toàn giao thông các tỉnh (trong đó có Ban ATGT tỉnh Lạng Sơn) triển khai các nội dung sau đây:
- Báo cáo và đề nghị Tỉnh ủy và Thành ủy các tỉnh, thành phố ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”, trong đó có nhiệm vụ về kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Tham mưu, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch chi tiết triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông, trong đó phân công và xác định trách nhiệm cụ thể của lực lượng Công an, Giao thông vận tải và Chính quyền địa phương các cấp, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
- Chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải:
+ Quản lý, vận hành các Trạm kiểm tra tải trọng xe do Bộ Giao thông vận tải trang bị; kiện toàn, tổ chức lại hoạt động của Trạm kiểm tra tải trọng xe phù hợp với tình hình của địa phương; củng cố và nâng cao năng lực của lực lượng Thanh tra giao thông;
+ Rà soát việc tổ chức ký cam kết không chở hàng quá trọng tải, không xếp hàng hóa lên xe quá trọng tải cho phép của các doanh nghiệp, doanh nghiệp nào chưa ký thì yêu cầu phải ký cam kết, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cam kết đã ký và xử lý nghiêm các đơn vị vận tải, đầu mối hàng hóa vi phạm cam kết về xếp hàng hóa lên xe ô tô không vượt quá tải trọng cho phép.
- Chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố:
+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của ngành Giao thông vận tải trong việc triển khai thực hiện công tác kiểm soát tải trọng phương tiện trên địa bàn;
+ Chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với hành vi: vi phạm chở hàng quá tải trọng, phóng nhanh, vượt ẩu khi tham gia giao thông, chú trọng trên các tuyến quốc lộ trọng điểm qua địa bàn địa phương;
+ Chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát thực hiện trao đổi kịp thời, đầy đủ thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động vận tải, đặc biệt là hoạt động kiểm soát tải trọng phương tiện cho các cơ quan chức năng của ngành Giao thông vận tải để phục vụ công tác quản lý và xử lý vi phạm.
- Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng của địa phương:
+ Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về công tác kiểm soát tải trọng phương tiện;
+ Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch vận tải và bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong dịp Tết dương lịch và Âm lịch năm 2017.
153. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị tăng cường thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn giao thông; có giải pháp hiệu quả hạn chế tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông; thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật về an toàn giao thông để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân khi tham gia giao thông; xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm.
Trả lời: (Tại Công văn số 15834/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; trong đó, năm 2016 tai nạn giao thông trên toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.792 người bị thương (-8,5%).
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông vẫn còn một số tồn tại hạn chế: số vụ và số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém, nhiều vi phạm vẫn còn diễn ra phổ biến…, đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
Để chấn chỉnh tình trạng này, thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT, trong đó chú trọng thực hiện các nội dung sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; đặc biệt là tập trung sửa đổi các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, hàng không, Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo hướng tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vận tải.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự ATGT; trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền các quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ để người dân, cán bộ, doanh nghiệp, đơn vị thi công…kịp thời nắm bắt các quy định mới và triển khai thực hiện.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thành các dự án đường sắt trên cao, lắp đặt cầu vượt cho xe tải trọng nhẹ; tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện quy định bảo đảm an toàn giao thông tại các khu vực thi công trên đường bộ đang khai thác, gắn trách nhiệm Chủ đầu tư, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình và an toàn giao thông trong quá trình thi công dự án; khắc phục kịp thời các điểm đen, các vị trí mất an toàn giao thông trên đường bộ; rà soát điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm định ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.
- Phối hợp với các thành phố lớn xây dựng và triển khai các giải pháp phát triển hợp lý các phương thức vận tải, nhằm mục tiêu đẩy nhanh phát vận tải hành khách công cộng.
- Tăng cường kiểm tra xe kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; chỉ đạo các Trung tâm đăng kiểm tăng cường phối hợp với lực lượng Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông tại địa phương trong việc kiểm soát xử lý xe hết niên hạn sử dụng, xe quá hạn kiểm định.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ về bảo đảm TTATGT; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.
154. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri kiến nghị cần có riêng làn xe dành cho xe tải nặng, xe container ở các tuyến đường quốc lộ, đường cao tốc nhằm giảm tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 950/BGTVT- ngày 24/1/2017)
1. Hiện nay, theo các quy định của tiêu chuẩn thiết kế đường ô tô tại việt Nam cũng như của đa số các nước trên thế giới, việc xác định số làn xe và bố trí các làn xe trên các tuyến quốc lộ nói chung và đường cao tốc nói riêng được tính toán, lựa chọn trên cơ sở lưu lượng xe thiết kế, được quy đổi từ các loại xe cho phép chạy trên mạng đường công cộng (bao gồm xe tải nặng và xe container); đồng thời việc bố trí các làn xe còn phụ thuộc vào thành phần dòng xe, lưu lượng của từng loại xe tính toán. Bên cạnh đó, việc thiết kế kết cấu áo đường cho các làn xe chạy được tính toán có xét đến tác dụng của tải trọng xe nặng và xe container thông qua trục xe tiêu chuẩn (80 kN, 100 kN, 120 kN) sẽ thông qua mặt cắt ngang đường trong một ngày đêm/ một làn xe cuối thời kỳ thiết kế.
Trường hợp xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn, xe bánh xích khi lưu hành trên đường bộ phải có Giấy phép lưu hành do cơ quan có thẩm quyền cấp và tuân thủ theo quy định ghi trong Giấy phép lưu hành (Điều này được quy định tại Thông tư số 46/2015/TT-BGTVT ngày 07/9/2015 của Bộ GTVT).
2. Trường hợp tách riêng làn dành cho xe tải nặng, xe container về mặt an toàn giao thông và tốc độ lưu thông chung trên đường sẽ tốt hơn so với trường hợp bố trí các làn xe chạy hỗn hợp. Tuy nhiên, khi đó phải thiết kế và và tính toán riêng thành hai “tuyến đường”, một cho xe con và một cho xe tải nặng dựa vào lưu lượng xe quy đổi của từng loại trong ngày hoặc trong giờ cao điểm rồi kết hợp lại. Lúc đó, tổng số làn xe sẽ lớn hơn yêu cầu so với trường hợp chạy chung, đồng thời sẽ phải thiết kế kết cấu áo đường dày hơn cho làn xe tải nặng chạy riêng, dẫn đến kinh phí đầu tư sẽ tăng lên nhiều. Đặc biệt trên thực tế, vào một thời điểm nhất định lưu lượng xe con hoặc xe tải nặng trên làn đường dành riêng sẽ thấp dẫn đến hiệu quả khai thác kém và lãng phí. Mặt khác hiện nay, hệ thống quốc lộ hiện nay chủ yếu là đường cấp III và cấp IV (>70%) với mặt cắt ngang chỉ có 02 làn xe. Còn các tuyến đường cấp cao (đường cấp I, II và cao tốc) chỉ có khoảng 10%, những đoạn đường này thường bố trí dải phân cách giữa 02 chiều xe chạy, mỗi chiều có hai làn xe. Chỉ có một số ít tuyến có nhiều hơn 02 làn xe mỗi chiều như đại lộ Thăng Long, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng…
Với đặc điểm về nguyên tắc thiết kế, khó khăn về nguồn lực và hiện trạng hạ tầng giao thông đường bộ nêu trên thì việc tách riêng làn xe cho xe tải nặng, xe container trên các tuyến quốc lộ là chưa thể thực hiện được trong thời điểm này.
3. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo an toàn giao thông trong các tuyến quốc lộ, Bộ GTVT đã đang chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng đơn vị triển khai nhiều giải pháp liên quan đến nội dung kiến nghị nêu trên của cử tri:
- Đối với các tuyến đường đi qua các khu công nghiệp, các bến cảng lớn, các tuyến đường có từ 03 làn xe một chiều trở nên …có lưu lượng xe tải nặng, xe container tập trung lớn thì yêu cầu bố trí, tổ chức giao thông hợp lý để bố trí làn xe riêng cho phương tiện này và nghiên cứu thiết kế tăng cường kết cấu áo đường cho phù hợp với tải trọng nặng ở các tuyến này.
- Kiểm soát tốc độ và tải trọng của các loại phương tiện vận tải hàng hóa đặc biệt các xe tải nặng, xe container. Đồng thời kết hợp các giải pháp đảm bảo ATGT, nâng cao ý thức cho người tham gia giao thông nhằm giảm ùn tắc và tai nạn giao thông.
- Để chuẩn bị định hướng trong tương lai đối với việc tách riêng làn xe tải nặng, xe container trên các tuyến quốc lộ khi có đủ điều kiện và nguồn lực kinh tế, Bộ GTVT đã giao Trường Đại học Xây dựng chủ trì, phối hợp với Trường Đại học GTVT, Viện KH&CN GTVT và các đơn vị liên quan nghiên cứu đề tài NCKH “Nghiên cứu giải pháp kết cấu, hình hịc, tổ chức giao thông và cơ chế xây dựng làn đường dành riêng cho xe tải nặng – mã số DT174068” trong năm 2017.
155. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Công trình Cầu Neo và đường dẫn trên Quốc lộ 38B đã hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng. Tuy nhiên, từ khi đưa vào khai thác tạm thời (tháng 02 năm 2016) đến nay, tại nút giao QL38B (Km13+800) với ĐT392B đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông, nguyên nhân xác định là do che khuất tầm nhìn và xung đột giao thông tại nút giao. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải có biện pháp để xử lý tình trạng trên.
Trả lời: (Tại Công văn số 717/BGTVT- ngày 19/1/2017)
Về biện pháp xử lý điểm mất an toàn giao thông tại nút giao QL.38B (Km13+800) với ĐT.392B:Ngày 22/11/2016, Tổng cục ĐBVN có văn bản số 6575/TCĐBVN-CQLXDĐB về giải pháp thiết kế tổ chức giao thông tại nút giao Km13+800 QL.38B với ĐT.392B trong đó chấp thuận bổ sung hệ thống đèn tín hiệu giao thông tại nút giao nói trên và giao Ban QLDA3 triển khai thực hiện; đến ngày 23/12/2016 Ban QLDA3 đã chỉ đạo nhà thầu thi công lắp đặt xong hệ thống đèn tín hiệu và đang tiến hành hoạt động thử trước khi chính thức đưa vào khai thác sử dụng.
156. Cử tri tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Bến Tre kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kéo giảm số vụ tai nạn giao thông, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông gây ra. Bởi, hiện nay tình hình tai nạn giao thông trên các địa bàn xảy ra ngày càng nhiều và nghiêm trọng. Hậu quả của tai nạn giao thông để lại là rất lớn và là gánh nặng của từng gia đình nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Trả lời: (Tại Công văn số 15833/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; trong đó, năm 2016 tai nạn giao thông trên toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.792 người bị thương (-8,5%).
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông vẫn còn một số tồn tại hạn chế: số vụ và số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém, nhiều vi phạm vẫn còn diễn ra phổ biến…, đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
Để chấn chỉnh tình trạng này, thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT, trong đó chú trọng thực hiện các nội dung sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; đặc biệt là tập trung sửa đổi các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, hàng không, Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo hướng tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vận tải.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự ATGT; trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền các quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ để người dân, cán bộ, doanh nghiệp, đơn vị thi công…kịp thời nắm bắt các quy định mới và triển khai thực hiện.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thành các dự án đường sắt trên cao, lắp đặt cầu vượt cho xe tải trọng nhẹ; tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện quy định bảo đảm an toàn giao thông tại các khu vực thi công trên đường bộ đang khai thác, gắn trách nhiệm Chủ đầu tư, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình và an toàn giao thông trong quá trình thi công dự án; khắc phục kịp thời các điểm đen, các vị trí mất an toàn giao thông trên đường bộ; rà soát điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm định ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.
- Phối hợp với các thành phố lớn xây dựng và triển khai các giải pháp phát triển hợp lý các phương thức vận tải, nhằm mục tiêu đẩy nhanh phát vận tải hành khách công cộng.
- Tăng cường kiểm tra xe kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; chỉ đạo các Trung tâm đăng kiểm tăng cường phối hợp với lực lượng Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông tại địa phương trong việc kiểm soát xử lý xe hết niên hạn sử dụng, xe quá hạn kiểm định.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ về bảo đảm TTATGT; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.
157. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét lắp đặt hệ thống đèn đường chiếu sáng công cộng dọc tuyến Quốc lộ 50 (đoạn từ Cầu Mỹ Lợi đến thị xã Gò Công) để đảm bảo an toàn giao thông và an ninh trật tự vào ban đêm.
Trả lời: (Tại Công văn số 526/BGTVT-KHĐT ngày 16/1/2017)
1. Về kiến nghị thi công giai đoạn 2 Quốc lộ 50:
Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chuyển khoảng 50 tỷ đồng từ phần vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 còn dư của dự án Quốc lộ 50 đoạn Gò Công – Mỹ Tho sang dự án Quốc lộ 50 đoạn Mỹ Lợi – Gò Công để tiếp tục đầu tư hoàn thiện thảm BTN đoạn từ Km43+000-Km47+334 (Văn bản số 5936/VPCP-KTTH ngày 29/7/2015 của Văn phòng Chính phủ). Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án, phê duyệt thiết kế và lựa chọn nhà thầu, đồng thời đề nghị Bộ KH&ĐT điều hòa, điều chỉnh kế hoạch vốn của dự án nên trên để tổ chức triển khai thi công, tuy nhiên đến nay Bộ KH&ĐT đang rà soát để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ giao vốn, Bộ GTVT sẽ tổ chức triển khai thi công ngay.
2. Về kiến nghị lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng trên tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ cầu Mỹ Lợi đến thị xã Gò Công:
Đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông đường bộ, Bộ GTVT chỉ đầu tư hệ thống điện chiếu sáng tại các nút giao thông lớn, qua cầu lớn, qua hầm. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh Tiền Giang chủ động nghiên cứu, cân đối nguồn vốn, đặc biệt là kinh phí chi trả tiền điện và tổ chức quản lý trong quá trình sử dụng để quyết định việc đầu tư lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng trên tuyến Quốc lộ 50 đoạn từ cầu Mỹ Lợi đến thị xã Gò Công và trả lời cho cử tri được rõ.
158. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri xã Mậu Đông, huyện Văn Yên để nghị Bộ Giao thông vận tải đầu tư mở đường ngang tại các khu vực dân cư có đường sắt đi qua đảm bảo an toàn giao thông đường sắt và giao thương đi lại của nhân dân được thuận lợi
Trả lời: (Tại Công văn số 88/BGTVT- ngày 5/1/2017)
1. Tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai đi qua xã Mậu Đông từ Km187+900 đến Km195+200, tổng số có 17 điểm giao cắt giữa đường sắt với đường bộ, trong đó có 01 đường ngang và 16 lối đi dân sinh cắt qua đường sắt, cụ thể như sau:
- Đường ngang phòng vệ bằng biển báo tại Km189+060 tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai sẽ đưa vào khai thác sử dụng trong tháng 01 năm 2017. Trong thời gian tới, khi lưu lượng người và phương tiện tăng cao, đường ngang này sẽ được nâng cấp từ đường ngang biển báo thành đường ngang cảnh báo tự động, có lắp cần chắn tự động để đảm bảo ATGT;
- Có 11 vị trí là lối đi vào các thôn, bản, trường học: Km187+990, Km188+295, Km189+190, Km189+770, Km190+050, Km191+170, Km192+090, Km192+290, Km192+450, Km192+805, Km193+730 (lý trình đường sắt);
- Có 05 điểm là lối đi vào các hộ gia đình riêng lẻ: Km190+430, Km191+415, Km191+510, Km191+830, Km192+210 (lý trình đường sắt).
2. Thực hiện Quy chế phối hợp số 23/QCPH-BGTVT-UBND ngày 28/5/2013 giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Yên Bái trong việc phối hợp đảm bảo trật tự ATGT tại các điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt, Công ty CP Đường sắt Yên Lào đã tổ chức cắm biển “CHÚ Ý TÀU HỎA” toàn bộ lối đi công cộng vào các thôn, bản, trường học (11 vị trí); rào, thu hẹp để hạn chế phương tiện cơ giới qua lại tại 07 vị trí là lối đi công cộng vào các thôn, bản có bề rộng mặt đường bộ lớn hơn 2m, cụ thể là: Km189+770, Km190+050, Km191+170, Km192+290, Km192+450, Km192+805, Km193+730; cắm biển cấm ô tô tại 01 vị trí tại Km192+050 để đảm bảo ATGT đường sắt trên địa bàn xã Mậu Đông.
3. Để đảm bảo ATGT, lối đi dân sinh tại Km192+450 tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai đã được Công ty CP Đường sắt Yên Lào thực hiện thu hẹp lối đi này nhiều lần (không cho phương tiện cơ giới 04 bánh qua lại) nhưng thường xuyên bị người dân phá rào, dỡ cọc. Ngày 24/11/2016, Công ty CP Đường sắt Yên Lào đã phối hợp với Ban ATGT tỉnh Yên Bái, phòng Kinh tế Hạ tầng huyện Văn Yên tiến hành kiểm tra, rà soát và cùng thống nhất đề nghị chính quyền địa phương cải tạo mặt đường dân sinh và bố trí người cảnh giới theo Quy chế phối hợp giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Yên Bái.
4. Theo ý kiến của cử tri xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Bộ GTVT sẽ bổ sung hạng mục đường gom, hàng rào dọc theo đường sắt trên địa bàn xã Mậu Đông vào kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 994/QĐ-TTg ngày 19/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ, đường sắt giai đoạn 2014 -2020.
5. Để phòng ngừa, hạn chế tai nạn giao thông đường sắt, đường bộ, đề nghị địa phương:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng nghiêm chỉnh chấp hành Luật đường sắt; không mở các đường đi trái phép qua đường sắt, việc mở đường ngang phải thực hiện theo quy định tại Thông tư số 62/2015/TT-BGTVT ngày 04/11/2015 của Bộ GTVT;
- Phối hợp cùng đơn vị đường sắt tổ chức kiểm tra việc chấp hành Luật Đường sắt và Quy chế phối hợp giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Yên Bái;
- Đầu tư kinh phí thực hiện giải phóng mặt bằng để xây dựng đường gom, hàng rào khi Bộ GTVT bố trí được nguồn vốn để thực hiện; phối hợp với ngành đường sắt để xác định 01 vị trí trong phạm vi từ Km192+580 đến 192+625 tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai để mở thêm 01 đường ngang nhằm phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực và phù hợp với quy hoạch giao thông của địa phương.
159. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị kiên quyết xử lý mạnh đối với xe quá tải lưu thông trên các tuyến có biển bảo, để đảm bảo tuyến đường sử dụng lâu dài
Trả lời: (Tại Công văn số 15828/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Thực hiện Công điện số 95/CĐ-TTg ngày 10/01/2013 và Công điện số 1966/CĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và tăng cường kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ; Ngày 21/11/2013, liên Bộ Công an – Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA về phối hợp thực hiện kiểm soát, xử lý vi phạm chở hàng vượt quá tải trọng của xe ô tô, đồng loạt thực hiện từ ngày 01/4/2014 trên phạm vi cả nước. Sau hơn 02 năm thực hiện (tính đến ngày 01/8/2016), trên cả nước tình hình vi phạm về tải trọng phương tiện đã được kiểm soát, giảm trên 92% so với thời điểm trước khi thực hiện Kế hoạch 12593/KHPH-BGTVT-BCA. Tuy nhiên, từ sau ngày 01/8/2016 đến nay, sau khi kết thúc Kế hoạch liên Bộ, tình hình phương tiện vận tải vi phạm về kích thước thùng xe và chở quá tải trọng cho phép tại một số tỉnh, thành phố đang có diễn biến phức tạp và có chiều hướng tái diễn trở lại.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe, kịp thời ngăn chặn tái diễn và tiến tới chấm dứt tình trạng xe ô tô vi phạm tải trọng, cơi nới kích thước thùng xe tại các địa phương. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải vừa triển khai các giải pháp như sau:
1. Bộ GTVT đã ban hành văn bản số 15235/BGTVT-ATGT ngày 20/12/2016 về việc tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện để triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CTTg của Thủ tướng Chính phủ.
2. Phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, tổ chức 02 Đoàn Kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng phương tiện đường bộ tại một số địa phương (đã triển khai tại Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên và Hải Dương trong tháng 11 năm 2016).
3. Đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia để chỉ đạo và đề nghị Ban An toàn giao thông các tỉnh (trong đó có Ban ATGT tỉnh Lạng Sơn) triển khai các nội dung sau đây:
- Báo cáo và đề nghị Tỉnh ủy và Thành ủy các tỉnh, thành phố ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”, trong đó có nhiệm vụ về kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Tham mưu, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ban hành Kế hoạch chi tiết triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông, trong đó phân công và xác định trách nhiệm cụ thể của lực lượng Công an, Giao thông vận tải và Chính quyền địa phương các cấp, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
- Chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải:
+ Quản lý, vận hành các Trạm kiểm tra tải trọng xe do Bộ Giao thông vận tải trang bị; kiện toàn, tổ chức lại hoạt động của Trạm kiểm tra tải trọng xe phù hợp với tình hình của địa phương; củng cố và nâng cao năng lực của lực lượng Thanh tra giao thông;
+ Rà soát việc tổ chức ký cam kết không chở hàng quá trọng tải, không xếp hàng hóa lên xe quá trọng tải cho phép của các doanh nghiệp, doanh nghiệp nào chưa ký thì yêu cầu phải ký cam kết, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cam kết đã ký và xử lý nghiêm các đơn vị vận tải, đầu mối hàng hóa vi phạm cam kết về xếp hàng hóa lên xe ô tô không vượt quá tải trọng cho phép.
- Chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố:
+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của ngành Giao thông vận tải trong việc triển khai thực hiện công tác kiểm soát tải trọng phương tiện trên địa bàn;
+ Chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với hành vi: vi phạm chở hàng quá tải trọng, phóng nhanh, vượt ẩu khi tham gia giao thông, chú trọng trên các tuyến quốc lộ trọng điểm qua địa bàn địa phương;
+ Chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát thực hiện trao đổi kịp thời, đầy đủ thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động vận tải, đặc biệt là hoạt động kiểm soát tải trọng phương tiện cho các cơ quan chức năng của ngành Giao thông vận tải để phục vụ công tác quản lý và xử lý vi phạm.
- Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng của địa phương:
+ Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về công tác kiểm soát tải trọng phương tiện;
+ Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch vận tải và bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong dịp Tết dương lịch và Âm lịch năm 2017.
160. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị các Bộ, ngành chức năng tăng cường thực hiện các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và đường thủy; quản lý chặt chẽ việc kinh doanh vận tải; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông; tăng cường phối hợp giữa các ngành ở Trung ương và địa phương trong ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông; triển khai xử lý dứt điểm các điểm đen thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông trên đường bộ và đường thủy
Trả lời: (Tại Công văn số 15829/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Trước hết, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) xin trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri thành phố Hồ Chí Minh đã góp ý về công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải. Đối với nội dung cử tri kiến nghị, Bộ GTVT trả lời như sau:
1. Tình hình tai nạn giao thông
Sau khi triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2011 về tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGT; với sự vào cuộc của các cấp, các ngành tình hình tai nạn giao thông tiếp tục được kiềm chế và kéo giảm liên tục trong các năm qua. Cụ thể theo số liệu của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia năm 2016 toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.861 người bị thương (-15,81%). Đây là năm thứ 3 liên tiếp số người chết vì tai nạn giao thông giảm xuống dưới 9.000 người.
2. Các giải pháp để tiếp tục kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông trong thời gian tới
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp đã nêu tại Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2011 về tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGT, Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện trong đó tập trung vào các giải pháp sau:
a) Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông
Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong công tác bảo đảm TTATGT trong các lĩnh vực đường bộ, đường thủy, hàng hải, hàng không, đường sắt đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực sau:
- Đưa ra các khung pháp lý và các giải pháp để hạn chế tai nạn giao thông;
- Quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện trong tất cả các lĩnh vực;
- Giám sát chặt chẽ công tác sát hạch cấp giấy phép lái xe, kiểm định xe, nhất là cấp giấy phép lái xe tải các hạng theo đúng quy định, quy trình;
- Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông;
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức của người tham gia giao thông.
b) Tiếp tục quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện
- Bộ GTVT phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo hướng quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa bằng xe ô tô; bổ sung một số điều kiện kinh doanh để quản lý tốt hoạt động kinh doanh vận tải như: Đơn vị kinh doanh vận tải không được sử dụng xe khách có giường nằm hai tầng để hoạt động vận tải trên các tuyến đường cấp 5 và cấp 6 miền núi; đơn vị kinh doanh vận tải phải sử dụng lái xe có ít nhất 02 năm kinh nghiệm điều khiển xe khách có số người được phép chở từ 30 chỗ để điều khiển xe khách có giường nằm hai tầng;
- Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “ Điều chỉnh quy hoạch tổng thể Trạm kiểm tra tải trọng xe trên đường bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1885/QĐ-TTg ngày 30/9/2016 trong đó tập trung huy động các nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư các Trạm kiểm tra tải trọng xe cố định kết hợp với trạm thu phí giai đoạn đến năm 2020;
- Ngoài ra, Bộ GTVT tiếp tục ban hành các bản chỉ đạo để thực hiện Siết chặt hoạt động kinh doanh vận tải; tăng cường phối hợp kiểm tra, xử lý hiện tượng xe dù, xe khách trá hình trên địa bàn các tỉnh; phối hợp với các địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Giao thông đường bộ; đặc biệt là việc chở quá số người quy định, tình trạng “xe dù, bến cóc”.
c) Phối hợp với các địa phương tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác vào quản lý hoạt động vận tải, kiểm soát tải trọng phương tiện, bảo đảm trật tự an toàn giao thông
- Bộ Giao thông vận tải tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý hoạt động vận tải, kiểm soát tải trọng phương tiện và cải cách thủ tục hành chính như triển khai thực hiện hiệu quả hoạt động của sàn giao dịch vận tải hàng hóa đường bộ; tổ chức tập huấn cho các Sở GTVT phần mềm quản lý vận tải đường bộ theo dự án “Hệ thống thông tin giao thông vận tải lĩnh vực đường bộ”; tiếp tục hoàn thiện Trung tâm tích hợp và xử lý dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình để tích hợp dữ liệu của toàn bộ phương tiện kinh doanh vận tải; triển khai kế hoạch thí điểm ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng;
- Tiếp tục ứng dụng khoa học công nghệ trong cải cách hành chính công đối với các lĩnh vực vận tải như triển khai thí điểm dịch vụ công cấp độ 4 đối với các dịch vụ cấp Giấy phép kinh doanh vận tải, cấp phù hiệu, biển; xây dựng và triển khai các dịch vụ công trực tuyến...
d) Tăng cường xử lý các điểm đen thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông trên đường bộ, đường thủy
Tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam rà soát các vị trí có nguy cơ gây tai nạn giao thông cao bổ sung hệ thống an toàn giao thông nhằm đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác.
đ) Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm TTATGT; nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương nhằm hạn chế tai nạn giao thông
- Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tiếp tục tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban ATGT Quốc gia chủ trì các hội nghị trực tuyến sơ kết công tác bảo đảm TTATGT hàng quý, hàng năm; trực tiếp làm việc với các tỉnh, thành phố về công tác đảm bảo TTATGT và ùn tắc giao thông. Tiếp tục chỉ đạo, Ban ATGT các địa phương tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp bảo đảm TTATGT đến từng thành viên Ban ATGT tỉnh, Ban ATGT các huyện, thị xã và xuống từng xã, phường; đồng thời, thường xuyên đôn đốc các cơ quan, đơn vị thực hiện các giải pháp kiềm chế TNGT, đặc biệt trong các dịp cao điểm.
- Bộ GTVT phối hợp với Bộ Công an tiếp tục chỉ đạo lực lượng TTGT, Cảnh sát giao thông và lực lượng cảnh sát có chức năng tăng cường công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về TTATGT đặc biệt là triển khai quyết liệt, triệt để trong công tác quản lý vận tải, kiểm soát tải trọng phương tiện; các hành vi là nguyên nhân gây TNGT như: vi phạm về tốc độ, đi không đúng phần đường, làn đường, vi phạm quy định về nồng độ cồn; vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt;
- Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo thanh tra, kiểm tra trên tất cả các lĩnh vực đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ GTVT, trong đó tập trung nhiều lĩnh vực mang tính thời sự, được dư luận xã hội quan tâm như chất lượng xây dựng công trình; kiểm soát tải trọng phương tiện; điều kiện kinh doanh vận tải; công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; công tác đăng kiểm phương tiện xe cơ giới..
161. Cử tri tp Cần Thơ kiến nghị: Cử tri và nhân dân đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, các ngành hữu quan và chính quyền các địa phương cần tiếp tục thực hiện các giải pháp quyết liệt, cụ thể, thường xuyên nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự, an toàn giao thông; xử lý nghiêm cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhưng có biểu hiện tiêu cực, dung túng, bao che cho các đối tượng vi phạm; siết chặt hơn nữa công tác quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; đồng thời tiếp tục kiên quyết xử lý nghiêm những đơn vị xây dựng, thi công không bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 38/BGTVT- ngày 4/1/2017)
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; trong đó, năm 2016 tai nạn giao thông trên toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.792 người bị thương (-8,5%).
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông vẫn còn một số tồn tại hạn chế: số vụ và số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn kém, nhiều vi phạm vẫn còn diễn ra phổ biến. Đặc biệt là: các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự an toàn giao thông; một bộ phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhưng có biểu hiện tiêu cực, dung túng, bao che các đối tượng vi phạm; công tác quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện cũng còn hạn chế; một số đơn vị xây dựng, thi công không bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình giao thông…cũng ảnh hưởng tới công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội. Để chấn chỉnh tình trạng này, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Bộ GTVT và Bộ Công an tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT, trong đó chú trọng thực hiện các nội dung sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT. Đặc biệt là các văn bản về quản lý hoạt động kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự ATGT; trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền các quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ để người dân, cán bộ, doanh nghiệp, đơn vị thi công…kịp thời nắm bắt các quy định mới và triển khai thực hiện.
- Tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện quy định bảo đảm an toàn giao thông tại các khu vực thi công trên đường bộ đang khai thác, gắn trách nhiệm Chủ đầu tư, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình và an toàn giao thông trong quá trình thi công dự án; khắc phục kịp thời các điểm đen, các vị trí mất an toàn giao thông trên đường bộ; rà soát điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm định ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.
- Tăng cường kiểm tra xe kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; chỉ đạo các Trung tâm đăng kiểm tăng cường phối hợp với lực lượng Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông tại địa phương trong việc kiểm soát xử lý xe hết niên hạn sử dụng, xe quá hạn kiểm định.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ về bảo đảm TTATGT; tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe, đăng kiểm phương tiện, kiểm soát tải trọng phương tiện…; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.
- Quyết liệt triển khai Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chỉnh phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông.
162. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Cử tri đề nghị Ban quản lý đường Hồ Chí Minh xem xét, tạo điều kiện cho mở giải phân cách của Quốc lộ 14, đoạn qua bệnh viện đa khoa huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước để các phương tiện thuận lợi qua lại, nhất là các xe cấp cứu không phải chạy quá xa mới quay trợ lại để vào bệnh viện
Trả lời: (Tại Công văn số 15670/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Đoạn tuyến theo phản ảnh của cử tri thuộc dự án Cây Chanh - Cầu 38, được thi công đúng thiết kế được duyệt, hồ sơ thiết kế thiết kế đã được thỏa thuận và thống nhất với cơ quan chức năng của địa phương:
Dự án nâng cấp mở rộng đường Hồ Chí Minh đoạn cây Chanh - cầu 38(QL14) tỉnh Bình Phước có chiều dài khoảng 34km, trong đó đoạn qua thị trấn Đức Phong (Km908-Km911) chiều dài 3km thiết kế theo tiêu chuẩn đường đô thị, có giải phân cách giữa. Hồ sơ thiết kế căn cứ vào thực tế các đường dân sinh cũng như các công trình nằm dọc theo tuyến đường, đã bố trí 6 điểm quay đầu tại Km908+500; Km909+000; Km909+400; Km909+900; Km910+260; Km910+700 để thuận tiện cho sinh hoạt của nhân dân trong khu vực, bố trí trung bình vào khoảng 500m/điểm quay đầu để đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông.
Bệnh viện đa khoa huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước nằm ở đường rẽ phía bên trái QL14 khoảng Km910+940, cách đường QL14 khoảng 500m. Đối chiếu với các vị trí đã bố trí giải phân cách trong hồ sơ thiết kế, từ vị trí rẽ vào bệnh viện đa khoa Bù Đăng cách điểm quay đầu đi theo hướng Cầu 38 về Cây Chanh là 240m, cách điểm quay đầu đi theo hướng Cây Chanh - Cầu 38 là 40m.
Dự án nâng cấp mở rộng đường Hồ Chí Minh đoạn cây Chanh - cầu 38(QL14) tỉnh Bình Phước đã hoàn thành được Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào khai thác sử dụng tháng 6/2015 và bàn giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam trực tiếp là Cục QLĐB IV quản lý, khai thác từ cuối năm 2015. Vì vậy kiến nghị nêu trên của cử tri Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục nghiên cứu cụ thể xem xét giải quyết đảm bảo tuyệt đối an toàn và thuận lợi trong quá trình khai thác.
163. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Thời gian gần đây tình trạng nhiều lái xe không tuân thủ các quy định về ATGT nên đã xảy ra nhiều tai nạn giao thông, có nhiều vụ thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, gây phẫn nộ và lo lắng cho nhân dân khi tham gia giao thông, tuy nhiên mức xử phạt đối với hành vi này theo quy định của pháp luật còn thấp và không đủ tính răn đe. Đề nghị nghiên cứu quy định tăng mức hình phạt đối với hành vi lái xe gây tai nạn giao thông chết người để răn đe và góp phần bảo vệ tính mạng nhân dân khi tham gia giao thông
Trả lời: (Tại Công văn số 40/BGTVT- ngày 4/1/2016)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016, Nghị định có hiệu lực thi hành vào ngày 01/08/2016); trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất tăng nặng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông như: vi phạm quy định về nồng độ cồn; đi vào đường cao tốc trái quy định, dừng xe, đỗ xe trái quy định trên đường cao tốc; vi phạm quy định về tốc độ, chở hàng quá tải trên 150% và các hành vi thuộc về ý thức chủ quan của người tham gia giao thông như vượt đèn đỏ, không chấp hành hiệu lệnh của người thi hành công vụ....;
Đối với những trường hợp lái xe vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông chết người (như kiến nghị của cử tri) thì sẽ bị chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015. Việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đã được quy định cụ thể tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Các hình phạt đối với hành vi vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông gây tai nạn chết người quy định tại Bộ Luật hình sự cơ bản đã tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và phù hợp với thực tiễn.
164. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri Kiên Giang đề nghị Chính phủ sớm đầu tư nâng cấp, mở rộng: Quốc lộ 63, đoạn từ Thứ 7 đến tiếp giáp tỉnh Cà Mau, tạo thuận lợi cho kết nối giao thông giữa tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau
Trả lời: (Tại Công văn số 530/BGTVT- ngày 16/1/2017)
Theo Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Quốc lộ 63 từ Châu Thành (Kiên Giang) đến thành phố Cà Mau, dài 115 km, hoàn thiện nâng cấp, xây dựng tối thiểu đạt tiêu chuẩn đường cấp III, 2 làn xe.
Để từng bước thực hiện quy hoạch được duyệt, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau nói riêng, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Bộ GTVT đã quyết định đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 63 qua địa phận 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau từ năm 2010 với quy mô đường cấp III, cấp IV đồng bằng. Tuy nhiên, do thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nên không cân đối được nguồn vốn để triển khai toàn bộ dự án, chỉ triển khai trước đoạn qua nội ô thành phố Cà Mau theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để sớm có đường vận chuyển phân đạm phục vụ Nhà máy Đạm Cà Mau, đảm bảo an toàn giao thông và giảm thiểu tai nạn gian thông.
Hiện nay, Dự án đường Hành lang ven biển phía Nam giai đoạn 1 từ thành phố Cà Mau đến thành phố Rạch Giá đã được đầu tư hoàn thành theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng. Theo tuyến này, khoảng cách từ thành phố Cà Mau đến thành phố Rạch Giá rút ngắn được khoảng 24 km so với Quốc lộ 63 hiện hữu và đây sẽ là tuyến vận tải đường bộ chính giữa 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, giảm lưu lượng vận tải trên tuyến Quốc lộ 63.
Đối với Quốc lộ 63, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam hoàn thành việc gia cố lề, mở mỗi bên 1,0m đảm bảo mặt đường rộng 5,5m trên toàn tuyến. Như vậy, với năng lực thông hành của đường Hành lang ven biển phía Nam và Quốc lộ 63 trước mắt đáp ứng được nhu cầu vận tải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của của 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau nói riêng, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, Bộ GTVT chưa thể triển khai đầu tư dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 63 qua địa phận 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau (trừ đoạn qua nội đô thành phố Cà Mau). Khi nhu cầu vận tải tăng cao và điều kiện nguồn lực cho phép sẽ đầu tư mở rộng Quốc lộ 63 theo quy hoạch được duyệt.
165. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ nên tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn những kiến thức cơ bản đối với công dân trên 16 tuổi điều khiển xe máy dưới 50cc. Hiện nay, đa số các em học sinh sử dụng loại phương tiện này rất nhiều nhưng phần lớn không hiểu Luật Giao thông đường bộ.
Trả lời: (Tại Công văn số 15698/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Hàng năm, để triển khai hiệu quả, đồng bộ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực GTVT, Bộ GTVT đều ban hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Năm 2016, Bộ GTVT đã ban hành Kế hoạch số 4600/QĐ-BGTVT ngày 18/12/2015 ban hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ với mục tiêu nâng cao ý thức “thượng tôn pháp luật” của các đối tượng tham gia giao thông. Theo đó, Bộ GTVT cũng giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ tuyên truyền, phổ biến các Luật, Bộ Luật chuyên ngành GTVT cho đối tượng học sinh, sinh viên. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về GTVT được lồng ghép vào giáo dục chính khóa, đó là việc trang bị kiến thức ban đầu về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luạt, đồng thời với việc truyền tải các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành tại Trường Đại học, Học viện, Cao đẳng, Trung cấp. Ngoài giờ lên lớp, đội ngũ học viên tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông do các đơn vị trong ngành GTVT và các địa phương triển khai thông qua các tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội sinh viên, hoạt động tuyên truyền được thực hiện thông qua các buổi sinh hoạt lớp, chi đoàn sinh viên, Hội thi “Thanh niên với an toàn giao thông”, cuộc thi tìm hiểu pháp luật chuyên ngành về GTVT...
Bên cạnh đó, nhằm tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật giao thông đường bộ đến với học sinh trên cả nước, trong năm 2016, Bộ GTVT đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia và Bộ Giáo dục đào tạo tổ chức cuộc thi “Giao thông học đường lần thứ 1” năm học 2015-2016 được triển khai rộng rxi trên 63 tỉnh, thành phố, thu hút gần 200.000 thí sinh tham dự từ hơn 3.000 trường Trung học phổ thông trên toàn quốc.
Ngày 19/12/2016, Bộ GTVT đã ban hành Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2017, trong đó tiếp tục giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ đẩy mạnh thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giao thông đến học sinh, sinh viên nhằm mục tiêu nâng cao được chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường, từng bước tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức thượng tôn pháp luật cho học sinh, sinh viên trên cả nước.Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, Bộ GTVT chưa thể triển khai đầu tư dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 63 qua địa phận 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau (trừ đoạn qua nội đô thành phố Cà Mau). Khi nhu cầu vận tải tăng cao và điều kiện nguồn lực cho phép sẽ đầu tư mở rộng Quốc lộ 63 theo quy hoạch được duyệt.
166. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Đề nghị Cục quản lý đường bộ QL14 tăng cường kiểm tra gắn biển báo đoạn QL14 qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk để xử lý các "điểm đen", đọa đường nguy hiểm dễ gây tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 847/BGTVT- ngày 23/1/2017)
- Thời gian vừa qua, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ III (đơn vị quản lý bảo trì Quốc lộ 14) khắc phục sửa chữa 02 vị trí điểm đen trên tuyến Quốc lộ 14 qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể, Cục QLĐB III đã khắc phục sửa chữa điểm đen đoạn Km707-Km712, QL.14 và đang triển khai xử lý điểm đen Km725+464-Km733+800, QL.14. Đồng thời, Cục QLĐB III đã rà soát các vị trí bất cập và đã cho bổ sung 06 biển báo đường cong; 02 biển đoạn đường thường xảy ra tai nạn giao thông; 02 biển đá lở; rào khe hở giữa cầu mới và cầu cũ Sêrêpok bằng tấm bê tông có sơn phản quang.
- Trong quá trình quản lý khai thác, Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Cục QLĐB III tiếp tục rà soát các điểm đen và điểm tiểm ẩn tai nạn giao thông để có kế hoạch xử lý để đảm bảo an toàn giao thông, trong đó có nội dung tăng cường kiểm tra gắn biển báo trên Quốc lộ 14 đoạn qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk để xử lý các "điểm đen", đoạn đường nguy hiểm dễ gây tai nạn giao thông như kiến nghị của cử tri.
167. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT rà soát lại việc mở các nút giao ở dải phân cách trên Quốc lộ IA qua địa bàn tỉnh cho hợp lý hơn, tránh phát sinh điểm đen về tai nạn giao thông. Hiện tại, có nhiều đoạn giải phân cách quá xa, không hợp lý với tình hình thực tế của từng cụm dân cư, trường học… nên người dân đi ngược chiều hoặc băng qua dải phân cách trái qui định, gây mất an toàn giao thông. Đề nghị Bộ nghiên cứu, xem xét lại.
Trả lời: (Tại Công văn số 539/BGTVT- ngày 16/1/2017)
Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Phú Yên thuộc các dự án đầu tư xây dựng mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa đi Cần Thơ, việc thiết kế các vị trí mở dải phân cách giữa được thực hiện trên nguyên tắc phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của dự án, đảm bảo an toàn cho người và các phương tiện lưu thông qua các vị trí mở này. Trong quá trình thiết kế dự án, đơn vị Tư vấn thiết kế đã nghiên cứu thực tế các khu vực dân cư, các vị trí có trường học, bệnh viện, cơ quan… ở hai bên tuyến, đánh giá nhu cầu lưu thông trên từng đoạn để làm cơ sở thiết kế vị trí điểm mở, khoảng cách tối thiểu cho phép giữa 2 điểm mở, đã thống nhất với các cơ quan chức năng của địa phương. Tiếp theo, trong giai đoạn thực hiện nghiệm thu dự án đưa vào khai thác, theo yêu cầu của địa phương, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an), Sở GTVT Phú Yên, UBND thành phố Tuy Hòa, UBND các huyện, thị xã có tuyến đường đi qua, tiến hành kiểm tra hiện trường, thỏa thuận thống nhất báo cáo Bộ GTVT cho phép điều chỉnh, bổ sung các điểm mở dải phân cách giữa. Do qui mô xây dựng và các yêu cầu kỹ thuật của tuyến đường để đáp ứng lưu lượng các phương tiện lưu thông rất lớn và phải đảm bảo an toàn giao thông nên khó tránh khỏi ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của một số cụm dân cư hai bên tuyến. Về việc thời gian vừa qua có tình trạng người dân đi ngược chiều, băng qua dải phân cách trái qui định, gây mất an toàn giao thông, Bộ GTVT đề nghị các cơ quan chức năng địa phương tăng cường kiểm tra, tuyên truyền giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành qui định của pháp luật về giao thông đường bộ, đồng thời có biện pháp ngăn chặn, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Về phía Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban QLDA Thăng Long phối hợp kiểm tra, xem xét xử lý các bất cập, phát sinh, để giảm thiểu ảnh hưởng đời sống sinh hoạt của nhân dân trong khu vực dự án đi qua.
168. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri phản ảnh đoạn giao nhau giữa 5 tuyến đường phía Bắc cầu vượt đường sắt ở Khu phố Trường Xuân, Thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An tuy đã có hệ thống sơn hướng dẫn, gờ giảm tốc nhưng hiện nay tại nút giao thông này thường xuyên xảy ra va chạm giao thông, tai nạn giao thông. Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm làm vòng xuyến giao thông hoặc có giải pháp tối ưu nhằm làm hạn chế tai nạn giao thông tại nơi này.
Trả lời: (Tại Công văn số 924/BGTVT- ngày 24/1/2017)
- Ngày 04/8/2016, Cục Quản lý đường bộ III - Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã phối hợp cùng với Ban An toàn giao thông tỉnh Phú Yên, Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Yên kiểm tra hiện trường và đề xuất phương án khắc phục các bất hợp lý về tổ chức giao thông trên các tuyến Quốc lộ thuộc khu vực Miền Trung và
Tây Nguyên theo đề nghị của Cục Cảnh sát giao thông (C67) Bộ Công an tại công văn số 2743/C67-P8 ngày 15/7/2016. Sau đó, tại vị trí nút giao đã hoàn thành hệ thống vạch sơn dẫn hướng bổ sung cho các phương tiện tham gia giao thông và điều chỉnh tổ chức giao thông nút giao. Theo báo cáo của Tổng cục ĐBVN, qua theo dõi về tình hình tai nạn giao thông khu vực đoạn tuyến từ thời điểm hoàn thành hệ thống vạch sơn dẫn hướng bổ sung cho các phương tiện tham gia giao thông và điều chỉnh tổ chức giao thông nút giao đến nay chưa ghi nhận xảy ra vụ tai nạn nghiêm trọng nào.
- Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương tiếp tục theo dõi, xử lý kịp thời về tổ chức giao thông tại nút giao nêu trên và trên tuyến Quốc lộ 1 để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông, trong đó có nội dung xem xét tổ chức nút giao thông vòng xuyến nếu cần thiết hoặc có giải pháp tối ưu nhằm hạn chế tai nạn giao thông tại nút giao như kiến nghị của cử tri.
169. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri kiến nghị tại điểm a, Khoản 5, Điều 5; điểm c, Khoản 4, Điều 6; điểm g, Khoản 4, Điều 7; điểm h, Khoản 2, Điều 8 của Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2016. Cử tri chưa đồng tình với mức xử phạt vượt đèn vàng như vượt đèn đỏ, vì tính chất của đèn vàng và đèn đỏ khác nhau.
Trả lời: (Tại Công văn số 15831/BGTVT- ngày 30/12/2016)
1. Về căn cứ để quy định xử phạt đối với hành vi “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”:
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật GTĐB quy định: “Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ” (bao gồm cả tín hiệu đèn giao thông); đồng thời, tại Khoản 3 Điều 10 Luật GTĐB quy định: “Tín hiệu xanh là được đi; tín hiệu đỏ là cấm đi; tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ qua đường”;
Ngoài ra, tại Điều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT của Bộ GTVT quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ đã quy định cụ thể về các trường hợp phải giảm tốc độ: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp: qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt...”.
Triển khai Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trước đây (như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP), đối với nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì đều quy định xử phạt chung một hành vi vi phạm là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”;
Đến Nghị định số 171/2013/NĐ-CP đã tách thành hai hành vi với mức phạt khác nhau là: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” với mức phạt thấp và hành vi “Khi tín hiệu đèn giao thông đã chuyển sang màu đỏ nhưng không dừng lại trước vạch dừng mà vẫn tiếp tục đi, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng trước khi tín hiệu đèn giao thông chuyển sang màu vàng” với mức phạt cao hơn.
Trong quá trình tổng kết thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP để xây dựng Nghị định mới đã có nhiều ý kiến cho rằng việc tách nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thành hai hành vi vi phạm với hai mức phạt khác nhau như tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP dẫn đến tình trạng:
- Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông ở chiều đường có đèn xanh đang sáng thường có xu hướng tăng tốc độ khi đi đến gần nút giao có lắp đèn tín hiệu giao thông (thay cho việc phải giảm tốc độ), vì cho rằng nếu có đèn đỏ thì sẽ phanh xe lại để chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (là vi phạm tín hiệu đèn vàng). Tuy nhiên, khi người đi phía trước tăng tốc độ thì kéo theo những người đi phía sau cũng tăng tốc độ (theo cảm tính về khoảng cách với xe chạy phía trước) và khi người đi phía trước chủ động phanh xe lại thì những người đi phía sau sẽ không phanh xe kịp, dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm cục bộ giữa các xe tại nút giao;
- Một số người tham gia giao thông đang dừng xe ở trước vạch dừng tại nút giao của chiều đường có đèn đỏ đang sáng cũng thường có xu hướng vội vàng điều khiển xe nhập vào trong nút giao ngay khi đèn đỏ vừa tắt và đèn vàng vẫn còn bật sáng, vì cũng cho rằng chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (mức vi phạm tín hiệu đèn vàng). Dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm, tai nạn giao thông và cản trở đối với các xe (của chiều đường có đèn xanh vừa mới tắt) đã nhập vào nút giao đang khẩn trương thoát ra khỏi nút giao, làm ách tắc giao thông tại nút giao;
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT, tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP đã gộp hai hành vi này lại thành một hành vi là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” như quy định tại các Nghị định trước đây (trước Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).
2. Ngoài ra, để tránh trường hợp người điều khiển phương tiện phải dừng đột ngột tại vạch dừng xe ở nút giao khi đèn tín hiệu vàng bật sáng, hiện nay, tại điểm 10.3.2 Điều 10 Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ năm 2016 (QCVN41:2016/BGTVT) có quy định “khi tín hiệu vàng bật sáng, trường hợp phương tiện đã tiến sát đến hoặc đã vượt quá vạch sơn (vạch dừng xe), nếu dừng lại sẽ nguy hiểm thì phải nhanh chóng đi tiếp ra khỏi nơi giao nhau”. Việc bổ sung quy định này vừa bảo đảm tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, vừa đáp ứng yêu cầu theo thông lệ quốc tế và khả thi trong thực tiễn.
170. 171. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị :
1) Quốc lộ 22B đoạn đường đối diện đường vào Công ty Cao su Tây Ninh, ấp Đá Hàng, xã Phước Trạch, huyện Gò Dầu ở đây thường bị ngập, do cống không thoát được gây ô nhiễm môi trường. Kiến nghị quan tâm sửa chữa, khắc phục đoạn đường này;
2) Ngã tư QL.22B, đoạn cuối ngã tư xã Thanh Điền đến xóm Rẫy thuộc ấp An Điền, xã An Bình (hướng đi Sư đoàn BB5), có khúc cua bị khuất tầm nhìn, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Đề nghị ngành chức năng xem xét, làm gờ giảm tốc và gắn thiết bị quan sát, để hạn chế tai nạn giao thông; mặt khác, kiến nghị nạo vét mương thoát nước đoạn ngã tư Trảng Lớn đến ngã ba Á Đông;
3) Đề nghị sửa chữa, khắc phục một số nắp cống bị hư hỏng, nạo vét mương thoát nước, lắp đặt đèn tín hiệu giao thông, đèn đường, gờ giảm tốc tại chợ, khu dân cư, trường học và xử lý nghiêm việc lấn chiếm hành lang đường bộ.
Trả lời: (Tại Công văn số 952/BGTVT-KCHT - ngày 24/1/2017)
1. Để đảm bảo an toàn giao thông, xử lý các vị trí ngập nước mặt đường và hạn chế hư hỏng phát sinh đối với kết cấu mặt đường, Bộ GTVT đã cho phép cho phép triển khai Dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B từ Km0+000 đến Km84+162, với kinh phí khoảng 74 tỷ đồng, thực hiện trong năm 2017. Trong đó, sửa chữa hệ thống thoát nước dọc, bổ sung một số vị trí chưa có rãnh thoát nước, sửa chữa hư hỏng mặt đường, cầu trên tuyến và chỉnh trang, hoàn thiện hệ thống an toàn giao thông, bao gồm cọc tiêu, vạch sơn, biển báo hiệu đường bộ.
2. Đối với nội dung sửa chữa, khắc phục một số nắp cống bị hư hỏng, nạo vét mương thoát nước. Năm 2016, Bộ GTVT đã thực hiện công tác bảo trì QL.22B, sửa chữa thay thế một số tấm đan rãnh hư hỏng phát sinh mới, nạo vét định kỳ mương thoát nước một số vị trí gây ngập úng. Năm 2017, Bộ GTVT tiếp tục cho phép thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp QL.22B, trong đó tiến hành sửa chữa, cải tạo các điểm đen, nâng cao khả năng tầm nhìn cho người điều khiển phương tiện giao thông; rà soát bổ sung biển báo hiệu đường bộ theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 41:2016/BGTVT về báo hiệu đường bộ nhằm đảm bảo ATGT trên QL.22B.
3. Đối với các nội dung liên quan đến công tác bảo trì đường bộ, đảm bảo ATGT, bảo vệ hành lang ATGT đường bộ trên địa phận tỉnh Tây Ninh, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN thực hiện bảo trì đường bộ trong năm 2016, kết quả cụ thể như sau:
- Đối với việc lắp đặt đèn tín hiệu giao thông, đèn đường, gờ giảm tốc tại các chợ, khu dân cư, trường học, theo đề nghị của địa phương, đã lắp đặt mới 04 vị trí đèn tín hiệu giao thông chớp vàng; khắc phục 03 vị trí đèn tín hiệu giao thông chớp vàng bị hư hỏng; bổ sung thay thế 38 bộ biển báo trên tuyến; xử lý điểm đen tại Km37+500, QL.22;
- Công tác sơn gờ giảm tốc tại các vị trí chợ, trường học đã được xử lý tương đối đầy đủ theo các kiến nghị của địa phương;
- Đối với công tác bảo vệ hành lang ATGT đường bộ, đơn vị quản lý đường bộ thường xuyên kiểm tra nhắc nhở khi phát hiện lấn chiếm hành lang; lập biên bản vi phạm một số đối tượng không tuân thủ quy định của pháp luật;
- Về kiến nghị lắp đặt hệ thống đèn đường chiếu sáng ban đêm nhằm mục đích bảo đảm ATGT và an ninh trật tự xã hội, Bộ GTVT cho rằng là cần thiết, đặc biệt tại các đoạn tuyến có lưu lượng giao thông lớn, khu vực đô thị. Tuy nhiên, hiện nay nguồn kinh phí từ nguồn Quỹ Bảo trì đường bộ còn rất hạn chế, Bộ GTVT ưu tiên bố trí kinh phí cho sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước,... nhằm đảm bảo ATGT. Chia sẻ khó khăn với Bộ GTVT, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chỉ đạo các cơ quan chức năng trong tỉnh và chính quyền địa phương các cấp phối hợp chặt chẽ với ngành GTVT trong việc bảo vệ, giải tỏa hành lang an toàn đường bộ nhằm bảo vệ KCHT giao thông và đảm bảo ATGT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
172. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Tổng cục đường bộ Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Sở Giao thông vận tải Bình Định, Ban An toàn giao thông tỉnh, chính quyền địa phương rà soát, xác định điều chỉnh lại một số vị trí mở dải phân cách đoạn đi qua hai huyện Phù Mỹ và Hoài Nhơn cho phù hợp, nhằm đảm bảo an toàn giao thông và thuận tiện đi lại của nhân dân hai bên đường (một số dải phân cách ở 02 huyện trên dài gần 01km khi đi qua khu dân cư hai bên Quốc lộ, gây khó khăn cho nhân dân lưu thông qua lại hai bên đường).
Trả lời: (Tại Công văn số 224/BGTVT- ngày 9/1/2017)
- Nội dung 1:
Đoạn tuyến QL1A từ Km1125 - Km1265 qua tỉnh Bình Định và một phần tỉnh Phú Yên có tổng chiều dài là 140 km, trong đó có khoảng 121 km được đầu tư nâng cấp, mở rộng trong thời gian vừa qua và chia thành 03 dự án (các đoạn còn lại đã đủ quy mô bề rộng mặt đường không đầu tư mở rộng). Cả 03 dự án đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015.
Từ khi thông xe đến nay, tuyến đường đã trải qua 02 mùa mưa lũ. Do ảnh hưởng của các đợt mưa lũ, một số đoạn trên tuyến QL1, bao gồm cả những đoạn không thuộc các dự án nâng cấp mở rộng đã bị hư hỏng mặt đường. Ngay khi phát hiện hư hỏng, Bộ GTVT đã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo các nhà đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phụchư hỏng theo trách nhiệm bảo hành (đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp) và bảo trì công trình (đối với các đoạn không thuộc các dự án mở rộng, nâng cấp do Tổng cục ĐBVN quản lý). Đặc biệt, đợt mưa lũ năm 2016 vừa qua, với diễn biến phức tạp của thời tiết, mưa, lũ lớn kéo dài gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng nặng nề hơn cho mặt đường. Để đảm bảo yêu cầu khai thác an toàn trên tuyến, Lãnh đạo Bộ GTVT và các cơ quan chức năng của Bộ đã thường xuyên tổ chức kiểm tra, chỉ đạo và đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương kịp thời khắc phụcnhững hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông trong giai đoạn mưa lũ và tiến hành sửa chữa hoàn trả mặt đường theo tiêu chuẩn của dự án ngay sau khi điều kiện thời tiết cho phép. Để đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ khẩn trương tìm biện pháp sửa chữa phù hợp đảm bảo chất lượng.
- Nội dung 2:
Hệ thống an toàn giao thông trên tuyến QL1A là một hạng mục quan trọng được thiết kế theo Quy chuẩn 41:2012/BGTVT. Vị trí và khoảng cách các điểm mở dải phân cách giữa đã được nghiên cứu, xem xét và thống nhất về nguyên tắc thiết kế trên toàn tuyến QL1 cho phù hợp với Tiêu chuẩn thiết kế và đảm bảo an toàn giao thông, trong đó đã đề cập đến khu vực đô thị, đông dân cư và khu vực ngoài đô thị. Hệ thống ATGT của các dự án QL1 đã thi công theo đúng hồ sơ thiết kế được phê duyệt. Tuy nhiên, sau khi thông xeđã phát sinh một số vấn đề về liên quan đến hệ thốngan toàn giao thông, trong đó có việc điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa cho phù hợp với thực tế dân sinh. Trên cơ sở phối hợp và đề nghị của địa phương, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ (tại Văn bản số 11373/BGTVT-KCHT ngày 27/8/2015 về việc “Rà soát, điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa trên QL.1 đoạn từ Hà Nội đến Cần Thơ”) phối hợp với địa phương rà soát và đề xuất điều chỉnh cho phù hợp. Theo đó, Đoàn công tác của Bộ GTVT do Tổng cục ĐBVN chủ trì đã tiến hành rà soát và lập Biên bản thống nhất báo cáo và đề xuất điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa (tại Văn bản số 5363/TCĐBVN-ATGT ngày 02/10/2015). Trong quá trình xử lý điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa, Bộ GTVT tiếp tục nhận được các văn bản kiến nghị của tỉnh Bình Định về vấn đề nêu trên. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, đề xuất của Tổng cục ĐBVN và các ý kiến đề nghị của địa phương, trong tháng 10/2015,Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Đoàn công tác của Bộ phối hợp các cơ quan liên quan gồm: Tổng cục ĐBVN, Cục QLĐB III, Ban ATGT tỉnh Bình Định, Sở GTVT tỉnh Bình Định và lãnh đạo các địa phương tỉnh Bình Định tổ chức tiến hành rà soát lại lần cuối để báo cáo Bộ xử lý. Căn cứ kết quả kiểm tra, rà soát thực tế hiện trường, nội dung đề xuất tại Biên bản kiểm trahiện trường và báo cáo của Đoàn công tác, Bộ GTVT đã thống nhất cho phép điều chỉnh các điểm mở dải phân cách giữa và một số nội dung liên quan đến vấn đề an toàn giao thông đối với tuyến QL1 qua tỉnh Bình Định tại Văn bản số 15759/BGTVT-CQLXD ngày 25/11/2015 Hệ thống ATGT trên tuyến QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định, trong đó có điều chỉnh điểm mở dải phân cách giữa đã được điều chỉnh thi công lắp đặt và nghiệm thu đưa vào sử dụng.
Nhằm phát huy khả năng khai thác của công trình và đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ kiểm tra rà soát và điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế, vừa đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình, an toàn giao thông theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Bộ GTVT đề nghị tỉnh Bình Định chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền, vận động và kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan đối với người tham gia giao thông cũng như cư dân sinh sống hai bên đường.
173. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Hiện việc lắp đặt dải phân cách trên Quốc lộ 1A, đoạn đi qua xã Công Hải, Lợi Hải, Bắc Phong, Phước Nam, Phước Minh chưa hợp lý nên gây khó khăn cho người dân địa phương và nguy hiểm cho phương tiện và người tham gia giao thông (vì lắp đặt giải phân cách chưa hợp lý nên người dân đi ngược chiều...). Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao Thông vận tải nghiên cứu, giải quyết.
Trả lời: (Tại Công văn số 15696/BGTVT- ngày 29/12/2017)
Dự án xây dựng mở rộng Quốc lộ 1 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, góp phần giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Trong quá trình lập hồ sơ thiết kế và triển khai thi công Quốc lộ 1, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng địa phương, rà soát kỹ lưỡng phương án thiết kế đóng, mở dải phân cách đảm bảo tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn thiết kế và thuận lợi cho việc đi lại của dân cư hai bên tuyến. Sau khi công trình hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục theo dõi tình trạng tổ chức giao thông trong quá trình khai thác để kịp thời điều chỉnh đóng, mở dải phân cách cho phù hợp.
Về việc vẫn còn vị trí lắp đặt dải phân cách chưa hợp lý theo phản ánh của cử tri, Bộ GTVT yêu cầu Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục phối hợp với cơ quan chức năng địa phương rà soát, điều chỉnh. Tuy nhiên để đảm bảo ATGT, các vị trí mở dải phân cách phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu yêu cầu và phải được bố trí tại các vị trí thuận lợi (tránh các vị trí trong đường cong hoặc trước cửa các trạm xăng dầu…). Do vậy, đề nghị cử tri và các cơ quan chức năng địa phương tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân để các phương tiện tham gia giao thông của địa phương tuân thủ đúng các quy định về an toàn giao thông đường bộ.
174. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem lại cho phù hợp việc đặt dải phân cách trên Quốc lộ 1A hiện nay. Một số nơi trên địa bàn tỉnh, dải phân cách rất dài khi đi qua các khu dân cư, khu đất sản xuất 2 bên Quốc lộ gây khó khăn cho nhân dân lưu thông qua lại hai bên đường.
Trả lời: (Tại Công văn số 15697/BGTVT- ngày 24/1/2017)
Dự án xây dựng mở rộng Quốc lộ 1 đoạn qua tỉnh Bình Thuận đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, góp phần giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
Trong quá trình lập hồ sơ thiết kế và triển khai thi công Quốc lộ 1, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng địa phương, rà soát kỹ lưỡng phương án thiết kế đóng, mở dải phân cách đảm bảo tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn thiết kế và thuận lợi cho việc đi lại của dân cư hai bên tuyến. Sau khi công trình hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục theo dõi tình trạng tổ chức giao thông trong quá trình khai thác để kịp thời điều chỉnh đóng, mở dải phân cách cho phù hợp.
Về việc vẫn còn vị trí lắp đặt dải phân cách chưa hợp lý theo phản ánh của cử tri, Bộ GTVT yêu cầu Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục phối hợp với cơ quan chức năng địa phương rà soát, điều chỉnh. Tuy nhiên để đảm bảo ATGT, các vị trí mở dải phân cách phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu yêu cầu và phải được bố trí tại các vị trí thuận lợi (tránh các vị trí trong đường cong hoặc trước cửa các trạm xăng dầu…). Do vậy, đề nghị cử tri và các cơ quan chức năng địa phương tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân để các phương tiện tham gia giao thông của địa phương tuân thủ đúng các quy định về an toàn giao thông đường bộ.
175. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri phản ánh tuyến đường xã Phước Bình (huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) điểm đầu từ Quốc lộ 51 đến điểm cuối là ranh giới giữa 2 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu thuộc đường nhóm 1 (theo phân nhóm đường giao thông chính trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ban hành kèm theo Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai), có lưu lượng xe tham gia giao thông rất lớn nhưng hiện nay tại điểm đầu giao thông không thuận lợi do bố trí dải phân cách Quốc lộ 51 chưa hợp lý, thường diễn ra tình trạng xe chạy ngược chiều vi phạm luật giao thông đường bộ, không đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sớm tiến hành khảo sát, mở dãy phân cách tại khu vực nêu trên để điều hòa giao thông cho hợp lý.
Trả lời: (Tại Công văn số 961/BGTVT- ngày 24/1/2017)
Ngày 15/8/2016, Tổng cục ĐBVN đã có Công văn số 4335/TCĐBVN-ATGT chấp thuận bổ sung điểm mở DPC và chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện việc mở DPC tại vị trí nêu trên; đã hoàn thành mở DPC tháng 8/2016.
176. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Ban Quản lý đường bộ 4 xem xét lại tính hợp lý đối với các rào chắn ở tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn qua xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay tình trạng các em học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở phải đi ngược chiều để vào trường học, rất dễ xảy ra tai nạn giao thông, nguy hiểm đến tính mạng của các cháu.
Trả lời: (Tại Công văn số 1012/BGTVT- ngày 25/01/2017)
- Dự án mở rộng QL1 đoạn Km848+875 - Km890+200, tỉnh Thừa Thiên Huế do ban QLDA 4 làm đại diện Chủ đầu tư được triển khai thực hiện từ tháng 7/2014, hoàn thành tháng 10/2015 (vượt tiến độ 6 tháng). Dự án đi qua 8 xã và thị trấn của huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Do đặc thù xây dựng công trình giao thông, thường phải sử dụng các thiết bị thi công tải trọng lớn, tạo rung chấn, sức ép… nên trong quá trình thi công không thể tránh khỏi việc ảnh hưởng tới các công trình xây dựng hiện có, điều đó dẫn tới có nhiều đơn thư khiếu nại của người dân phản ánh về tình trạng làm nứt nhà dân. Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị Bảo hiểm, đơn vị Giám định tiến hành kiểm tra và giám định đối với toàn bộ các hộ dân bị ảnh hưởng;
- Kết quả giám định đánh giá 821 hộ dân có bị ảnh hưởng liên quan đến Dự án. Sau khi tính toán, đơn vị Giám định đưa ra mức hỗ trợ, bồi thường nằm trong phạm vi trách nhiệm đền bù của đơn vị Bảo hiểm đã công bố cho các hộ dân bị ảnh hưởng là: 4.843.740.000 đồng (trong đó có 84 căn nhà có giá trị đền bù là 0 đồng) và đã chi trả cho 684 hộ/4.534.066.000 đồng, còn lại 137 hộ với giá trị hỗ trợ là: 309.674.000 đồng chưa đồng ý nhận tiền vì không đồng tình với giá hỗ trợ của Bảo hiểm. Theo đánh giá của đơn vị giám định, ngoài giá trị đơn vị Bảo hiểm hỗ trợ, bồi thường nêu trên cần được xem xét, bồi thường cho các hộ dân bị ảnh hưởng là 6.757.497.000 đồng (giá trị đền bù thiệt hại đã công bố cho các hộ dân bị ảnh hưởng mới chỉ là giá trị đền bù trong phạm vi trách nhiệm của Bảo hiểm);
- Đối với kinh phí hỗ trợ, bồi thường ngoài phạm vi trách nhiệm Bảo hiểm, Bộ GTVT đã có Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016 tiếp tục báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng của dự án (được trích từ tổng mức đầu tư) để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công. Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7866/VPCP-KTTH ngày 20/9/2016 lấy ý kiến các Bộ Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch đầu tư về kiến nghị của Bộ GTVT tại Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016. Đến nay, đã được các Bộ có ý kiến đồng thuận, cụ thể tại Văn bản số 2279/BXD-HĐXD ngày 17/10/2016 của Bộ Xây dựng; số 14126/BTC-ĐT ngày 07/10/2016 của Bộ Tài chính; số 8128/BKHĐT-KCHTĐT ngày 03/10/2016 của Bộ Kế hoạch đầu tư, hiện tại Bộ GTVT đang chờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, trong thời gian chờ ý kiến cho phép của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Ban QLDA 4 làm việc với các Nhà thầu thi công tạm thời sử dụng kinh phí lấy từ nguồn giá trị thanh toán khối lượng còn lại của các gói thầu xây lắp để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (ngoài phần thuộc trách nhiệm của bảo hiểm).
2. Về nội dung phản ánh: “Kiến nghị xem xét lại tính hợp lý đối với các rào chắn ở tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn qua xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay tình trạng các em học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở phải đi ngược chiều để vào trường học, rất dễ xảy ra tai nạn giao thông, nguy hiểm đến tính mạng của các cháu”.
Về vấn đề này, Bộ GTVT có ý kiến như sau:
- Các rào chắn ở tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn qua xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế như ý kiến của cử tri nêu trên chính là hệ thống dải phân cách giữa trên tuyến QL1 được thiết kế, thi công tuân thủ theo đúng quy định về Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ. Đồng thời, trước khi tiến hành thi công hệ thống dải phân cách giữa trên tuyến, đại diện Chủ đầu tư đã phối hợp cùng với Ban ATGT tỉnh Thừa Thiên Huế, Sở Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế, UBND huyện Phú Lộc rà soát thực tế hiện trường, thống nhất các điểm mở dải phân cách giữa phù hợp với quy trình, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, kết hợp hài hòa với lợi ích kinh tế, chính trị, sinh hoạt của nhân dân của địa phương.
- Đối với đường ngang vào trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Lộc Trì tại Km867+030 (trái tuyến) và Km867+240 (trái tuyến), trong quá trình rà soát hiện trường, để tránh tình trạng xung đột giao thông khi tan trường, Ban ATGT tỉnh Thừa Thiên Huế, Sở Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế, UBND huyện Phú Lộc cùng đại diện Chủ đầu tư đã thống nhất không mở dải phân cách giữa tại vị trí trực diện đối với các vị trí đường ngang vào các trường học mà mở về 2 bên tại các vị trí Km866+683 và Km867+272 để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác.
Vì vậy, để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác, Bộ GTVT đề nghị các cấp chính quyền của địa phương tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân tuân thủ Luật Giao thông đường bộ để tránh các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Ban QLDA 4, Tổng cục Đường bộ Việt Nam (đơn vị quản lý trong quá trình khai thác) rà soát thực tế hiện trường để xem xét, điều chỉnh cho phù hợp (nếu có).
177. Cử tri tp Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu phương án giảm mức thu phí trên tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, để hút phương tiện từ Quốc lộ 5qua đường cao tốc nhằm giảm bớt lượng phương tiện, giảm ùn tắc, hạn chế tai nạn giao thông trên tuyến Quốc lộ 5.
Trả lời: (Tại Công văn số 22/BGTVT- ngày 3/1/2017)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã tập trung, nỗ lực thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã và đang triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Hình thức đầu tư BOT hiện là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vì ngoài việc khắc phục sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư công thì đây là hình thức đầu tư có sự giám sát chặt chẽ của nhiều bên (nhà đầu tư, cơ quan nhà nước, ngân hàng và người sử dụng), không làm tăng nợ công trong điều kiện nợ công đang ở mức cao như hiện nay, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của người dân thông qua các tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng. Đây cũng là giải pháp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu các lĩnh vực vận tải, nhằm năng cao năng suất, hạ giá thành vận tải, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Việc huy động thêm được các nguồn lực ngoài ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông dẫn đến năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông đã được cải thiện đáng kể. Sau khi các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định. Việc huy động các nguồn lực trong nước để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là một hướng đi đúng trong việc hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần phát huy nội lực, tăng cường sử dụng sản phẩm, hàng hóa, công nghệ và dịch vụ trong nước để giảm chi phí sản xuất, giảm nhập siêu... có thể nói rằng, việc huy động nguồn lực đầu tư tư nhân là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã mang lại hiệu quả trên mọi phương diện.
Về kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT có ý kiến như sau:
- Trạm thu phí Quốc lộ 5 trước đây là trạm thu phí thu cho Ngân sách Nhà nước; Trong định hướng phát triển quy hoạch giao thông vận tải, tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng và là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy quá trình xây dựng, khai thác cụm cảng Hải Phòng, trong đó có cảng cửa ngõ Lạch Huyện. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp, còn nhiều khó khăn, nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa các nguồn vốn đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo giao cho Tổng công ty phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính (VIDIFI) là Chủ đầu tư thực hiện dự án đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng theo hình thức BOT. Để triển khai dự án, ngày 29/11/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1621/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách thí điểm đầu tư dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, để có cơ chế đảm bảo thu hồi vốn đầu tư dự án BOT, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép: “Chủ đầu tư quyết định mức thu phí đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng theo từng thời kỳ, để đảm bảo hoàn vốn, nhưng vẫn thu hút được các Chủ phương tiện đi vào đường cao tốc. Quản lý, thu phí trên Quốc lộ 5 ngay sau khi được Bộ GTVT bàn giao lại cho đến hết thời gian kinh doanh BOT Dự án đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng theo đúng quy định của pháp luật”.
- Mức thu phí trên đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và tại 02 trạm thu phí trên QL5 được thực hiện theo cơ chế được Thủ tướng Chính phủ cho phép tại các Quyết định số 1621/QĐ-TTg ngày 29/11/2007 về một số cơ chế, chính sách thí điểm đầu tư dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 29/5/2015 về việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn đầu tư và bổ sung các cơ chế chính sách hỗ trợ cần thiết đối với Dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã có văn bản số 6940/BTC-CST ngày 26/5/2015 hướng dẫn Chủ đầu tư dự án (VIDIFI) tự quyết định mức thu phí đối với đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng;
- Về mức thu phí tại 02 trạm thu phí trên QL5:
+ Theo Quyết định số 1621/QĐ-TTg ngày 29/11/2007, Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 29/5/2015, văn bản số 1337/TTg-KTN của Thủ tướng Chính phủ và văn bản số 14863/BGTVT-ĐTCT ngày 24/11/2014 của Bộ GTVT thì 02 trạm thu phí trên QL5 dùng để thu phí hoàn vốn cho Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Dự án cải tạo, khôi phục mặt đường Quốc lộ 5 và chi phí bảo trì Quốc lộ 5. Theo phương án tài chính của VIDIFI trình và tại văn bản số 3778/BGTVT-ĐTCT ngày 27/3/2015 của Bộ GTVT báo cáo thẩm định phương án tài chính điều chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ đã bao gồm các chi phí hoàn vốn nêu trên, đồng thời mức phí trên Quốc lộ 5 cho cả 05 loại phương tiện chịu phí được áp dụng bằng với mức trần tối đa theo Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính;
+ Ngày 29/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 746/QĐ-TTg, trong đó giao Bộ Tài chính hướng dẫn VIDIFI thực hiện việc thu phí quốc lộ 5 theo mức thu phí quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013. Bộ Tài chính đã ban hành thông tư TT153/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 quy định mức phí, trong đó mức thu đối với 03 nhóm phương tiện chịu phí gồm xe con, xe tải dưới 10 tấn đã giảm so với đề nghị và phương án tài chính hoàn vốn của VIDIFI.
+ Triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Bộ GTVT đã chủ động với Bộ Tài chính thống nhất đề xuất với Thủ tướng Chính phủ giảm phí đối với các trạm có thể giảm được. Tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH ngày 02/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất của 02 Bộ và giao Bộ GTVT rà soát các dự án BOT đã ký để đàm phán, thống nhất với nhà đầu tư về việc điều chỉnh mức phí, lộ trình thực hiện đối với từng dự án BOT. Từ khi thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP đến nay Bộ GTVT đã đề xuất và được Bộ Tài chính chấp thuận giảm được 29 trạm thu phí (trước khi thu và đã thu) theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH và Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày 04/11/2016 của Chính phủ. Đối với QL 5, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 254/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 giảm phí đối với nhóm phương tiện số 1 và số 2, đơn vị đã thực hiện từ tháng 11/2016.
- Đối với mức phí nhóm xe loại 5 trên đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng:
Theo cơ chế được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính cho phép VIDIFI được quyền chủ động quyết định mức phí trên cao tốc, VIDIFI cân đối và đã có quyết định giảm phí cho nhóm xe loại 5, bình quân mức giảm là 35% so với mức thu tính trong phương án tài chính hoàn vốn đầu tư, nếu so với mức thu năm 2015 thì mức phí giảm là 10% để thu hút phương tiện từ Quốc lộ 5 qua đường cao tốc nhằm giảm bớt lượng phương tiện, giảm ùn tắc, hạn chế tai nạn giao tông trên tuyến Quốc lộ 5. Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục làm việc với Nhà đầu tư và báo cáo cấp có thẩm quyền để tiến hành rà soát, xem xét mức giảm phí trên tuyến cao tốc và quốc lộ 5 cho phù hợp.
178. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Cử tri Bắc Ninh phản ánh đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đoạn qua Bắc Ninh được xây dựng trên nền đường cũ, đơn vị thi công chỉ thảm lại mặt đường trên nền cũ, do vậy mặt đường có mới hơn, hệ thống biển báo đẹp hơn nhưng thực chất không thay đổi nhiều về chất lượng. Cử tri cho rằng áp dụng mức phí như hiện nay là không hợp lý và quá cao, đặc biệt là đối với người đi quãng đường ngắn nhưng phải trả phí cho toàn bộ quãng đường 45 km
Trả lời: (Tại Công văn số 15857/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này. Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT.
Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Bắc Giang có chiều dài đầu tư là 45 km trong đó có khoảng 20km thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang được đầu tư mở rộng từ 2 làn xe thành 4 làn xe; khoảng 25km thuộc địa phận tỉnh Bắc Ninh và Hà Nội được đầu tư tăng cường mặt đường, đầu tư mới hệ thống đảm bảo an toàn giao thông; TMĐT của dự án hơn 4.200 tỷ đồng. Trước khi được đầu tư, đoạn từ Hà Nội đến Bắc Ninh có quy mô đường cấp I với bề rộng nền đường 6 làn xe, mặt 4 làn xe được đưa vào khai thác từ năm 2001 đã xuống cấp, cường độ mặt đường chỉ đạt 90-130Mpa (cường độ mặt đường yêu cầu tương ứng với lưu lượng xe là khoảng 200Mpa). Do vậy, việc đầu tư cải tạo nâng cấp đoạn Hà Nội-Bắc Ninh là hết sức cần thiết. Mặt khác, mặc dù chỉ thực hiện đầu tư tăng cường mặt đường và an toàn giao thông, tuy nhiên trong lĩnh vực đường bộ nói chung và dự án này nói riêng thì chi phí đầu tư mặt đường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí đầu tư cả dự án. Do vậy, việc thực hiện thu phí của các phương lưu thông qua trạm thu phí để hoàn vốn đầu tư là họp lý.
Mức thu phí của dự án BOT QL1 đoạn Hà Nội-Bắc Giang tại trạm thu phí Kml 52+080, QL1 tỉnh Bắc Ninh đã được Bộ GTVT nghiên cứu kỹ ừong quá trình chuấn bị đầu tư dự án, thương thảo họp đồng dự án dựa trên các yếu tố: tổng mức đầu tư dự án, khung mức phí được quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính, khả năng hoàn vốn cho Nhà đầu tư và mức thu nhập của người dân đi qua. Đồng thời, nếu so sánh với mức thu phí tại các dự án khác thì về cơ bản là tương đồng với mức thu xe con cơ sở là 35 nghìn đồng/lượt. So với Tổng mức đầu tư của dự án, suất đầu tư xây dựng đường bộ và lưu lượng xe lưu thông, mức thu nhập của người dân hiện nay thì mức phí sử dụng đường bộ trên là phù họp, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của người dân, doanh nghiệp tham gia giao thông và nhà đầu tư dự án BOT. Mặt khác, trước khi ban hành Thông tư thu phí số Thông tư 28/2016/TT-BTC, Bộ Tài chính đã lấy ý kiến các cơ quan liên quan, trong đó có các địa phương nơi dự án đi qua và đã nhận được sự thống nhất về mức phí.
Đối với người thường xuyên tham gia giao thông qua trạm thu phí, trong Thông tư 28/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng như trong Họp đồng BOT đã quy định, yêu cầu Nhà đầu tư phải bán vé tháng (có mệnh giá bằng 30 lần vé lượt), vé quý (có mệnh giá bằng 3 lần vé tháng và được tiết giảm thêm 10%) có giá trị sử dụng trong tháng, quý và không hạn chế số lần qua trạm thu phí. Do vậy, nhân dân trong vùng đi quãng đường ngắn, thường xuyên qua trạm thu phí Kml52+080 nên lựa chọn phương án mua vé tháng, vé quý để tiết kiệm chi phí khi lưu thông qua trạm.
179. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị sớm xem xét chấp thuận và cho phép UBND huyện Ba Bể sử dụng tiền thu được do các hộ tái định cư phải thực hiện nghĩa vụ tài chính khu tái định cư để giải phóng mặt bằng Dự án đầu tư xây dựng Quốc lộ 279 đoạn nối Quốc lộ 3 với Quốc lộ 2 thuộc địa bàn hai tỉnh Bắc Kạn và Tuyên Quang (giai đoạn I) để đầu tư lại cho hạng mục điện của Khu tái định cư Tiểu khu 1, thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể. (Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã có đề nghị tại Công văn số 3125/UBND –TH ngày 28/7/2016 gửi Bộ Giao thông vận tải).
Trả lời: (Tại Công văn số 823/BGTVT- ngày 20/1/2017)
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB), hỗ trợ và tái định cư (TĐC) để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Quốc lộ 279 đoạn nối Quốc lộ 3 với Quốc lộ 2 thuộc địa bàn hai tỉnh Bắc Kạn và Tuyên Quang - giai đoạn I (Dự án) được tách thành tiểu dự án riêng và giao UBND tỉnh Bắc Kạn thực hiện theo các quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 và Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ. Vì vậy, việc sử dụng tiền thu được do các hộ tái định cư phải thực hiện nghĩa vụ tài chính khu tái định cư để GPMB để hỗ trợ kinh phí cho Tỉnh đầu tư xây dựng hạ tầng đường điện khu TĐC phục vụ công tác GPMB cho Dự án thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Bắc Kạn. Trường hợp vượt thẩm quyền, đề nghị UBND tỉnh Bắc Kạn báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan giải quyết.
180. Cử tri tp Cần Thơ kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải rà soát, giảm bớt các trạm thu phí giao thông đường bộ, trong đó có các dự án BOT, tránh tình trạng phí chồng phí tạo gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp.
Trả lời: (Tại Công văn số 10/BGTVT- ngày 3/1/2017)
Trước hết, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) xin trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri thành phố Cần Thơ đã góp ý về công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải. Đối với nội dung cử tri kiến nghị, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Thứ nhất: Tại điểm a khoản 9 Điều 30 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi sau đây:
“Tự ý thay đổi tổng thành khung, tổng thành máy (động cơ), hệ thống phanh, hệ thống truyền động (truyền lực), hệ thống chuyển động hoặc tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng kích thước của xe, thùng xe hoặc tự ý lắp thêm, tháo bớt ghế, giường nằm (đối với xe chở khách) không đúng thiết kế của nhà sản xuất hoặc thiết kế cải tạo đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; tự ý thay đổi tính năng sử dụng của xe”.
Việc quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên là cần thiết vì khi các chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi vi phạm trên sẽ làm ảnh hưởng đến tính năng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng của phương tiện các nhà sản xuất, lắp ráp đã thiết kế các thiết bị kèm theo phù hợp với từng loại hình, công suất của phương tiện đó; việc tự ý lắp thêm các thiết bị âm thanh, màn hình trên các phương tiện vận tải khách có thể nâng cao tiện ích, chất lượng dịch vụ đối với hành khách tuy nhiên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống điện của phương tiện, có thể gây ra chập, cháy cũng như ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của phương tiện, gây nguy hiểm cho hành khách, phương tiện cũng như người tham gia giao thông.
- Thứ hai: Tại điểm g khoản 5 Điều 23 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe ô tô thực hiện hành vi: “Điều khiển xe tham gia kinh doanh vận tải hành khách không gắn thiết bị giám sát hành trình của xe (đối với loại xe có quy định phải gắn thiết bị) hoặc gắn thiết bị không hoạt động theo quy định”.
Về cơ sở pháp lý của quy định bắt buộc lắp thiết bị giám sát hành trình (đối với loại xe có quy định phải gắn thiết bị) đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Hơn nữa, việc lắp thiết bị giám sát hành trình trên xe ô tô phải tuân thủ theo Quy chuẩn số 31: 2014/BGTVT về thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô ban hành kèm theo Thông tư số 73/2014/TT-BGTVT ngày 15/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và được cơ quan đăng kiểm kiểm tra trong quá trình kiểm định phương tiện.
181. Cử tri tp Cần Thơ kiến nghị: Nhiều cử tri là đại diện các doanh nghiệp vận tải hành khách kiến nghị Chính phủ xem xét sửa đổi Điểm a Khoản 9 Điều 30 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, ngày 26 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, để phù hợp với thực tiễn và thống nhất với Điểm g Khoản 5 Điều 23 của Nghị định này. Bởi vì, việc lắp thêm thiết bị âm thanh, màn hình trên các phương tiện vận tải hành khách, đã góp phần nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, không ảnh hưởng đến an toàn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 15699/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Trước hết, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) xin trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri thành phố Cần Thơ đã góp ý về công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải. Đối với nội dung cử tri kiến nghị, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Thứ nhất: Tại điểm a khoản 9 Điều 30 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi sau đây:
“Tự ý thay đổi tổng thành khung, tổng thành máy (động cơ), hệ thống phanh, hệ thống truyền động (truyền lực), hệ thống chuyển động hoặc tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng kích thước của xe, thùng xe hoặc tự ý lắp thêm, tháo bớt ghế, giường nằm (đối với xe chở khách) không đúng thiết kế của nhà sản xuất hoặc thiết kế cải tạo đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; tự ý thay đổi tính năng sử dụng của xe”.
Việc quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên là cần thiết vì khi các chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi vi phạm trên sẽ làm ảnh hưởng đến tính năng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng của phương tiện các nhà sản xuất, lắp ráp đã thiết kế các thiết bị kèm theo phù hợp với từng loại hình, công suất của phương tiện đó; việc tự ý lắp thêm các thiết bị âm thanh, màn hình trên các phương tiện vận tải khách có thể nâng cao tiện ích, chất lượng dịch vụ đối với hành khách tuy nhiên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống điện của phương tiện, có thể gây ra chập, cháy cũng như ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của phương tiện, gây nguy hiểm cho hành khách, phương tiện cũng như người tham gia giao thông.
- Thứ hai: Tại điểm g khoản 5 Điều 23 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe ô tô thực hiện hành vi: “Điều khiển xe tham gia kinh doanh vận tải hành khách không gắn thiết bị giám sát hành trình của xe (đối với loại xe có quy định phải gắn thiết bị) hoặc gắn thiết bị không hoạt động theo quy định”.
Về cơ sở pháp lý của quy định bắt buộc lắp thiết bị giám sát hành trình (đối với loại xe có quy định phải gắn thiết bị) đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Hơn nữa, việc lắp thiết bị giám sát hành trình trên xe ô tô phải tuân thủ theo Quy chuẩn số 31: 2014/BGTVT về thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô ban hành kèm theo Thông tư số 73/2014/TT-BGTVT ngày 15/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và được cơ quan đăng kiểm kiểm tra trong quá trình kiểm định phương tiện.
182. Cử tri tp Cần Thơ kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tham mưu Chính phủ tổ chức kiểm tra, rà soát tình hình thu phí giao thông tại các trạm thu phí trên cả nước, trong đó có các dự án BOT; đồng thời, xem xét giảm mức thu tại các trạm thu phí, để giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp và người dân, góp phần hạn chế tình trạng phương tiện giao thông đi vào đường giao thông nông thôn để trốn phí, ảnh hưởng tới chất lượng đường giao thông nông thôn cũng như tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 15682/BGTVT- ngày 29/12/2016)
I. Về việc kiểm tra, rà soát tình hình thu phí giao thông tại các trạm thu phí trên cả nước:
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Các dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định.
Để quản lý tốt, đảm bảo tính minh bạch, phòng, chống tiêu cực thất thoát doanh thu, gian lận trong hoạt động thu phí tại các trạm thu phí BOT, Bộ GTVT đã triển khai rất nhiều các giải pháp như:
1. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thay mặt Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn kinh doanh, khai thác và chuyển giao công trình dự án chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; công tác tổ chức thu phí; có biện pháp chống thất thoát doanh thu; thực hiện quyền của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng dự án theo các quy định của hợp đồng dự án…;
2. Thường xuyên chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra (định kỳ và đột xuất) tại các trạm thu phí BOT của các dự án do Bộ GTVT quản lý (ví dụ như: trạm thu phí Pháp Vân – Cầu Giẽ, trạm thu phí trên Quốc lộ 5, trạm thu phí Đại Yên - quốc lộ 18…) để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nếu để xảy ra vi phạm;
3. Bộ GTVT đã tổ chức họp bàn các giải pháp triển khai thực hiện với Bộ Tài chính về các nội dung này và kiến nghị Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí trong đó có phí sử dụng đường bộ hoàn vốn các dự án BOT. Ngày 28/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8737/BTC-CST chỉ đạo Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí; đảm bảo công khai minh bạch, công bằng trong hoạt động thu phí, lệ phí của các dự án BOT thu phí hoàn vốn, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động thu phí, lệ phí và kê khai nộp thuế, phí, lệ phí.
4. Giao Tổng cục ĐBVN chủ trì mời Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục thuế các địa phương tham gia đoàn kiểm tra, giám sát hoạt động thu phí đối với các trạm thu phí BOT trên cơ sở kiến nghị, đề xuất của Tổng cục ĐBVN;
5. Phê duyệt dự án thu phí tự động không dừng và kiểm soát tải trọng xe trên toàn quốc – giai đoạn 1 áp dụng cho Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, tiến tới triển khai áp dụng toàn bộ tại các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý;
6. Triển khai đề án “tăng cường giám sát và công khai minh bạch doanh thu thu phí đối với các dự án đường bộ có thu phí do Bộ GTVT quản lý” qua việc giám sát lưu lượng, doanh thu các trạm thu phí BOT bằng phần mềm giám sát thu phí trực tuyến...;
7. Đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT: thông qua công tác quyết toán để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu quả, quản lý chặt chẽ công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước, hạn chế tình trạng dự án kéo dài, giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản, tiết kiệm vốn đầu tư, chống thất thoát ngân sách nhà nước…Đối với dự án BOT ngoài các nội dung trên, giá trị quyết toán là căn cứ để tính toán, xác định lại chính thức thời gian thu phí hoàn vốn đối với các dự án, công khai, minh bạch chi phí đầu tư xây dựng công trình, thời gian thu phí hoàn vốn trước các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ và nhân dân…
8. Yêu cầu các Nhà đầu tư/Doanh nghiệp dự án:
- Xây dựng các giải pháp để chống thất thoát trong công tác thu phí. Xây dựng các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ thu phí, giám sát hậu kiểm chặt chẽ. Thường xuyên phổ biến và tập huấn các quy chế, quy định liên quan đến công tác thu phí cho các cán bộ công nhân viên...;
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, chế tài xử phạt, bồi thường thiệt hại đủ sức răn đe để hạn chế, xử lý các cá nhân, phương tiện trốn phí;
- Rà soát, kiểm tra và lắp đặt đầy đủ trang thiết bị thu phí, giám sát, hậu kiểm đồng bộ, hiện đại (bao gồm hệ thống phần mềm, camera nhận dạng biển số xe...) để kiểm soát chặt chẽ các phương tiện qua trạm thu phí, hạn chế các tác động của con người vào quá trình thu phí, giám sát, hậu kiểm; Khắc phục ngay các sự cố, hư hỏng về hệ thống, thiết bị, phần mềm... đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện;
- Hiện đại hóa công nghệ thu phí để đáp ứng yêu cầu thu phí tự động không dừng theo chủ trương của Bộ GTVT;
- Bán kịp thời đầy đủ các loại vé (vé lượt, vé tháng, vé quý) theo quy định và yêu cầu của người mua;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các chủ phương tiện thực hiện đúng các quy định, trình tự, thủ tục thu phí...
- Tăng cường bố trí nhân lực, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định trong công tác thu phí...; thực hiện các biện pháp luân chuyển cán bộ; xử lý kỷ luật các cán bộ liên quan vi phạm, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
- Nghiêm túc tuân thủ chế độ báo cáo về tình hình thu phí và doanh thu thu phí theo nội dung quy định trong hợp đồng dự án và Quyết định số 2777/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT; cụ thể: Báo cáo định kỳ hàng quý (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) về tình hình thu phí và doanh thu thu phí; báo cáo định kỳ 06 tháng (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) và cả năm (trước ngày 31/01 của năm tiếp theo) về tình hình giao thông, lưu lượng xe, doanh thu thu phí, các thông số đầu vào liên quan đến phương án tài chính của dự án và các nội dung liên quan đến quản lý, bảo trì công trình dự án theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ và hợp đồng dự án. Riêng báo cáo cả năm về doanh thu thu phí phải có kiểm toán độc lập kiểm toán hoặc xác nhận của cơ quan thuế.
Với các giải pháp nêu trên, Bộ GTVT tin tưởng rằng đã và sẽ hạn chế được các hành vi tiêu cực, gian lận tại trạm thu phí BOT đường bộ trong quá trình thu phí.
II. Đối với nội dung xem xét giảm mức thu tại các trạm thu phí
Triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và trên cơ sở rà soát sơ bộ chi phí đầu tư, phương án tài chính của các dự án, Bộ GTVT đã có văn bản số 6678/BGTVT-ĐTCT ngày 14/6/2016 đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án giảm phí và lộ trình thực hiện việc giảm phí đường bộ.
Ngày 20/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8302/BTC-CST báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương giảm phí sử dụng đường bộ. Căn cứ các nội dung nêu trên, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 6370/VPCP-KTTH ngày 02/8/2016 thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: “Đồng ý phương án, giải pháp và lộ trình thực hiện giảm phí đường bộ như đề xuất của Bộ Tài chính tại văn bản số 8302/BTC-CST. Giao Bộ GTVT rà soát các dự án BOT đã ký để đàm phán, thống nhất với nhà đầu tư về việc điều chỉnh mức phí, lộ trình thực hiện đối với từng dự án BOT; trên cơ sở đó, đề nghị Bộ Tài chính kịp thời ban hành Thông tư điều chỉnh mức phí phù hợp”.
Ngoài ra, để chủ động thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ, Bộ GTVT đã có văn bản số 8299/BGTVT-TC ngày 19/7/2016 đề nghị các Nhà đầu tư BOT khẩn trương rà soát phương án tài chính của dự án, các yếu tố liên quan đến phương án tài chính để đề xuất mức giảm phí theo phương án của Bộ Tài chính tại văn bản số 8302/BTC-CST.
Từ khi thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP đến nay Bộ GTVT đã đề xuất và được Bộ Tài chính chấp thuận giảm được 29 trạm thu phí gồm:
+ Giảm được 06 trạm thu phí đã được Bộ Tài chính ban hành thông tư trước khi cho phép thu phí;
+ Chủ động điều chỉnh giảm mức thu đối với 03 trạm thu phí (theo PATC) trong quá trình ban hành thông tư;
+ Không tăng phí đối với 01 trạm thu phí theo lộ trình tăng phí tại Thông tư của Bộ Tài chính (trạm Tân Phú QL20).
+ Từ ngày 25/8 đến ngày 08/12/2016, Bộ GTVT đã thống nhất cùng các Nhà đầu tư để trình và Bộ Tài chính đã giảm phí đối với 19 trạm thu phí đang thu.
Một số trạm thu phí còn lại, ngay sau khi rà soát và thống nhất cụ thể với từng Nhà đầu tư, Bộ GTVT sẽ có ngay văn bản đề nghị thực hiện ban hành thủ tục giảm phí cho các trạm đang thu theo quy định.
183. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Cử tri phản ánh, Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) đã xây dựng đường cao tốc Nội bài – Lào cai từ năm 2008 - 2009, công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2013. Việc bồi thường thu hồi đất đã được thực hiện theo phương án được duyệt. Tuy nhiên, việc thi công xây dựng công trình của VEC làm hư hỏng nhiều công trình khác gây khó khăn, thiệt hại không nhỏ cho sản xuất, đời sống của nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh như nhà ở bị lún, rạn nứt; đường giao thông, công trình thủy lợi hư hỏng; nhiều hộ dân sau khi thu hồi đất còn lại diện tích đất nông nghiệp nhỏ lẻ, không canh tác được.v.v. Riêng cử tri xã Tiên Lữ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có phản ánh cụ thể như sau: 03 cống do VEC xây dựng làm úng, ngập 1,87 ha đất nông nghiệp, người dân phải bỏ ruộng không canh tác được. 01 cống do địa phương xây dựng có chiều dài 200 m bị bồi lấp. Khoảng 02 km đường liên xã, liên thôn do người dân đóng góp xây dựng đã bị hư hỏng nặng. Những thiệt hại này, VEC đã có văn bản xác nhận nhưng chưa khắc phục. Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ giao thông vận tải chỉ đạo Tổng công ty VEC giải quyết khắc phục.
Trả lời: (Tại Công văn số 1116/BGTVT- ngày 6/2/2017)
Về việc này Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) kiểm tra, rà soát thực tế hiện trường và phối hợp với các cơ quan liên quan của địa phương để giải quyết dứt điểm các ý kiến kiến nghị của cử tri, tránh tình trạng kiến nghị nhiều lần, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Hiện tại, VEC đang tiến hành thực hiện, Bộ GTVT sẽ có Văn bản trả lời cử tri ngay sau khi có báo cáo tình hình thực hiện các nội dung kiện nghị.
184. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải và Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xem xét sửa đổi Thông tư liên tịch số 19/2015/TTLT-BGTVT-BVHTTDL ngày 25/5/2015 về hướng dẫn về vận tải khách du lịch bằng xe ô tô và cấp biển hiệu cho xe ô tô vận tải khách du lịch theo hướng:
+ Bỏ cụm từ “hoặc thuyết minh viên” tại Khoản 2, Điều 5;
+ Tại Điểm a, b, c, d, Mục 2, Điều 8 quy định trình tự nộp hồ sơ chưa phù hợp, đề nghị sửa đổi như sau: “Đơn vị kinh doanh vận tải khách du lịch gửi hồ sơ đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổ chức thẩm định xe ô tô đạt tiêu chuẩn vận chuyển khách du lịch; trong thời hạn 05 ngày kể từ khi nhận được văn bản và hồ sơ của doanh nghiệp, Sở Giao thông vận tải tổ chức cấp biển hiệu xe ô tô vận chuyển khách du lịch”.
Trả lời: (Tại Công văn số 15781/BGTVT- ngày 30/12/2017)
185. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: - Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có đơn vị đăng ký hoạt động kinh doanh mô tô nước trên biển, tuy nhiên, khi triển khai doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoạt động mô tô nước trên biển do gặp nhiều vướng mắc, như:
+ Theo quy định tại Điểm c, Khoản 4, Điều 1, Thông tư số 75/2014/TT-BGTVT ngày 19/12/2014 của Bộ Giao thông vận tải về đăng ký phương tiện thủy nội địa thì Thông tư này không áp dụng đối với việc đăng ký các loại phương tiện là “Tàu, Thuyền thể thao và vui chơi giải trí” mà loại hình mô tô nước trên biển lại thuộc loại phương tiện thể thao và vui chơi giải trí, do đó, doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thuỷ nội địa;
+ Tại Khoản 2, Điều 1, Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 của Bộ Giao thông - Vận tải về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa thì Thông tư này không áp dụng đối với Phương tiện thuỷ nội địa có động cơ công suất máy chính dưới 5 sức ngựa và có sức chở dưới 5 người, do đó, doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện thuỷ nội địa.
Trả lời: (Tại Công văn số 15781/BGTVT- ngày 30/12/2017)
1. Đối với nội dung đề nghị sửa đổi Thông tư liên tịch số 19/2015/TTLT-BGTVT-BVHTTDL ngày 25/5/2015 về hướng dẫn về vận tải khách du lịch bằng xe ô tô và cấp biển hiệu cho xe ô tô vận tải khách du lịch:
Nội dung kiến nghị này, Bộ GTVT đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Trong đó đã giảm bớt thủ tục hành chính về thành phần hồ sơ khi cấp Giấy phép kinh doanh vận tải, cấp phù hiệu và biển hiệu cho xe ô tô. Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng giao Bộ GTVT tiếp thu thêm ý kiến của một số Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Công văn số 10643/VPCP-KTN ngày 08/12/2016 để tiếp tục hoàn thiện dự thảo. Bộ GTVT đã hoàn thiện và trình Chính phủ ngày 30/12/2016.
Sau khi dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô được Chính phủ ban hành, Bộ GTVT sẽ ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2014/TT-BGTVT ngày 07/11/2014 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, trong đó sẽ tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri để quy định trong Thông tư sửa đổi nêu trên.
2. Đối với nội dung kiến nghị trên địa bàn tỉnh có đơn vị đăng ký hoạt động kinh doanh mô tô nước trên biển, tuy nhiên, khi triển khai doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoạt động mô tô nước trên biển do gặp nhiều vướng mắc:
Nội dung kiến nghị này, Bộ GTVT đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 9923/BGTVT-VT ngày 25/8/2016. Ngày 13/10/2016, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 8681/VPCP-KTN về việc quản lý hoạt động của phương tiện thủy nội địa phục vụ hoạt động du lịch, thể thao, vui chơi giải trí trên đường thủy nội địa. Trong đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với các cơ quan, địa phương liên quan xây dựng Quy định quản lý hoạt động của phương tiện thủy nội địa phục vụ hoạt động du lịch, thể thao, vui chơi giải trí trên đường thủy nội địa; báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Hiện tại, Bộ GTVT đang xây dựng dự thảo Quy định quản lý hoạt động của phương tiện thủy nội địa phục vụ hoạt động du lịch, thể thao, vui chơi giải trí trên đường thủy nội địa. Trong quý I/2017, Bộ GTVT sẽ gửi dự thảo xin ý kiến các Bộ, ngành liên quan và các địa phương để hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
186. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra việc thu phí của các trạm thu phí giao thông đường bộ trên cả nước để tránh phát sinh tiêu cực trong quản lý và sử dụng.
Trả lời: (Tại Công văn số 15684/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Các dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định.
Để quản lý tốt, đảm bảo tính minh bạch, phòng, chống tiêu cực thất thoát doanh thu, gian lận trong hoạt động thu phí tại các trạm thu phí BOT, Bộ GTVT đã triển khai rất nhiều các giải pháp như:
1. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thay mặt Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn kinh doanh, khai thác và chuyển giao công trình dự án chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; công tác tổ chức thu phí; có biện pháp chống thất thoát doanh thu; thực hiện quyền của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng dự án theo các quy định của hợp đồng dự án…;
2. Thường xuyên chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra (định kỳ và đột xuất) tại các trạm thu phí BOT của các dự án do Bộ GTVT quản lý (ví dụ như: trạm thu phí Pháp Vân – Cầu Giẽ, trạm thu phí trên Quốc lộ 5, trạm thu phí Đại Yên - quốc lộ 18…) để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nếu để xảy ra vi phạm;
3. Bộ GTVT đã tổ chức họp bàn các giải pháp triển khai thực hiện với Bộ Tài chính về các nội dung này và kiến nghị Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí trong đó có phí sử dụng đường bộ hoàn vốn các dự án BOT. Ngày 28/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8737/BTC-CST chỉ đạo Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí; đảm bảo công khai minh bạch, công bằng trong hoạt động thu phí, lệ phí của các dự án BOT thu phí hoàn vốn, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động thu phí, lệ phí và kê khai nộp thuế, phí, lệ phí.
4. Giao Tổng cục ĐBVN chủ trì mời Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục thuế các địa phương tham gia đoàn kiểm tra, giám sát hoạt động thu phí đối với các trạm thu phí BOT trên cơ sở kiến nghị, đề xuất của Tổng cục ĐBVN;
5. Phê duyệt dự án thu phí tự động không dừng và kiểm soát tải trọng xe trên toàn quốc – giai đoạn 1 áp dụng cho Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, tiến tới triển khai áp dụng toàn bộ tại các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý;
6. Triển khai đề án “tăng cường giám sát và công khai minh bạch doanh thu thu phí đối với các dự án đường bộ có thu phí do Bộ GTVT quản lý” qua việc giám sát lưu lượng, doanh thu các trạm thu phí BOT bằng phần mềm giám sát thu phí trực tuyến...;
7. Đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT: thông qua công tác quyết toán để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu quả, quản lý chặt chẽ công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước, hạn chế tình trạng dự án kéo dài, giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản, tiết kiệm vốn đầu tư, chống thất thoát ngân sách nhà nước…Đối với dự án BOT ngoài các nội dung trên, giá trị quyết toán là căn cứ để tính toán, xác định lại chính thức thời gian thu phí hoàn vốn đối với các dự án, công khai, minh bạch chi phí đầu tư xây dựng công trình, thời gian thu phí hoàn vốn trước các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ và nhân dân…;
8. Yêu cầu các Nhà đầu tư/Doanh nghiệp dự án:
- Xây dựng các giải pháp để chống thất thoát trong công tác thu phí. Xây dựng các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ thu phí, giám sát hậu kiểm chặt chẽ. Thường xuyên phổ biến và tập huấn các quy chế, quy định liên quan đến công tác thu phí cho các cán bộ công nhân viên...;
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, chế tài xử phạt, bồi thường thiệt hại đủ sức răn đe để hạn chế, xử lý các cá nhân, phương tiện trốn phí;
- Rà soát, kiểm tra và lắp đặt đầy đủ trang thiết bị thu phí, giám sát, hậu kiểm đồng bộ, hiện đại (bao gồm hệ thống phần mềm, camera nhận dạng biển số xe...) để kiểm soát chặt chẽ các phương tiện qua trạm thu phí, hạn chế các tác động của con người vào quá trình thu phí, giám sát, hậu kiểm; Khắc phục ngay các sự cố, hư hỏng về hệ thống, thiết bị, phần mềm... đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện;
- Hiện đại hóa công nghệ thu phí để đáp ứng yêu cầu thu phí tự động không dừng theo chủ trương của Bộ GTVT;
- Bán kịp thời đầy đủ các loại vé (vé lượt, vé tháng, vé quý) theo quy định và yêu cầu của người mua;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các chủ phương tiện thực hiện đúng các quy định, trình tự, thủ tục thu phí...
- Tăng cường bố trí nhân lực, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định trong công tác thu phí...; thực hiện các biện pháp luân chuyển cán bộ; xử lý kỷ luật các cán bộ liên quan vi phạm, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
- Nghiêm túc tuân thủ chế độ báo cáo về tình hình thu phí và doanh thu thu phí theo nội dung quy định trong hợp đồng dự án và Quyết định số 2777/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT; cụ thể: Báo cáo định kỳ hàng quý (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) về tình hình thu phí và doanh thu thu phí; báo cáo định kỳ 06 tháng (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) và cả năm (trước ngày 31/01 của năm tiếp theo) về tình hình giao thông, lưu lượng xe, doanh thu thu phí, các thông số đầu vào liên quan đến phương án tài chính của dự án và các nội dung liên quan đến quản lý, bảo trì công trình dự án theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ và hợp đồng dự án. Riêng báo cáo cả năm về doanh thu thu phí phải có kiểm toán độc lập kiểm toán hoặc xác nhận của cơ quan thuế.
Với các giải pháp nêu trên, Bộ GTVT tin tưởng rằng đã và sẽ hạn chế được các hành vi tiêu cực, gian lận tại trạm thu phí BOT đường bộ trong quá trình thu phí.
187. Cử tri tỉnh Thùa Thiên Huế kiến nghị: Thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành đã nỗ lực trong việc đầu tư nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 1A, đến nay công trình đã cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, Nhà và một số công trình của các hộ dân sống ven hai bên đường đoạn qua huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế bị nứt, nẻ, xuống cấp do việc thi công công trình gây ra. Mặc dù đã được Ban quản lý đường bộ 4 thống kê, thực hiện đền bù, nhưng mức đền bù chưa thỏa đáng với những thiệt hại thực tế xảy ra, một số hộ có nhà bị nứt nhưng qua thẩm định giá trị bồi thường là không đồng. Hiện tại có 283 hộ (trong đó: 200 hộ dân chưa nhận tiền đền bù; 83 hộ có giá trị bồi thường là không đồng) tiếp tục khiếu nại, kiến nghị với các cơ quan nhà nước ở địa phương. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải chỉ đạo Ban quản lý đường bộ 4 và các nhà thầu xem xét nâng mức đền bù cho các hộ dân, tránh tình trạng khiếu nại kéo dài.
Trả lời: (Tại Công văn số 1012/BGTVT- ngày 25/1/2017)
- Dự án mở rộng QL1 đoạn Km848+875 - Km890+200, tỉnh Thừa Thiên Huế do ban QLDA 4 làm đại diện Chủ đầu tư được triển khai thực hiện từ tháng 7/2014, hoàn thành tháng 10/2015 (vượt tiến độ 6 tháng). Dự án đi qua 8 xã và thị trấn của huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Do đặc thù xây dựng công trình giao thông, thường phải sử dụng các thiết bị thi công tải trọng lớn, tạo rung chấn, sức ép… nên trong quá trình thi công không thể tránh khỏi việc ảnh hưởng tới các công trình xây dựng hiện có, điều đó dẫn tới có nhiều đơn thư khiếu nại của người dân phản ánh về tình trạng làm nứt nhà dân. Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị Bảo hiểm, đơn vị Giám định tiến hành kiểm tra và giám định đối với toàn bộ các hộ dân bị ảnh hưởng;
- Kết quả giám định đánh giá 821 hộ dân có bị ảnh hưởng liên quan đến Dự án. Sau khi tính toán, đơn vị Giám định đưa ra mức hỗ trợ, bồi thường nằm trong phạm vi trách nhiệm đền bù của đơn vị Bảo hiểm đã công bố cho các hộ dân bị ảnh hưởng là: 4.843.740.000 đồng (trong đó có 84 căn nhà có giá trị đền bù là 0 đồng) và đã chi trả cho 684 hộ/4.534.066.000 đồng, còn lại 137 hộ với giá trị hỗ trợ là: 309.674.000 đồng chưa đồng ý nhận tiền vì không đồng tình với giá hỗ trợ của Bảo hiểm. Theo đánh giá của đơn vị giám định, ngoài giá trị đơn vị Bảo hiểm hỗ trợ, bồi thường nêu trên cần được xem xét, bồi thường cho các hộ dân bị ảnh hưởng là 6.757.497.000 đồng (giá trị đền bù thiệt hại đã công bố cho các hộ dân bị ảnh hưởng mới chỉ là giá trị đền bù trong phạm vi trách nhiệm của Bảo hiểm);
- Đối với kinh phí hỗ trợ, bồi thường ngoài phạm vi trách nhiệm Bảo hiểm, Bộ GTVT đã có Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016 tiếp tục báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng của dự án (được trích từ tổng mức đầu tư) để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công. Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7866/VPCP-KTTH ngày 20/9/2016 lấy ý kiến các Bộ Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch đầu tư về kiến nghị của Bộ GTVT tại Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016. Đến nay, đã được các Bộ có ý kiến đồng thuận, cụ thể tại Văn bản số 2279/BXD-HĐXD ngày 17/10/2016 của Bộ Xây dựng; số 14126/BTC-ĐT ngày 07/10/2016 của Bộ Tài chính; số 8128/BKHĐT-KCHTĐT ngày 03/10/2016 của Bộ Kế hoạch đầu tư, hiện tại Bộ GTVT đang chờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, trong thời gian chờ ý kiến cho phép của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Ban QLDA 4 làm việc với các Nhà thầu thi công tạm thời sử dụng kinh phí lấy từ nguồn giá trị thanh toán khối lượng còn lại của các gói thầu xây lắp để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (ngoài phần thuộc trách nhiệm của bảo hiểm).
2. Về nội dung phản ánh: “Kiến nghị xem xét lại tính hợp lý đối với các rào chắn ở tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn qua xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay tình trạng các em học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở phải đi ngược chiều để vào trường học, rất dễ xảy ra tai nạn giao thông, nguy hiểm đến tính mạng của các cháu”.
Về vấn đề này, Bộ GTVT có ý kiến như sau:
- Các rào chắn ở tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn qua xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế như ý kiến của cử tri nêu trên chính là hệ thống dải phân cách giữa trên tuyến QL1 được thiết kế, thi công tuân thủ theo đúng quy định về Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ. Đồng thời, trước khi tiến hành thi công hệ thống dải phân cách giữa trên tuyến, đại diện Chủ đầu tư đã phối hợp cùng với Ban ATGT tỉnh Thừa Thiên Huế, Sở Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế, UBND huyện Phú Lộc rà soát thực tế hiện trường, thống nhất các điểm mở dải phân cách giữa phù hợp với quy trình, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, kết hợp hài hòa với lợi ích kinh tế, chính trị, sinh hoạt của nhân dân của địa phương.
- Đối với đường ngang vào trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Lộc Trì tại Km867+030 (trái tuyến) và Km867+240 (trái tuyến), trong quá trình rà soát hiện trường, để tránh tình trạng xung đột giao thông khi tan trường, Ban ATGT tỉnh Thừa Thiên Huế, Sở Giao thông vận tải Thừa Thiên Huế, UBND huyện Phú Lộc cùng đại diện Chủ đầu tư đã thống nhất không mở dải phân cách giữa tại vị trí trực diện đối với các vị trí đường ngang vào các trường học mà mở về 2 bên tại các vị trí Km866+683 và Km867+272 để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác.
Vì vậy, để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác, Bộ GTVT đề nghị các cấp chính quyền của địa phương tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân tuân thủ Luật Giao thông đường bộ để tránh các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Ban QLDA 4, Tổng cục Đường bộ Việt Nam (đơn vị quản lý trong quá trình khai thác) rà soát thực tế hiện trường để xem xét, điều chỉnh cho phù hợp (nếu có).
188. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Các dự án đầu tư theo hình thức BOT về lĩnh vực giao thông, tuy phát huy hiệu quả, nhưng đặt các trạm thu phí quá dày so với chiều dài tuyến đường, đề nghị xem xét lại để có hình thức thu phí phù hợp hơn. Nếu có điều kiện nên sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước để hạn chế việc thu phí giao thông
Trả lời: (Tại Công văn số 327/BGTVT- ngày 11/1/2017)
Đúng như cử tri nhận định, việc triển khai các dự án đầu tư lĩnh vực GTVT theo hình thức hợp đồng BOT vừa đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giám áp lực nợ công, kích cầu đối với sản xuất trong nước. Chính yếu tố này đã tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc, tai nạn giao thông và trực tiếp làm tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Liên quan đến việc xác định trạm thu phí, theo quy định của Bộ Tài chính tại Thông tư số 90/2004/TT-BTC ngày 07/9/2004 trước đây và Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 thì với quốc lộ, trạm thu phí phải phù hợp với quy hoạch đường gắn với dự án do Bộ trưởng Bộ GTVT quyết định, trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí không thuộc quy hoạch hoặc khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ GTVT thống nhất ý kiến với địa phương và Bộ Tài chính. Như vậy, quy định của pháp luật cho phép đặt trạm có cự ly nhỏ hơn 70km nhưng việc tuyên truyền chưa tốt, một số vị trí trạm thu phí lựa chọn chưa thực sự phù hợp và việc quy định cự ly tối thiểu 70km cũng chưa có đầy đủ cơ sở khoa học.
Trong thời gian vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã tiến hành rà soát, điều chỉnh vị trí, xóa bỏ, giảm phí đường bộ đối với các trạm thu phí trên hệ thống quốc lộ để đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, Nhà đầu tư và Người sử dụng đường. Kết quả rà soát cho thấy, tất cả các trạm thu phí hiện nay đều được Bộ GTVT thực hiện theo đúng quy định của pháp luật: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu phí và thỏa thuận với địa phương; Bộ GTVT lấy ý kiến của các địa phương (có nhiều trạm thu phí nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội) và Bộ Tài chính. Hiện nay, có trên hệ thống quốc lộ có một số trạm có khoảng cách < 70km chủ yếu thu phí cho các cho công trình đặc thù như cầu lớn, hầm đường bộ.
Bên cạnh đó, trên thế giới chỉ có 2 hình thức thu phí là thu phí lượt và thu phí theo chiều dài đường sử dụng. Đối với hình thức thu phí kín, người dân trả phí trên số km thực đi và đảm bảo công bằng nhưng chỉ áp dụng đối với đường cao tốc vì kiểm soát được sự ra - vào của các phương tiện. Đối với các quốc lộ, chỉ áp dụng được hình thức thu phí lượt và hình thức này có hạn chế là chỉ đáp ứng được tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu phí đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả phí trong khi đó những người đi quãng đường dài 40÷50km ở khoảng giữa hai trạm thu phí thì vẫn không phải trả phí).
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hiện nay rất khó khăn, hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP) trong đó hợp đồng BOT có thu phí hoàn vốn là một trong những giải pháp tất yếu đã được xác định tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban chấp hành Trung ương Khóa XI cũng như những Nghị quyết của Chính phủ trong các phiên họp đầu năm gần đây. Việc sử dụng ngân sách nhà nước để đầu tư hoặc trưng mua các dự án đã đầu tư trong giai đoạn hiện nay như ý kiến của cử tri là rất khó khăn, mặc dù trong hợp đồng các dự án có quy định việc này.
Trong thời gian tới, để hạn chế thu phí giao thông trên các tuyến hiện hữu, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ quan điểm định hướng đầu tư theo hình thức PPP, hợp đồng BOT (có thu phí người sử dụng) là: Cần đảm bảo quyền đi lại tối thiểu của người dân và người sử dụng dịch vụ có quyền lựa chọn khi tham gia giao thông; đối với các dự án cải tạo, nâng cấp đường hiện hữu thực sự cấp bách, không thể cân đối được nguồn vốn phải triển khai quy trình tham vấn ý kiến của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Hiệp hội vận tải và chỉ triển khai khi có sự đồng thuận của các bên.
189. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ xem xét bỏ bớt các trạm thu phí cầu đường (nhất là trên tuyến Bắc – Nam) nhằm giảm bớt chi phí cho người dân trong việc đi lại và trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trả lời: (Tại Công văn số 24/BGTVT- ngày 20/1/2017)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã tập trung, nỗ lực thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã và đang triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Hình thức đầu tư BOT hiện là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vì ngoài việc khắc phục sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư công thì đây là hình thức đầu tư có sự giám sát chặt chẽ của nhiều bên (nhà đầu tư, cơ quan nhà nước, ngân hàng và người sử dụng), không làm tăng nợ công trong điều kiện nợ công đang ở mức cao như hiện nay, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của người dân thông qua các tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng. Đây cũng là giải pháp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu các lĩnh vực vận tải, nhằm năng cao năng suất, hạ giá thành vận tải, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Việc huy động thêm được các nguồn lực ngoài ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông dẫn đến năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông đã được cải thiện đáng kể. Sau khi các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định. Việc huy động các nguồn lực trong nước để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là một hướng đi đúng trong việc hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần phát huy nội lực, tăng cường sử dụng sản phẩm, hàng hóa, công nghệ và dịch vụ trong nước để giảm chi phí sản xuất, giảm nhập siêu... có thể nói rằng, việc huy động nguồn lực đầu tư tư nhân là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã mang lại hiệu quả trên mọi phương diện.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh về nội dung kiến nghị và rất mong cử chi cũng như Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ khó khăn chung của đất nước. Đối với các dự án BOT nói chung và các dự án trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, ở bước lập dự án, Bộ GTVT đã được sự đồng thuận về hình thức đầu tư và vị trí trạm với Bộ Tài chính và UBND các tỉnh thành. Về đề nghị thực hiện rà soát, giảm bớt, dịch chuyển trạm thu phí BOT:
- Ngày 31/7/2015, Bộ GTVT đã có văn bản số 10023/BGTVT-TC báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai sắp xếp các trạm thu phí BOT đường bộ trong phạm vi cả nước, trong phương án Bộ đề xuất có 02 trạm thu phí sẽ xóa bỏ, dừng thu (trạm Đèo Ngang, trạm Nam Hải Vân) và 04 trạm sẽ dịch chuyển (trạm Đức Phổ, trạm Bàn Thạch, trạm Ninh An, trạm Bảo Lộc). Đến nay, Bộ GTVT đã thực hiện xóa bỏ, dừng thu phí 03 trạm thu phí (Trạm Nam Hải Vân, trạm thu phí Phả Lại, trạm thu phí Đèo Ngang) và thực hiện dịch chuyển vị trí 04 trạm thu phí (Trạm Đức Phổ, Trạm Bàn Thạch, Trạm Ninh An, Trạm Bảo Lộc) về vị trí mới phù hợp hơn;
- Ngoài ra, ngày 30/7/2016 Bộ GTVT đã có văn bản số 9921/BGTVT-ĐTCT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể các trạm thu phí trên hệ thống quốc lộ và cao tốc đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, đến nay Thủ tướng Chính phủ đang xem xét;
- Triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Bộ GTVT đã chủ động với Bộ Tài chính thống nhất đề xuất với Thủ tướng Chính phủ giảm phí đối với các trạm có thể giảm được. Tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH ngày 02/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất của 02 Bộ và giao Bộ GTVT rà soát các dự án BOT đã ký để đàm phán, thống nhất với nhà đầu tư về việc điều chỉnh mức phí, lộ trình thực hiện đối với từng dự án BOT. Từ khi thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP đến nay Bộ GTVT đã đề xuất và được Bộ Tài chính chấp thuận giảm được 29 trạm thu phí, trong đó riêng tuyến QL1 giảm được 18 trạm (trước khi thu và đã thu) theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH và Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày 04/11/2016 của Chính phủ.
190. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ xem xét lại Nghị định 46/2016/NĐ-CP về việc vi phạm giao thông trong lĩnh vực đường bộ và đường sắt (có hiệu lực từ ngày 01/8/2016), cụ thể là quy định về mức phạt lỗi vượt đèn vàng cũng xử phạt giống như lỗi vượt đèn đỏ. Hiện nay, dư luận chưa đồng tình vì trong trường hợp xe vừa lưu thông đến vạch dừng, đèn tín hiệu mới chuyển sang đèn vàng thì không thể dừng xe kịp. Đề xuất Nghị định cần quy định rõ chỉ trong trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đã nhìn thấy đèn vàng từ xa, hoặc biết sắp chuyển sang đèn vàng (đối với đèn tín hiệu có lắp hệ thống đếm ngược thời gian) mà vẫn cố tình vượt thì mới xử phạt giống như lỗi vượt đèn đỏ
Trả lời: (Tại Công văn số 15830/BGTVT- ngày 30/12/2017)
1. Quy trình xây dựng Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 được Bộ Giao thông vận tải thực hiện theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP (tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt), rà soát các quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, đối chiếu với các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và Luật Đường sắt năm 2005 để xây dựng Dự thảo Nghị định mới; các nội dung dự thảo được đưa ra để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của người dân và các Bộ, ngành, địa phương; tổ chức hội thảo lấy ý kiến ở cả ba miền rồi mới tổng hợp để có đề xuất phù hợp nhất, trình lên Chính phủ.
2. Về căn cứ để quy định xử phạt đối với hành vi “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”:
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật GTĐB quy định: “Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ” (bao gồm cả tín hiệu đèn giao thông); đồng thời, tại Khoản 3 Điều 10 Luật GTĐB quy định: “Tín hiệu xanh là được đi; tín hiệu đỏ là cấm đi; tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ qua đường”;
Ngoài ra, tại Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT của Bộ GTVT quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ, tại Điều 5 đã quy định cụ thể về các trường hợp phải giảm tốc độ: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp: qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt...”.
Triển khai Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trước đây (như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP), đối với nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì đều quy định xử phạt chung một hành vi vi phạm là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”;
Đến Nghị định số 171/2013/NĐ-CP đã tách thành hai hành vi với mức phạt khác nhau là: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” với mức phạt thấp và hành vi “Khi tín hiệu đèn giao thông đã chuyển sang màu đỏ nhưng không dừng lại trước vạch dừng mà vẫn tiếp tục đi, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng trước khi tín hiệu đèn giao thông chuyển sang màu vàng” với mức phạt cao hơn.
Trong quá trình tổng kết thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP để xây dựng Nghị định mới đã có nhiều ý kiến cho rằng việc tách nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thành hai hành vi vi phạm với hai mức phạt khác nhau như tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP dẫn đến tình trạng:
- Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông ở chiều đường có đèn xanh đang sáng thường có xu hướng tăng tốc độ khi đi đến gần nút giao có lắp đèn tín hiệu giao thông (thay cho việc phải giảm tốc độ), vì cho rằng nếu có đèn đỏ thì sẽ phanh xe lại để chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (là vi phạm tín hiệu đèn vàng). Tuy nhiên, khi người đi phía trước tăng tốc độ thì kéo theo những người đi phía sau cũng tăng tốc độ (theo cảm tính về khoảng cách với xe chạy phía trước) và khi người đi phía trước chủ động phanh xe lại thì những người đi phía sau sẽ không phanh xe kịp, dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm cục bộ giữa các xe tại nút giao;
- Một số người tham gia giao thông đang dừng xe ở trước vạch dừng tại nút giao của chiều đường có đèn đỏ đang sáng cũng thường có xu hướng vội vàng điều khiển xe nhập vào trong nút giao ngay khi đèn đỏ vừa tắt và đèn vàng vẫn còn bật sáng, vì cũng cho rằng chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (mức vi phạm tín hiệu đèn vàng). Dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm, tai nạn giao thông và cản trở đối với các xe (của chiều đường có đèn xanh vừa mới tắt) đã nhập vào nút giao đang khẩn trương thoát ra khỏi nút giao, làm ách tắc giao thông tại nút giao;
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT, tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP đã gộp hai hành vi này lại thành một hành vi là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” như quy định tại các Nghị định trước đây (trước Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).
3. Ngoài ra, để tránh trường hợp người điều khiển phương tiện phải dừng đột ngột tại vạch dừng xe ở nút giao khi đèn tín hiệu vàng bật sáng, hiện nay, tại điểm 10.3.2 Điều 10 của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ năm 2016 (QCVN41:2016/BGTVT) có quy định “khi tín hiệu vàng bật sáng, trường hợp phương tiện đã tiến sát đến hoặc đã vượt quá vạch sơn (vạch dừng xe), nếu dừng lại sẽ nguy hiểm thì phải nhanh chóng đi tiếp ra khỏi nơi giao nhau”. Việc bổ sung quy định này vừa bảo đảm tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, vừa đáp ứng yêu cầu theo thông lệ quốc tế và khả thi trong thực tiễn.
191. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh, theo quy định tại khoản 15, Điều 1, Thông tư 38/2013/TT- BGTVT (Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT quy định về đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ của Bộ Giao thông vận tải có hiệu lực từ ngày 01/3/2014), theo đó giấy phép lái xe bằng giấy phải được chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET theo lộ trình và nếu hết thời hạn mà không đổi giấy phép thì phải thi sát hạch kể cả đối với giấy phép lái xe không thời hạn như vậy là không hợp lý. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành chức năng đưa ra những căn cứ thuyết phục để người dân đồng thuận thực hiện.
Trả lời: (Tại Công văn số 35/BGTVT- ngày 25/12/2016)
Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ có chất liệu bằng giấy đã được các cơ quan có thẩm quyền phát hành và cấp cho người dân sử dụng từ nhiều năm nay. Quá trình sử dụng giấy phép lái xe bằng giấy đã bộc lộ nhiều bất cập như: lạc hậu, mức độ bảo mật không cao, dễ bị làm giả; dễ bị tẩy xóa, sửa đổi, dễ bị hư hỏng trong quá trình sử dụng; kích thước không phù hợp; không thuận tiện cho công tác quản lý, xử lý khi người lái xe vi phạm...vv.
Ngày 20/8/2015, Việt Nam là thành viên Công ước Viên 1968 về giao thông đường bộ, đây là bước chuyển đổi quan trọng trong quá trình hội nhập về giao thông đường bộ của Việt Nam. Để tuân thủ các quy định của Công ước cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý, Bộ Giao thông vận tải đã quy định lộ trình chuyển đổi giấy phép lái xe sang Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET. (Tại Thông tư 38/2013/TT-BGTVT, Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT). Đây là lần đầu tiên thẻ nhựa PET., loại nhựa cao cấp (Polyethylene terephthalate) với độ bền cơ học cao, có khả năng chịu đựng lực xé và lực va chạm, chịu đựng sự mài mòn cao được áp dụng cho giải pháp nhận diện bảo mật cấp quốc gia trong quá trình quản lý cấp, đổi giấy phép lái xe. Việc chuyển đổi giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET. được nhiều người dân tích cực hưởng ứng bởi nó mang đến cho cả người cấp thẻ lẫn người sử dụng nhiều lợi ích thiết thực, như:
- Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET. có độ bền cao hơn, không thấm nước, kích thước nhỏ gọn hơn trước và phù hợp tiêu chuẩn quốc tế; tính an toàn, tính bảo mật cao.
- Trên giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET., thông tin được in bằng tiếng Việt và tiếng Anh tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam có nhu cầu lái xe, cấp giấy phép lái xe quốc tế khi cư trú, công tác, học tập và du lịch tại những nước tham gia Công ước Viên. Đây cũng là một trong các yếu tố để các quốc gia tham gia Công ước Viên công nhận giá trị hiệu lực của giấy phép quốc gia và giấy phép quốc tế do Việt Nam cấp.
- Đồng bộ về vật liệu, kích thước, chất lượng và bảo mật như các nước trong khu vực và trên thế giới, hiện đang được 85 nước thành viên Công ước Viên công nhận và cho phép sử dụng cùng với giấy phép lái xe quốc tế.
- Khi chuyển đổi đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET., các thông tin về người lái xe trong suốt quá trình từ đào tạo, sát hạch, các vi phạm khi hành nghề hoặc khi tham gia giao thông… đều được tích hợp trên cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép lái xe quốc gia, tạo thành một hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ đảm bảo việc truy cập, tra cứu nhanh chóng, tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu, giúp tăng cường và hiện đại hóa công tác quản lý, hạn chế tối đa việc làm giả GPLX, giảm bớt thủ tục, thời gian xác minh, cấp, đổi giấy phép lái xe.
- Việc chuyển đổi giấy phép lái xe từ vật liệu giấy sang vật liệu PET. là quá trình tất yếu của xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đảm bảo tính đồng bộ, hiện đại trong quá trình quản lý các hoạt động có liên quan đến việc đào tạo, cấp giấy phép lái xe.
Tuy nhiên, thực hiện chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2016 của Bộ Giao thông vận tải và Nghị định số 65/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đào tạo lái xe ô tô và dịch vụ sát hạch lái xe, Bộ Giao thông vận tải đang tiến hành xây dựng dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT. Với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết, trong dự thảo Thông tư này, Bộ Giao thông vận tải đã quy định việc chuyển đổi giấy phép lái xe sang vật liệu PET. theo hướng: đối với giấy phép lái xe không thời hạn, việc chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET. được thực hiện đến ngày 31/12/2020 mà không yêu cầu thi lại lý thuyết; đối với giấy phép lái xe có thời hạn, người sử dụng sẽ chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET. khi hết thời hạn ghi trên giấy phép.
192. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng, Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt còn bất cập, như: xử phạt vi phạm hành chính cùng mức đối với hành vi vượt đèn vàng và hành vi vượt đèn đỏ của người tham gia giao thông. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chức năng sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những bất cập nêu trên.
Trả lời: (Tại Công văn số 15838/BGTVT- ngày 30/12/2016)
1. Quy trình xây dựng Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 được Bộ Giao thông vận tải thực hiện theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP (tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt), rà soát các quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, đối chiếu với các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và Luật Đường sắt năm 2005 để xây dựng Dự thảo Nghị định mới; các nội dung dự thảo được đưa ra để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của người dân và các Bộ, ngành, địa phương; tổ chức hội thảo lấy ý kiến ở cả ba miền rồi mới tổng hợp để có đề xuất phù hợp nhất, trình lên Chính phủ.
2. Về căn cứ để quy định xử phạt đối với hành vi “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”:
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật GTĐB quy định: “Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ” (bao gồm cả tín hiệu đèn giao thông); đồng thời, tại Khoản 3 Điều 10 Luật GTĐB quy định: “Tín hiệu xanh là được đi; tín hiệu đỏ là cấm đi; tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ qua đường”;
Ngoài ra, tại Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT của Bộ GTVT quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ, tại Điều 5 đã quy định cụ thể về các trường hợp phải giảm tốc độ: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp: qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt...”.
Triển khai Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trước đây (như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP), đối với nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì đều quy định xử phạt chung một hành vi vi phạm là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”;
Đến Nghị định số 171/2013/NĐ-CP đã tách thành hai hành vi với mức phạt khác nhau là: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” với mức phạt thấp và hành vi “Khi tín hiệu đèn giao thông đã chuyển sang màu đỏ nhưng không dừng lại trước vạch dừng mà vẫn tiếp tục đi, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng trước khi tín hiệu đèn giao thông chuyển sang màu vàng” với mức phạt cao hơn.
Trong quá trình tổng kết thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP để xây dựng Nghị định mới đã có nhiều ý kiến cho rằng việc tách nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thành hai hành vi vi phạm với hai mức phạt khác nhau như tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP dẫn đến tình trạng:
- Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông ở chiều đường có đèn xanh đang sáng thường có xu hướng tăng tốc độ khi đi đến gần nút giao có lắp đèn tín hiệu giao thông (thay cho việc phải giảm tốc độ), vì cho rằng nếu có đèn đỏ thì sẽ phanh xe lại để chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (là vi phạm tín hiệu đèn vàng). Tuy nhiên, khi người đi phía trước tăng tốc độ thì kéo theo những người đi phía sau cũng tăng tốc độ (theo cảm tính về khoảng cách với xe chạy phía trước) và khi người đi phía trước chủ động phanh xe lại thì những người đi phía sau sẽ không phanh xe kịp, dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm cục bộ giữa các xe tại nút giao;
- Một số người tham gia giao thông đang dừng xe ở trước vạch dừng tại nút giao của chiều đường có đèn đỏ đang sáng cũng thường có xu hướng vội vàng điều khiển xe nhập vào trong nút giao ngay khi đèn đỏ vừa tắt và đèn vàng vẫn còn bật sáng, vì cũng cho rằng chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (mức vi phạm tín hiệu đèn vàng). Dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm, tai nạn giao thông và cản trở đối với các xe (của chiều đường có đèn xanh vừa mới tắt) đã nhập vào nút giao đang khẩn trương thoát ra khỏi nút giao, làm ách tắc giao thông tại nút giao;
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT, tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP đã gộp hai hành vi này lại thành một hành vi là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” như quy định tại các Nghị định trước đây (trước Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).
3. Ngoài ra, để tránh trường hợp người điều khiển phương tiện phải dừng đột ngột tại vạch dừng xe ở nút giao khi đèn tín hiệu vàng bật sáng, hiện nay, tại điểm 10.3.2 Điều 10 Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ năm 2016 (QCVN41:2016/BGTVT) có quy định “khi tín hiệu vàng bật sáng, trường hợp phương tiện đã tiến sát đến hoặc đã vượt quá vạch sơn (vạch dừng xe), nếu dừng lại sẽ nguy hiểm thì phải nhanh chóng đi tiếp ra khỏi nơi giao nhau”. Việc bổ sung quy định này vừa bảo đảm tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, vừa đáp ứng yêu cầu theo thông lệ quốc tế và khả thi trong thực tiễn.
193. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Đề nghị tăng cường thanh tra các trạm thu phí BOT đang trong giai đoạn kinh doanh, khai thác đồng thời quy định thời hạn thu phí phù hợp để tránh việc lạm thu tiền của dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 15480/BGTVT- ngày 30/12/2017)
1. Quy trình xây dựng Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 được Bộ Giao thông vận tải thực hiện theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP (tổng hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt), rà soát các quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, đối chiếu với các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và Luật Đường sắt năm 2005 để xây dựng Dự thảo Nghị định mới; các nội dung dự thảo được đưa ra để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của người dân và các Bộ, ngành, địa phương; tổ chức hội thảo lấy ý kiến ở cả ba miền rồi mới tổng hợp để có đề xuất phù hợp nhất, trình lên Chính phủ.
2. Về căn cứ để quy định xử phạt đối với hành vi “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”:
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật GTĐB quy định: “Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ” (bao gồm cả tín hiệu đèn giao thông); đồng thời, tại Khoản 3 Điều 10 Luật GTĐB quy định: “Tín hiệu xanh là được đi; tín hiệu đỏ là cấm đi; tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp; trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ qua đường”;
Ngoài ra, tại Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT của Bộ GTVT quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ, tại Điều 5 đã quy định cụ thể về các trường hợp phải giảm tốc độ: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp: qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt...”.
Triển khai Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trước đây (như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP), đối với nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì đều quy định xử phạt chung một hành vi vi phạm là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông”;
Đến Nghị định số 171/2013/NĐ-CP đã tách thành hai hành vi với mức phạt khác nhau là: “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” với mức phạt thấp và hành vi “Khi tín hiệu đèn giao thông đã chuyển sang màu đỏ nhưng không dừng lại trước vạch dừng mà vẫn tiếp tục đi, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng trước khi tín hiệu đèn giao thông chuyển sang màu vàng” với mức phạt cao hơn.
Trong quá trình tổng kết thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP để xây dựng Nghị định mới đã có nhiều ý kiến cho rằng việc tách nội dung quy định về chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thành hai hành vi vi phạm với hai mức phạt khác nhau như tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP dẫn đến tình trạng:
- Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông ở chiều đường có đèn xanh đang sáng thường có xu hướng tăng tốc độ khi đi đến gần nút giao có lắp đèn tín hiệu giao thông (thay cho việc phải giảm tốc độ), vì cho rằng nếu có đèn đỏ thì sẽ phanh xe lại để chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (là vi phạm tín hiệu đèn vàng). Tuy nhiên, khi người đi phía trước tăng tốc độ thì kéo theo những người đi phía sau cũng tăng tốc độ (theo cảm tính về khoảng cách với xe chạy phía trước) và khi người đi phía trước chủ động phanh xe lại thì những người đi phía sau sẽ không phanh xe kịp, dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm cục bộ giữa các xe tại nút giao;
- Một số người tham gia giao thông đang dừng xe ở trước vạch dừng tại nút giao của chiều đường có đèn đỏ đang sáng cũng thường có xu hướng vội vàng điều khiển xe nhập vào trong nút giao ngay khi đèn đỏ vừa tắt và đèn vàng vẫn còn bật sáng, vì cũng cho rằng chỉ bị xử phạt ở mức thấp hơn (mức vi phạm tín hiệu đèn vàng). Dẫn đến hậu quả xảy ra va chạm, tai nạn giao thông và cản trở đối với các xe (của chiều đường có đèn xanh vừa mới tắt) đã nhập vào nút giao đang khẩn trương thoát ra khỏi nút giao, làm ách tắc giao thông tại nút giao;
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT, tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP đã gộp hai hành vi này lại thành một hành vi là “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” như quy định tại các Nghị định trước đây (trước Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).
3. Ngoài ra, để tránh trường hợp người điều khiển phương tiện phải dừng đột ngột tại vạch dừng xe ở nút giao khi đèn tín hiệu vàng bật sáng, hiện nay, tại điểm 10.3.2 Điều 10 Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về báo hiệu đường bộ năm 2016 (QCVN41:2016/BGTVT) có quy định “khi tín hiệu vàng bật sáng, trường hợp phương tiện đã tiến sát đến hoặc đã vượt quá vạch sơn (vạch dừng xe), nếu dừng lại sẽ nguy hiểm thì phải nhanh chóng đi tiếp ra khỏi nơi giao nhau”. Việc bổ sung quy định này vừa bảo đảm tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, vừa đáp ứng yêu cầu theo thông lệ quốc tế và khả thi trong thực tiễn.
194. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Cử tri cho rằng, trong thời gian qua Chính phủ đầu tư xây dựng nhiều công trình hạ tầng giao thông ở phía Bắc và phía Nam, còn ở miền Trung và Tây Nguyên rất ít đầu tư, hoặc là đầu tư BOT (như quốc lộ 14 trên địa bàn Gia Lai đầu tư hơn 60 Km có 02 trạm thu phí; quốc lộ 19 chỉ đầu tư BOT khoảng 22 Km có 01 trạm thu phí). Đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư ngân sách thích đáng để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông cho miền Trung và Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Trả lời: (Tại Công văn số 15760/BGTVT-KHĐT ngày 30/12/2016.
Về đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư ngân sách để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông cho miền Trung và Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn 2010-2015, được sự quan tâm của Nhà nước, Chính phủ, kết cấu hạ tầng giao thông vùng Tây Nguyên đã được đầu tư với tổng số vốn bố trí và huy động khoảng 60.682 tỷ đồng (vốn Trung ương 45.347 tỷ đồng, vốn địa phương 15.335 tỷ đồng), cao hơn nhiều so với giai đoạn 2006 – 2010. Nhiều công trình giao thông trọng yếu được hoàn thành làm thay đổi bộ mặt của Vùng như đường Hồ Chí Minh, QL19, QL20, QL28...; các cảng hàng không: Buôn Ma Thuột, Liên Khương và Pleiku.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương trong Vùng làm việc với các bộ, ngành và báo cáo Thủ tướng Chính phủ: tiếp tục ưu tiên bố trí vốn NSNN, vốn TPCP... cho Vùng; Kêu gọi nguồn vốn ODA đối với các tuyến quốc lộ đối ngoại, các tuyến đường thuộc nhóm kết cấu hạ tầng tiểu vùng sông Mê Kông, tam giác phát triển ba nước Đông Dương; Có chính sách ưu đãi trong kêu gọi đầu tư ngoài ngân sách; Ưu tiên nguồn vốn quốc phòng - an ninh để tiếp tục đầu tư cho các công trình giao thông trong vùng, đặc biệt là các công trình đảm bảo an ninh quốc phòng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Vùng.
Bộ GTVT đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai chuyển các ý kiến nêu trên đến cử tri được rõ. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Gia Lai để giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực GTVT trên địa bàn./.
195. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tăng cường chỉ đạo công tác quản lý, phân bổ quỹ bảo trì đường bộ công khai, minh bạch nhằm bảo đảm sửa chữa kịp thời hư hỏng các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh Gia lai.
Trả lời: (Tại Công văn số 11/BGTVT- ngày 16/1/2017)
- Đối với công tác quản lý, phân bổ nguồn Quỹ bảo trì đường bộ (Quỹ BTĐB)
a) Về công tác điều hành quản lý Quỹ:
- Quỹ BTĐB được thành lập theo quy định tại Điều 49- Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Nguồn tài chính để quản lý, bảo trì hệ thống quốc lộ và đường địa phương được bảo đảm từ Quỹ BTĐB gồm 2 phần: phần do Ngân sách Nhà nước phân bổ hàng năm và phần từ các nguồn thu liên quan đến sử dụng đường bộ và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Triển khai Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 về Quỹ bảo trì đường bộ với mục tiêu tạo nguồn lực bảo trì đường bộ, cơ bản giải quyết tình trạng thiếu vốn bảo trì đường bộ từ nhiều năm nay, tạo nguồn thu hợp pháp, ổn định, lâu dài.
Thành viên Hội đồng quản lý Quỹ BTĐB Trung ương (Hội đồng Quỹ TW), gồm có: Bộ trưởng Bộ GTVT là Chủ tịch Quỹ; Phó chủ tịch HĐ Quỹ là các đồng chí: Thứ trưởng Bộ Tài chính, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thứ trưởng Bộ GTVT, Tổng Cục trưởng Tổng cục ĐBVN và các đồng chí Ủy viên Hội đồng thuộc các cơ quan tham mưu của Bộ GTVT, Bộ Tài chính, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam và Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia.
Định kỳ hàng Quý, Hội đồng quản lý Quỹ TW tổ chức họp để xem xét những vấn đề, nội dung đã thực hiện và phương hướng, nhiệm vụ triển khai công tác Quý tiếp theo. Nội dung và kết luận cuộc họp được thể hiện bằng Nghị quyết của Hội đồng để các Ủy viên, cơ quan, đơn vị liên quan triển khai thực hiện. Đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế, Hội đồng Quỹ TW tổ chức một số phiên họp đột xuất hoặc Bộ trưởng – Chủ tịch Quỹ trực tiếp chỉ đạo các cơ quan tham mưu của Quỹ BTĐB TW và Bộ GTVT phối hợp thực hiện công liên quan, đảm bảo Quỹ TW hoạt động hiệu quả, đúng mục đích, trọng tâm. Mọi quyết định của Qũy đều thông qua Hội đồng trên nguyên tắc tỷ lệ số phiếu đồng thuận đã quy định.
- Đảm bảo công khai, minh bạch, phù hợp với quy định của pháp luật. Nguồn kinh phí từ Quỹ TW phải được quản lý, sử dụng đúng nội dung, mục đích, yêu cầu và hiệu quả trong công tác bảo trì đường bộ. Quỹ chịu sự kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan Nhà nước theo quy định; hàng năm việc lập kế hoạch, phân bổ, giao kế hoạch và quản lý, thanh toán, quyết toán thu - chi Quỹ thực hiện theo quy định hiện hành; Hàng năm Quỹ Bảo trì đường bộ thực hiện công khai tình hình quản lý, sử dụng Quỹ và báo cáo tình hình thực hiện công khai tài chính theo quy định tại Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế công khai tài chính đối với các cấp ngân sách nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính.
b) Về nguyên tắc phân bổ nguồn thu của Quỹ TW
- Việc phân chia nguồn thu phí sử dụng đường bộ từ xe ô tô cho Quỹ TW và Quỹ BTĐB địa phương (sau đây gọi chung là Quỹ ĐP) được thực hiện trên cơ sở quy định tại Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của Chính phủ về Quỹ bảo trì đường bộ, Thông tư Liên tịch số 230/2012/TTLT-BTC-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải và Bộ Tài chính về Hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán Quỹ bảo trì đường bộ (không bao gồm nguồn kinh phí chưa phân bổ), cụ thể như sau:
+ Đối với nguồn 65% phí sử dụng đường bộ thu từ xe ô tô dành cho công tác bảo trì hệ thống quốc lộ: Văn phòng Quỹ TW thẩm định trình Hội đồng Quỹ TW phê duyệt kế hoạch chi Quỹ TW hàng năm trên cơ sở kế hoạch chi do Tổng cục Đường bộ Việt Nam lập và các nội dung chi khác theo mục đích sử dụng Quỹ và chỉ đạo của Hội đồng Quỹ TW.
+ Đối với nguồn 35% phí sử dụng đường bộ thu từ xe ô tô phân bổ về các Quỹ Địa phương theo phương án phân bổ trên cơ sở các tiêu chí sau:
* Tổng số chiều dài đường bộ do mỗi địa phương quản lý;
* Tổng số xe đăng ký tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tính đổi ra xe tiêu chuẩn (theo phương pháp tính đổi được quy định tại Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4054:2005 - Đường ô tô: Yêu cầu thiết kế);
* Hệ số khó khăn về nguồn thu của các địa phương (do Bộ Tài chính xác định).
Hàng năm, căn cứ số liệu tổng hợp do Sở GTVT các tỉnh báo cáo, Văn phòng Quỹ trình Hội đồng Quỹ TW xem xét, quyết định mức kinh phí tối thiểu của một Quỹ ĐP sẽ được Quỹ TW phân bổ (được xác định bởi: Tổng số chiều dài đường bộ (của địa phương có số kilômét đường bộ ít nhất) x Đơn giá bảo trì (tính bình quân cho 01 km/năm) để làm cơ sở điều hòa việc phân bổ nguồn kinh phí giữa các Quỹ ĐP.
Nhìn chung qua gần 5 năm hoạt động, Hội đồng quản lý Quỹ TW đã tổ chức tốt các hoạt động điều hành và xử lý công việc của Quỹ BTĐB đạt kết quả tốt. Các thành viên Hội đồng Quỹ TW phát huy tích cực vai trò đại diện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tham gia các hoạt động điều hành, quản lý Quỹ.
2. Về công tác bố trí vốn sửa chữa các quốc lộ và tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
- Đối với quốc lộ: Qua địa bàn tỉnh Gia Lai hiện nay có 04 tuyến quốc lộ (QL14, QL.14C QL.25, đường Trường Sơn Đông), trong đó: Cục Quản lý đường bộ III (thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam) trực tiếp quản lý 2 tuyến (QL14 và đường Trường Sơn Đông). Ủy thác cho Sở Giao thông vận tải tỉnh Gia Lai quản lý, bảo trì 02 tuyến còn lại (QL.14C và QL.25). Nguồn vốn 65% để bảo trì quốc lộ được ủy thác cho Sở GTVT Gia Lai như sau: Năm 2013: 20,342 tỷ đồng, năm 2014 là 29,244 tỷ đồng; năm 2015 là 31,392 tỷ đồng, năm 2016 là 76,325 tỷ đồng; năm 2017 là 129,304 tỷ đồng.
- Đối với nguồn vốn 35% Quỹ TW phân bổ về Quỹ BTĐB tỉnh Gia Lai từ năm 2013-:-2016 là 137,501 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
- Năm 2013: 22,315 tỷ đồng.
- Năm 2014: 24,931tỷ đồng.
- Năm 2015: 39,667 tỷ đồng.
- Năm 2016: 50,588 tỷ đồng.
Như vậy, trong các năm gần đây Quỹ BTĐB Trung ương, Bộ Giao thông vận tải đã luôn quan tâm, ưu tiên dành nguồn vốn dành cho công tác bảo trì đường bộ tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng, nguồn vốn bảo trì đường bộ liên tục tăng thêm, năm sau cao hơn năm trước. Với nguồn vốn được phân bổ từ Quỹ TW như trên, các tuyến quốc lộ và nhiều tuyến đường địa phương trên địa bàn tỉnh đã được đầu tư sửa chữa, tuy nhiên do nguồn vốn còn hạn chế nên một số tuyến hoặc đoạn tuyến chưa đảm bảo sữa chữa triệt để, dứt điểm, nhưng đã cơ bản bảo đảm giữ vững được chất lượng công trình và bảo đảm an toàn giao thông so với giai đoạn trước.
Trong điều kiện nguồn vốn từ Quỹ TW còn hạn hẹp trong khi nhu cầu vốn bảo trì đường bộ của địa phương là rất lớn, Quỹ BTĐB Trung ương và Bộ GTVT sẽ tiếp tục xem xét, có ý kiến chỉ đạo các cơ quan thuộc Bộ GTVT quan tâm đề nghị nêu trên của cử tri tỉnh Gia Lai, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai cân đối bố trí bổ sung kinh phí từ ngân sách hằng năm của tỉnh để sửa chữa các tuyến đường địa phương, bảo đảm ATGT cho người và phương tiện tham gia giao thông trên các tuyến đường bộ địa bàn tỉnh Gia Lai.
196. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Quốc lộ 14 (đường Hồ Chí Minh) đoạn qua huyện Chư Păh đã có tình trạng hư hỏng mặt đường. Đề nghị Bộ chỉ đạo kiểm tra để duy tu, sửa chữa kịp thời những đoạn hư hỏng nhằm tránh hư hỏng nặng hơn
Trả lời: (Tại Công văn số 128/BGTVT- ngày 5/1/2017)
- Đoạn tuyến cử tri phản ánh, nằm rải rác khoảng 1,0km (từ Km515+676 đến Km516+780) thuộc gói thầu số 6 dự án thành phần Kon Tum - Pleiku. Đoạn tuyến đã hoàn thành và đưa vào khai thác từ tháng 6/2013, năm 2014 xuất hiện vết nứt bê tông nhựa lớp trên, không liên tục dọc hai bên, vị trí vết nứt trùng với vị trí giáp nối của vệt máy rải (cách mép lề đường từ 2,5 đến 3m).
- Ngay sau khi phát hiện những hư hỏng nêu trên, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh cùng các bên có liên quan đã kiểm tra thực tế hiện trường, xác định nguyên nhân hư hỏng và chỉ đạo Tư vấn, Nhà thầu thi công khắc phục ngay đảm bảo tuyệt đối an toàn trong quá trình khai thác. Tuy nhiên, còn một số vị trí chưa được khắc phục triệt để nên thời gian gần đây xuất hiện hư hỏng. Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ đạo Nhà thầu thi công thực hiện sửa chữa triệt để theo phương án cắt bỏ phần bê tông nhựa lớp trên bị hư hỏng và thảm lại, toàn bộ kinh phí sửa chữa do Nhà thầu thi công chi trả vì dự án đang trong thời gian bảo hành công trình.
- Để giải quyết dứt điểm việc hư hỏng mặt đường như phản ảnh của cử tri, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng Cục Đường bộ Việt Nam, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh, Tư vấn, Nhà thầu thi công và các đơn vị có liên quan kiểm tra thực tế hiện trường, xác định rõ tình trạng, nguyên nhân hư hỏng đề xuất giải pháp xử lý phù hợp đảm bảo kinh tế - kỹ thuật ổn định công trình lâu dài; đồng thời lập kế hoạch sửa chữa kịp thời nhằm đảm bảo an toàn giao thông và bền vững công trình.
197. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Nhiều cử tri bức xúc phản ánh, quốc lộ 19 đoạn qua xã Đăk Ta Ley, huyện Mang Yang chỉ nâng cấp 6 km (thuộc địa bàn xã Đăk Ta Ley) mà đặt trạm thu phí BOT, gây khó cho nhân dân đi lại, nhất là đối với những hộ gần trạm thu phí, khi đi lại quãng đường gần (như từ nhà đến UBND xã) phải đóng phí. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải có ý kiến với Công ty 36 Bộ Quốc phòng (đơn vị làm BOT) thực hiện việc miễn, giảm phí phương tiện đi lại và sản xuất đối với số hộ dân sống gần trạm thu phí.
Trả lời: (Tại Công văn số 1026/BGTVT-ĐTCT ngày 25/1/2017
Trong quá trình lập dự án, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu kỹ việc đặt trạm thu phí QL19 trên địa phận tỉnh Gia Lai tại Km124+720 QL19 để hoàn vốn cho Dự án và đã nhận được sự thống nhất của UBND tỉnh Gia Lai tại văn bản số 4486/UBND-CNXD ngày 14/11/2014 và Bộ Tài chính tại văn bản số 1009/BTC-HCSN ngày 22/01/2015.
Theo phản ánh của cử tri QL19 đoạn qua xã Đăk Ta Ley, huyện Mang Yang (Km109+160 - Km111+900) chỉ nâng cấp 6km. Tuy nhiên, như đã trả lời ở trên, trên cơ sở đề nghị của địa phương, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư tại Quyết định số 4256/QĐ-BGTVT ngày 30/12/2016, theo đó đã bổ sung đầu tư xây dựng đoạn tuyến từ Km90+000 - Km108 QL19 thuộc huyện Đak Pơ vào dự án. Do vậy, phạm vi đầu tư nâng cấp đoạn qua xã Đăk Ta Ley, huyện Mang Yang là khoảng 21km. Việc các phương tiện tham gia giao thông qua trạm thu phí phải trả phí theo quy định của Bộ Tài chính ban hành mức thu phí để hoàn vốn cho dự án tại Thông tư số 146/2015/TT-BTC ngày 15/9/2015 và Thông tư số 136/2016/TT-BTC ngày 15/9/2016 (đã giảm mức thu phí đường bộ của loại 4 từ 140.000đ xuống 120.000 đ/xe và loại 5 từ 200.000đ xuống 180.000đ/xe).
Bộ Giao thông vận tải đề nghị Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyển ý kiến trên đến cử tri và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
198. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri bày tỏ sự nhất trí cao với việc tăng nặng mức xử phạt đối với người tham gia giao thông khi có nồng độ cồn rất hiệu quả vì đã làm giảm tai nạn giao thông và nâng cao được ý thức trách nhiệm của người dân một cách tích cực. Bên cạnh đó, cử tri cũng đề xuất phải có qui định riêng và mức độ xử phạt riêng đối với xe container vì hiện nay loại xe này gây tai nạn rất nhiều
Trả lời: (Tại Công văn số 95/BGTVT- ngày 5/1/2017)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016, Nghị định có hiệu lực thi hành vào ngày 01/08/2016); trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất tăng nặng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông; đặc biệt, đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn đã được quy định theo 03 khung xử phạt tương ứng với 03 mức độ vi phạm, cụ thể:
- Mức 1: phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng (tại điểm a khoản 6 Điều 5);
- Mức 2: phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng (tại điểm b khoản 8 Điều 5);
- Mức 3: phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 04 tháng đến 06 tháng (tại điểm a khoản 9 Điều 5).
Đối với những trường hợp lái xe (bao gồm cả lái xe container) vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông, tùy theo mức độ gây thiệt hại, sẽ bị chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015. Việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đã được quy định cụ thể tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Các hình phạt đối với hành vi vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông gây tai nạn chết người quy định tại Bộ Luật hình sự cơ bản đã tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và phù hợp với thực tiễn.
Bộ Giao thông vận tải xin ghi nhận nội dung kiến nghị của cử tri và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan theo dõi, đánh giá về vấn đề này để có căn cứ đề xuất cụ thể khi tiến hành sửa đổi Nghị định lần sau.
199. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri yêu cầu các ngành chức năng phải giám sát chặt chẽ việc thu phí ở các dự án BOT xây dựng đường giao thông, đồng thời phải công khai, minh bạch doanh thu từ việc thu phí để từ đó có căn cứ tính mức thu phí, thời gian thu phí hợp lý nhằm giảm gánh nặng thuế, phí cho người dân
Trả lời: (Tại Công văn số 15692/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016, Nghị định có hiệu lực thi hành vào ngày 01/08/2016); trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất tăng nặng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông; đặc biệt, đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn đã được quy định theo 03 khung xử phạt tương ứng với 03 mức độ vi phạm, cụ thể:
- Mức 1: phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng (tại điểm a khoản 6 Điều 5);
- Mức 2: phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng (tại điểm b khoản 8 Điều 5);
- Mức 3: phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 04 tháng đến 06 tháng (tại điểm a khoản 9 Điều 5).
Đối với những trường hợp lái xe (bao gồm cả lái xe container) vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông, tùy theo mức độ gây thiệt hại, sẽ bị chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015. Việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đã được quy định cụ thể tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Các hình phạt đối với hành vi vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông gây tai nạn chết người quy định tại Bộ Luật hình sự cơ bản đã tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và phù hợp với thực tiễn.
Bộ Giao thông vận tải xin ghi nhận nội dung kiến nghị của cử tri và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan theo dõi, đánh giá về vấn đề này để có căn cứ đề xuất cụ thể khi tiến hành sửa đổi Nghị định lần sau.
200. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Việc thi công mở rộng quốc lộ 1A đi qua địa bàn xã Cam An, Cam Thanh của huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị khiến nhà ở của một số hộ dân gần vùng thi công bị lún, nứt rạn. Cử tri đã kiến nghị nhiều lần nhưng chậm được giải quyết. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm có phương án khắc phục, đền bù đảm bảo sự công bằng và an toàn cho các hộ dân nói trên
Trả lời: (Tại Công văn số 1011/BGTVT-CQLXD ngày 25/1/2017)
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016, Nghị định có hiệu lực thi hành vào ngày 01/08/2016); trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất tăng nặng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông; đặc biệt, đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn đã được quy định theo 03 khung xử phạt tương ứng với 03 mức độ vi phạm, cụ thể:
- Mức 1: phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng (tại điểm a khoản 6 Điều 5);
- Mức 2: phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 03 tháng đến 05 tháng (tại điểm b khoản 8 Điều 5);
- Mức 3: phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 04 tháng đến 06 tháng (tại điểm a khoản 9 Điều 5).
Đối với những trường hợp lái xe (bao gồm cả lái xe container) vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông, tùy theo mức độ gây thiệt hại, sẽ bị chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015. Việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đã được quy định cụ thể tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Các hình phạt đối với hành vi vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông gây tai nạn chết người quy định tại Bộ Luật hình sự cơ bản đã tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và phù hợp với thực tiễn.
Bộ Giao thông vận tải xin ghi nhận nội dung kiến nghị của cử tri và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan theo dõi, đánh giá về vấn đề này để có căn cứ đề xuất cụ thể khi tiến hành sửa đổi Nghị định lần sau.
Về việc này Bộ GTVT đã có Văn bản số 14513/BGTVT-CQLXD ngày 06/12/2016 gửi UBND tỉnh Quảng Trị với nội dung cụ thể như sau:
- Ngày 13/11/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/2015/NĐ-CP quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, Nghị định này không có nội dung hướng dẫn giải quyết về đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (ngoài phần thuộc trách nhiệm của bảo hiểm). Bộ GTVT đã có Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016 tiếp tục báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng của dự án (được trích từ tổng mức đầu tư) để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (ngoài phần thuộc trách nhiệm của bảo hiểm).
- Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7866/VPCP-KTTH ngày 20/9/2016 lấy ý kiến các Bộ Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch đầu tư về kiến nghị của Bộ GTVT tại Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016. Đến nay, đã được các Bộ có ý kiến đồng thuận, cụ thể tại Văn bản số 2279/BXD-HĐXD ngày 17/10/2016 của Bộ Xây dựng; số 14126/BTC-ĐT ngày 07/10/2016 của Bộ Tài chính; số 8128/BKHĐT-KCHTĐT ngày 03/10/2016 của Bộ Kế hoạch đầu tư, hiện tại Bộ GTVT đang chờ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Trong thời gian chờ ý kiến cho phép của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã ban hành Văn bản số 10368/BGTVT-CQLXD ngày 05/9/2016, trong đó chỉ đạo Ban QLDA 6, Nhà đầu tư Công ty TNHH BOT Quảng Trị làm việc với các Nhà thầu thi công tạm thời sử dụng kinh phí lấy từ nguồn giá trị thanh toán khối lượng còn lại của các gói thầu xây lắp để chi trả đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình thi công (ngoài phần thuộc trách nhiệm của bảo hiểm).
- Để có cơ sở xem xét, giải quyết nội dung kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT kiến nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội, Tỉnh ủy, UBND, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị tiếp tục có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận như nội dung kiến nghị của Bộ GTVT và đã được các Bộ Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch đầu tư đồng thuận tại các Văn bản nêu trên. Khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo cụ thể cho các Ban QLDA, Nhà đầu tư triển khai thực hiện.
201. Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị: Đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo Bộ giao thông vận tải và các ngành, tổ chức có liên quan sớm thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà dân bị ảnh hưởng (bị nứt nhà) do hoạt động thi công làm đường Hồ Chí Minh đoạn qua Kon Tum để bảo đảm quyền lợi cho nhân dân. Các hộ dân bị ảnh hưởng đã yêu cầu giải quyết từ tháng 4/2015, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết
Trả lời: (Tại Công văn số 15463/BGTVT- ngày 26/12/2016)
1. Bộ Giao thông vận tải đã có các Văn bản số 8117/BGTVT-CQLXD ngày 24/6/2015; số 11371/BGTVT-CQLXD ngày 27/8/2015 báo cáo Thủ tướng Chính phủ, trong đó kiến nghị: Đối với các dự án có chi phí đền bù vượt hạn mức tối đa của hợp đồng bảo hiểm công trình xây dựng do Chủ đầu tư mua theo điều khoản bảo hiểm mở rộng (MR120: Điều khoản chấn động, di chuyển hoặc cột chống bị suy yếu các bộ phận chống đỡ) kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng nguồn kinh phí GPMB của dự án để chi trả đền bù cho các hộ dân bị ảnh hưởng; giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, Hội đồng GPMB địa phương quyết định mức đền bù, chi trả cho các hộ dân.
Trên cơ sở ý kiến của Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7452/VPCP-KTN ngày 18/9/2015 chỉ đạo thực hiện. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan nghiên cứu kiến nghị của Bộ GTVT trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn quy định về bảo hiểm bắt buộc trong xây dựng; khẩn trương trình Chính phủ xem xét, ban hành Nghị định.
Ngày 13/11/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/2015/NĐ-CP quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng. Tuy nhiên Nghị định số 119/2015/NĐ-CP chưa có nội dung hướng dẫn xử lý phần chi phí bồi thường nhà ở, công trình của người dân bị ảnh hưởng vượt hạn mức bồi thường tối đa của hợp đồng bảo hiểm công trình do chủ đầu tư mua đối với những công trình đã triển khai thi công trước ngày nghị định có hiệu lực.
2. Ngày 06/9/2016, Bộ GTVT đã có Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD về việc bồi thường, hỗ trợ các hộ dân bị lún, nứt nhà do quá trình thi công dự án nâng cấp, mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa – Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét.
3. Trên cơ sở báo cáo của Bộ GTVT tại Văn bản số 10406/BGTVT-CQLXD ngày 06/9/2016; ý kiến của Bộ Tài chính tại Văn bản số 14168/BTC-ĐT ngày 07/10/2016; ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Văn bản số 8128/BKHĐT-KCHTĐT ngày 03/10/2016; ý kiến của Bộ Xây dựng tại Văn bản số 2279/BXD-HĐXD ngày 17/10/2016 và ý kiến của UBND các tỉnh Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Văn bản số 10507/VPCP-KTTH ngày 06/12/2016 chỉ đạo Bộ GTVT, Bộ Tài Chính để triển khai thực hiện.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Văn bản số 10507/VPCP-KTTH, Bộ GTVT đã ban hành Văn bản số 15124/BGTVT-CQLXD ngày 19/12/2016 gửi UBND, Sở Giao thông vận tải các tỉnh, các Ban Quản lý dự án và các Nhà đầu tư BOT có tình trạng các hộ dân bị ảnh hưởng do quá trình thi công Dự án nâng cấp, mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa – Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên với nội dung: Yêu cầu các Nhà đầu tư, Chủ đầu tư, Ban QLDA xác định rõ nguyên nhân; mức độ thiệt hại và số lượng các hộ dân có nhà ở, công trình nằm ngoài phạm vi GPMB bị ảnh hưởng do quá trình thi công để Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Hiện nay, các Nhà đầu tư, Chủ đầu tư, Ban QLDA đang thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ GTVT tại Văn bản số 15124/BGTVT-CQLXD nêu trên.
202. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý tình trạng lạm thu, gian lận tại các Trạm thu phí BOT, góp phần giảm gánh nặng chi phí vận tải cho người dân và doanh nghiệp. Cử tri huyện Hoài Nhơn (Bình Định) tiếp tục phản ánh Dự án mở rộng Quốc lộ 1, Bộ Giao thông vận tải chọn phương án tuyến tránh thị trấn Tam Quan trùng với tuyến đường Trần Phú do nhân dân thị trấn Tam Quan, Hoài Nhơn đóng góp trên 43 tỷ đồng đầu tư xây dựng lộ giới 24m, mặt đường bê tông nhựa 12m và vỉa hè. Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét hoàn trả lại kinh phí để địa phương đầu tư xây dựng mới tuyến đường khác thuộc thị trấn Tam Quan nhằm giảm số lượng phương tiện giao thông đi vào QL1, đảm bảo an toàn giao thông, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoài Nhơn.
Trả lời: (Tại Công văn số 15681/BGTVT- ngày 30/12/2016)
I. Về việc giám sát chặt chẽ việc thu phí ở các dự án BOT xây dựng đường giao thông:
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Các dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định.
Để quản lý tốt, đảm bảo tính minh bạch, phòng, chống tiêu cực thất thoát doanh thu, gian lận trong hoạt động thu phí tại các trạm thu phí BOT, Bộ GTVT đã triển khai rất nhiều các giải pháp như:
1. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thay mặt Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn kinh doanh, khai thác và chuyển giao công trình dự án chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; công tác tổ chức thu phí; có biện pháp chống thất thoát doanh thu; thực hiện quyền của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng dự án theo các quy định của hợp đồng dự án…;
2. Thường xuyên chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra (định kỳ và đột xuất) tại các trạm thu phí BOT của các dự án do Bộ GTVT quản lý (ví dụ như: trạm thu phí Pháp Vân – Cầu Giẽ, trạm thu phí trên Quốc lộ 5, trạm thu phí Đại Yên - quốc lộ 18…) để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nếu để xảy ra vi phạm;
3. Bộ GTVT đã tổ chức họp bàn các giải pháp triển khai thực hiện với Bộ Tài chính về các nội dung này và kiến nghị Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí trong đó có phí sử dụng đường bộ hoàn vốn các dự án BOT. Ngày 28/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8737/BTC-CST chỉ đạo Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí; đảm bảo công khai minh bạch, công bằng trong hoạt động thu phí, lệ phí của các dự án BOT thu phí hoàn vốn, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động thu phí, lệ phí và kê khai nộp thuế, phí, lệ phí.
4. Giao Tổng cục ĐBVN chủ trì mời Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục thuế các địa phương tham gia đoàn kiểm tra, giám sát hoạt động thu phí đối với các trạm thu phí BOT trên cơ sở kiến nghị, đề xuất của Tổng cục ĐBVN;
5. Phê duyệt dự án thu phí tự động không dừng và kiểm soát tải trọng xe trên toàn quốc – giai đoạn 1 áp dụng cho Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, tiến tới triển khai áp dụng toàn bộ tại các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý;
6. Triển khai đề án “tăng cường giám sát và công khai minh bạch doanh thu thu phí đối với các dự án đường bộ có thu phí do Bộ GTVT quản lý” qua việc giám sát lưu lượng, doanh thu các trạm thu phí BOT bằng phần mềm giám sát thu phí trực tuyến...;
7. Đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT: thông qua công tác quyết toán để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu quả, quản lý chặt chẽ công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước, hạn chế tình trạng dự án kéo dài, giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản, tiết kiệm vốn đầu tư, chống thất thoát ngân sách nhà nước…Đối với dự án BOT ngoài các nội dung trên, giá trị quyết toán là căn cứ để tính toán, xác định lại chính thức thời gian thu phí hoàn vốn đối với các dự án, công khai, minh bạch chi phí đầu tư xây dựng công trình, thời gian thu phí hoàn vốn trước các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ và nhân dân…;
8. Yêu cầu các Nhà đầu tư/Doanh nghiệp dự án:
- Xây dựng các giải pháp để chống thất thoát trong công tác thu phí. Xây dựng các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ thu phí, giám sát hậu kiểm chặt chẽ. Thường xuyên phổ biến và tập huấn các quy chế, quy định liên quan đến công tác thu phí cho các cán bộ công nhân viên...;
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, chế tài xử phạt, bồi thường thiệt hại đủ sức răn đe để hạn chế, xử lý các cá nhân, phương tiện trốn phí;
- Rà soát, kiểm tra và lắp đặt đầy đủ trang thiết bị thu phí, giám sát, hậu kiểm đồng bộ, hiện đại (bao gồm hệ thống phần mềm, camera nhận dạng biển số xe...) để kiểm soát chặt chẽ các phương tiện qua trạm thu phí, hạn chế các tác động của con người vào quá trình thu phí, giám sát, hậu kiểm; Khắc phục ngay các sự cố, hư hỏng về hệ thống, thiết bị, phần mềm... đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện;
- Hiện đại hóa công nghệ thu phí để đáp ứng yêu cầu thu phí tự động không dừng theo chủ trương của Bộ GTVT;
- Bán kịp thời đầy đủ các loại vé (vé lượt, vé tháng, vé quý) theo quy định và yêu cầu của người mua;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các chủ phương tiện thực hiện đúng các quy định, trình tự, thủ tục thu phí...
- Tăng cường bố trí nhân lực, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định trong công tác thu phí...; thực hiện các biện pháp luân chuyển cán bộ; xử lý kỷ luật các cán bộ liên quan vi phạm, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
- Nghiêm túc tuân thủ chế độ báo cáo về tình hình thu phí và doanh thu thu phí theo nội dung quy định trong hợp đồng dự án và Quyết định số 2777/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT; cụ thể: Báo cáo định kỳ hàng quý (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) về tình hình thu phí và doanh thu thu phí; báo cáo định kỳ 06 tháng (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) và cả năm (trước ngày 31/01 của năm tiếp theo) về tình hình giao thông, lưu lượng xe, doanh thu thu phí, các thông số đầu vào liên quan đến phương án tài chính của dự án và các nội dung liên quan đến quản lý, bảo trì công trình dự án theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ và hợp đồng dự án. Riêng báo cáo cả năm về doanh thu thu phí phải có kiểm toán độc lập kiểm toán hoặc xác nhận của cơ quan thuế.
II. Về các kiến nghị xem xét hoàn trả lại kinh phí để địa phương đầu tư xây dựng mới tuyến đường khác thuộc thị trấn Tam Quan nhằm giảm số lượng phương tiện giao thông đi vào QL1, đảm bảo an toàn giao thông, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoài Nhơn
Về nội dung này, Bộ GTVT đã có các văn bản số 4963/BGTVT-ĐTCT ngày 31/5/2013 và số 9633/BGTVT-ĐTCT ngày 18/8/2016 trả lời Đoàn đại biểu Quốc hội và UBND tỉnh Bình Định, trong đó đã nêu rõ phương án tận dụng đường Trần Phú (có cải tạo, tăng cường cường độ mặt đường) là một phần của tuyến tránh Tam Quan thuộc dự án mở rộng QL1 đoạn Km1125-Km1153, tỉnh Bình Định theo hình thức hợp đồng BOT là phương án đã được UBND tỉnh Bình Định, UBND huyện Hoài Nhơn thống nhất, đồng thời đây cũng là phương án tối ưu cả về kinh tế và kỹ thuật nhất là trong điều kiện nguồn lực đầu tư còn nhiều khó khăn.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định, trong những năm tới khi đủ nguồn lực đầu tư và lưu lượng giao thông trên đoạn tuyến tăng cao, Bộ GTVT sẽ cùng UBND tỉnh Bình Định nghiên cứu, xem xét để báo cáo Thủ tướng Chính phủ đầu tư tuyến tránh như đề xuất của Tỉnh, đảm bảo đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển lâu dài và an toàn giao thông.
203. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Cần có chính sách hỗ trợ đối với 04 xã thuộc huyện Duyên Hải bị chia cắt bởi dự án Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu
Trả lời: (Tại Công văn số 1073/BGTVT- ngày 3/2/2017)
Dự án đầu tư xây dựng công trình Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (Dự án) là dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với mục tiêu xây dựng luồng cho tàu biển có trọng tải đến 10.000 tấn đầy tải, tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải có thể hành hải vào, ra các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) giai đoạn 2014 - 2016. Thực hiện Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bố trí cho dự án 6.100 tỷ đồng. Đến nay, dự án đã hoàn thành đầu tư giai đoạn thông luồng kỹ thuật.
Tổng chiều dài luồng 46,5 km, bao gồm đoạn sông Hậu dài 12,1 km; đoạn kênh Quan Chánh Bố hiện hữu dài 19,2 km; đoạn kênh Tắt dài 8,2 km đào mới thông ra biển và đoạn kênh biển dài 7 km. Đoạn kênh Tắt của Dự án được đào, cắt qua các tuyến đường trong khu vực gồm Quốc lộ 53 là tuyến đường chính nối 3 xã Long Khánh, Đông Hải và Long Vĩnh với thị trấn Long Toàn và Tỉnh lộ 913. Để đảm bảo giao thông thông suốt sau khi hai tuyến đường nói trên bị chia cắt, Dự án đã lập bao gồm các hạng mục đường ven kênh và bến phà tại Quốc lộ 53. Hạng mục bến phà tại Quốc lộ 53 đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng vào tháng 12/2016.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc đảm bảo giao thông kết nối, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án sử dụng vốn dư giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án (khoảng 1.550 tỷ đồng) để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 của Dự án, tập trung các hạng mục quan trọng, cấp thiết để đảm bảo điều kiện khai thác ổn định, hiệu quả cũng như đảm bảo điều kiện an sinh của người dân khu vực, trong đó xác định tuyến đường dân sinh dọc kênh Tắt là một trong những hạng mục cấp bách thuộc Giai đoạn 2 của Dự án (Xây dựng kè bảo vệ bờ kênh Quan Chánh Bố, Tuyến đường dân sinh dọc kênh Tắt, Hệ thống VTS).
Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 3963/VPCP-KTTH ngày 26/5/2016 truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng ý báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2014 - 2016 đã bố trí giai đoạn 1 của Dự án nhưng còn dư để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 và giao Bộ KH&ĐT tổng hợp chung trong phương án điều chỉnh kế hoạch và sử dụng vốn dư TPCP giai đoạn 2014 - 2016.
Ngoài ra, đối với chính sách hỗ trợ thêm đối với 04 xã thuộc huyện Duyên Hải bị chia cắt bởi dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu, tại các cuộc họp với UBND tỉnh Trà Vinh, Bộ GTVT đều đã có ý kiến ủng hộ, đề nghị UBND tỉnh Trà Vinh có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình báo cáo.
204. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị cân nhắc kế hoạch thực hiện các dự án trọng điểm về cơ sở hạ tầng giao thông cần tính toán chặt chẽ, đảm bảo thực hiện có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, cân đối bảo đảm nguồn vốn hợp lý không tạo gánh nặng về nợ công; tăng cường giám sát việc đầu tư các dự án tránh gây thất thoát, lãng phí nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời xử lý nghiêm các sai phạm.
Trả lời: (Tại Công văn số 596/BGTVT- ngày 17/1/2017)
Để đảm bảo phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông quốc gia đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trong giai đoạn tới cần phải tập trung nguồn lực rất lớn cho các dự án trọng điểm như dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam... Tuy nhiên, do nguồn vốn NSNN hiện nay còn nhiều khó khăn, thực hiện theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đang tiếp tục rà soát danh mục, thứ tự ưu tiên các dự án quan trọng, cấp bách để đầu tư bảo đảm hiệu quả đầu tư, tránh dàn trải, không tạo gánh nặng về nợ công.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT tiếp tục nâng cao thực hiện công tác thẩm định thiết kế, dự toán các công trình, dự án đảm bảo chất lượng đáp ứng tiến độ yêu cầu; tăng cường công tác quản lý đấu thầu, công tác kiểm tra, giám sát, xử lý những vướng mắc liên quan đến tiến độ và chất lượng công trình, xử lý kịp thời những tồn tại về chất lượng, sự cố công trình; nghiêm khắc xử lý tập thể, cá nhân có liên quan; tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng; chấn chỉnh, nâng cao năng lực các chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn thiết kế, giám sát; kiên quyết không để các nhà thầu có năng lực yếu kém tham gia các dự án của ngành. Tăng cường phối hợp với các địa phương giải quyết các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh công tác GPMB và triển khai thi công, công tác bảo đảm ATGT, an toàn lao động và vệ sinh môi trường đối với các dự án... Đồng thời, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; công tác tổ chức, quản lý thực hiện dự án; việc tuân thủ các quy trình, quy phạm trong thi công để đảm bảo chất lượng công trình, đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động và vệ sinh môi trường khi thi công công trình giao thông. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; trong đó, tập trung vào các lĩnh vực ảnh hưởng lớn đến công tác đảm bảo an toàn giao thông, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông.
205. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri kiến nghị Quốc hội, Chính phủ cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các công trình giao thông, các tuyến Quốc lộ mới đầu tư nhưng hư hỏng, xuống cấp nhanh; việc đặt các Trạm thu phí BOT quá nhiều, kể cả các đoạn đường hư hỏng, xuống cấp vẫn thu phí.
Trả lời: (Tại Công văn số 482/BGTVT- ngày 16/1/2017)
- Về việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các công trình giao thông, các tuyến đường Quốc lộ mới đầu tư nhưng hư hỏng, xuống cấp nhanh:
Trong thời gian qua các dự án xây dựng giao thông nói chung đã hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả; đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng, địa phương nơi có công trình, dự án triển khai. Tuy nhiên, tại một số công trình, dự án khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình làm hạn chế khả năng khai thác sử dụng của công trình.
Đối với các tuyến đường giao thông, các công trình do Bộ GTVT quản lý, để tránh trường hợp công trình vừa đưa vào khai thác đã xuất hiện các tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng, Bộ GTVT đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng công trình từ lúc bắt đầu thực hiện dự án; trong đó ban hành nhiều quy định cụ thể nhằm “siết chặt” các chủ thể tham gia thực hiện như: Quy định về đánh giá kết quả thực hiện và xếp hạng, phân loại Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công làm căn cứ để lựa chọn các đơn vị tham gia thực hiện dự án; quy định về tăng cường công tác quản lý chất lượng công trình giao thông; quy định về nâng cao trách nhiệm bảo hành đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ do Bộ GTVT quyết định đầu tư...
Đối với những dự án, công trình để xảy ra tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra, đánh giá đúng nguyên nhân, xác định trách nhiệm của từng chủ thể để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm bằng các hình thức như: Nhắc nhở, cảnh cáo; đình chỉ thi công; yêu cầu đơn vị khắc phục, sửa chữa bằng kinh phí của mình; hạn chế và cấm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định thực hiện các dự án của ngành GTVT…
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia thực hiện dự án, Bộ GTVT đã yêu cầu sau khi kết thúc thời hạn bảo hành công trình, nếu xảy ra hư hỏng, khiếm khuyết về chất lượng do lỗi của Nhà thầu thi công thì Nhà thầu vẫn phải chịu trách nhiệm khắc phục các hư hỏng, khiếm khuyết tương ứng với phần công việc do mình thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đôn đốc các đơn vị triển khai đồng bộ các giải pháp như nêu trên để hạn chế các khiếm khuyết về chất lượng và xử lý ngay các hư hỏng trong quá trình khai thác sử dụng.
- Việc đặt Trạm thu phí BOT quá nhiều, kể cả các đoạn đường hư hỏng, xuống cấp vẫn thu phí:
Trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư các dự án đường bộ theo hình thức Hợp đồng BOT đều được Bộ GTVT thực hiện đúng trình tự, tuân thủ quy định hiện hành, các dự án đều lấy ý kiến của địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.
Theo quy định tại Thông tư 90/2004/TT-BTC ngày 07/9/2004 trước đây và Thông tư 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính thì với đường quốc lộ, phải phù hợp với quy hoạch đường gắn với dự án do Bộ trưởng Bộ GTVT quyết định, trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí không thuộc quy hoạch hoặc khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ GTVT thống nhất ý kiến với địa phương và Bộ Tài chính. Tất cả các trạm thu phí hiện nay, Bộ GTVT đều thực hiện theo đúng quy định đó.
Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, Bộ GTVT đã nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát, điều chỉnh vị trí, xóa bỏ, giảm phí đường bộ đối với các trạm thu phí trên hệ thống quốc lộ để đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đường. Hiện nay, có trên hệ thống quốc lộ có một số trạm có khoảng cách nhỏ hơn 70km chủ yếu thu phí cho các cho công trình đặc thù như cầu lớn, hầm đường.
Trong bối cảnh ngân sách hiện nay rất khó khăn, hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP) trong đó hợp đồng BOT có thu phí hoàn vốn là một trong những giải pháp tất yếu đã được xác định tại Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, cũng như những Nghị quyết của Chính phủ trong các phiên họp đầu năm gần đây.
206. Cử tri tỉnh Đăk Nông kiến nghị: Về làm đường Quốc lộ 14: Trước và trong quá trình thi công, nhân dân các địa phương có đường chạy qua phấn khởi đồng ý cho giải tỏa làm đường. Nhưng hiện nay đường đã xong thì còn nhiều vấn đề liên quan đến dân chưa được giải quyết đó dứt điểm, cử tri đã kiến nghị nhiều lần là: đường đấu nối thấp hơn nhiều so với quốc lộ nên khó khăn trong đi lại, gây mất an toàn giao thông; việc thiết kế cao trình đường, hệ thống thoát nước trên tuyến đường này nhiều chỗ không phù hợp, do đó khi mưa đất và nước mưa tràn vào nhà ở, vườn cây và ao cá của các gia đình; việc đo đạc, giải tỏa nhà ở, cây trồng đền bù chưa cụ thể, chưa rõ ràng, có đoạn nắn tuyến di dời đường điện đi vắt ngang qua nhà ở chưa được đền bù để di chuyển.Vì vậy, cử tri đề nghị các cơ quan liên quan và chủ đầu tư dự án khẩn trương giải quyết dứt điểm.
Trả lời: (Tại Công văn số 15806/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Dự án đường Hồ Chí Minh đi qua tỉnh Đăk Nông gồm 3 dự án: dự án vốn TPCP (Km1824 - Km1876) và dự án BOT của Nhà đầu tư Toàn Mỹ (Km1793+600 – Km1824) do Ban QLDA đường Hồ Chí Minh làm đại diện chủ đầu tư và đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, còn lại dự án BOT của nhà đầu tư Đức Long (Km1876 – Km1946) do UBND tỉnh Đắk Nông là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Về nội dung “đường đấu nối thấp hơn nhiều so với quốc lộ nên khó khăn trong đi lại, gây mất an toàn giao thông”: Trong quá trình thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí Minh qua khu vực Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng, Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA đường Hồ Chí Minh, Sở GTVT Đắk Nông phối hợp với địa phương tổ chức rà soát nhiều lần và đã bổ sung thiết kế vuốt nối đường giao dân sinh, bổ sung biển báo nhằm đảm bảo an toàn giao thông và đi lại thuận lợi cho nhân dân. Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo các Ban QLDA, các Nhà đầu tư phối hợp với Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra, rà soát xử lý các tồn tại bất cập phát sinh trong quá trình khai thác sử dụng.
- Nội dung phản ánh “việc thiết kế cao trình đường, hệ thống thoát nước trên tuyến đường này nhiều chỗ không phù hợp, do đó khi mưa đất và nước tràn vào nhà ở, vườn cây và ao cá của các gia đình”: Đường Hồ Chí Minh được thi công theo hồ sơ thiết kế được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt. Trong quá trình thi công, Bộ GTVT đã chỉ đạo rà soát đảm bảo hệ thống thoát nước phù hợp với thực tế như: điều chỉnh hạ cao độ đường đỏ, điều chỉnh bổ sung rãnh thoát nước dọc,... Đối với một số vị trí bất cập về cao trình đường, hệ thống thoát nước như cử tri nêu trên, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục kiểm tra, rà soát và khắc phục. Tuy nhiên,trong thời gian sau khi dự án đường Hồ Chí Minh được đưa vào khai thác sử dụng, vẫn còn tình trạng vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ như san lấp mặt bằng, xây dựng công trình trái phép làm ảnh hưởng đến hệ thống thoát nước của tuyến đường; Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông chỉ đạo các sở, ban ngành, chính quyền các địa phương có dự án đi qua cần nghiêm túc thực hiện việc bảo vệ hành lang an toàn đường bộ theo quy định.
- Nội dung phản ánh “ việc đo đạc, giải tỏa nhà ở, cây trồng đền bù chưa cụ thể, chưa rõ ràng, có đoạn nắn tuyến di dời đường điện đi vắt ngang qua nhà ở chưa được đền bù để di chuyển”: Theo quy định hiện hành, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng được tách thành tiểu dự án riêng do địa phương làm chủ đầu tư và trực tiếp thực hiện. Vì vậy, nội dung kiến nghị các vướng mắc liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, Bộ GTVT xin chuyển tới UBND tỉnh Đắk Nông để tiếp tục xem xét giải quyết dứt điểm, đảm bảo quyền lợi hợp pháp giữa các bên. Bộ GTVT sẽ giao Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh, các Nhà đầu tư dự án BOT phối hợp theo trách nhiệm của chủ đầu tư các dự án.
207. Cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải cần nghiên cứu phát triển mạnh mẽ về vận tải biển và đường sắt thay vì phát triển nóng về giao thông đường bộ như hiện nay.
Trả lời: (Tại Công văn số 940/BGTVT- ngày 24/12/2016)
1. Trong thời gian qua, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông được quan tâm và phát triển đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm. Việc tập trung đầu tư phát triển KCHTGT có trọng tâm, trọng điểm đã góp phần tái cơ cấu hợp lý lĩnh vực vận tải, bảo đảm kết nối hài hoà và phát huy thế mạnh của các phương thức vận tải, làm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ vận tải, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, cụ thể:
Về đường bộ: Đã đưa vào khai thác toàn tuyến đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước sớm hơn 1,5 năm so với kế hoạch; hoàn thành nâng cấp, mở rộng QL1 từ Thanh Hóa đến Cần Thơ sớm hơn 1 năm so với kế hoạch. Tới nay đã có 745 km đường bộ cao tốc được đưa vào khai thác (trong đó, đến cuối năm 2015 đã có 704 km đường bộ cao tốc, nhiều hơn 104 km so với mục tiêu Nghị quyết số 13-NQ/TW đề ra). Giai đoạn 2011 - 2015 đã đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo khoảng 4.400 km đường bộ và hơn 94.000 m dài cầu đường bộ.
Về đường sắt: Đã triển khai các dự án cải tạo cầu yếu, thông tin tín hiệu, gia cố sửa chữa các hầm đường sắt, thay thế tà vẹt cũ, kéo dài đường ga... qua đó nâng cao an toàn, rút ngắn thời gian chạy tàu trên trục bắc - nam; nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai; đưa vào khai thác đường sắt kết nối vào cảng Cái Lân... Đồng thời, đã xây dựng và phê duyệt Quy hoạch chi tiết tuyến đường sắt khổ 1,435 m đoạn thành phố Hồ Chí Minh đi Cần Thơ, lập dự án đường sắt thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu để kêu gọi đầu tư.
Về đường thuỷ nội địa: Các tuyến đường thủy chính đã được đầu tư nâng cấp để đến năm 2015-2016 vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ có 1.082 km đường thủy, vùng đồng bằng Bắc Bộ có 462 km đường thủy được nâng cao năng lực vận tải. Hiện đang nghiên cứu để tiếp tục kêu gọi vốn đầu tư cho nâng cấp các tuyến đường thủy Chợ Lách - Măng Thít, Quảng Ninh - Hải Phòng - Nam Định - Ninh Bình, Việt Trì - Lào Cai.
Về hàng hải: Hoàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều cảng khác, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn năm 2011 lên khoảng 470 triệu tấn năm 2015. Đang đầu tư đưa vào khai thác cảng Lạch Huyện (Hải Phòng), luồng cho tàu có trọng tải lớn vào sông Hậu và kêu gọi xã hội hóa đầu tư các cảng. Đặc biệt đã triển khai tuyến vận tải ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và kết nối khu vực của phương thức vận tải thủy, giảm giá thành vận tải và giảm tải đáng kể cho vận tải đường bộ bắc - nam.
Về hàng không: Hoàn thành, đưa vào khai thác các dự án, công trình tại các cảng hàng không quan trọng: Nội Bài (nhà ga T2, nhà khách VIP), Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cần Thơ, Vinh, Phú Quốc (xây mới), Liên Khương, Pleiku, Thọ Xuân...; các công trình quản lý hoạt động bay: Trung tâm kiểm soát đường dài (ACC) Hà Nội, các trạm giám sát hoạt động bay phụ thuộc (ADS-B) phía Bắc, các trạm radar Sơn Trà, Quy Nhơn... đưa tổng năng lực của các cảng hàng không từ 42 triệu hành khách năm 2010, lên khoảng 81 triệu hành khách năm 2016, đáp ứng kịp thời nhu cầu vận tải hàng không đang tăng rất nhanh thời gian qua. Chủ trương đầu tư Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã được thông qua tại Kỳ họp 9, Quốc hội khóa XIII, hiện đang gấp rút triển khai công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 1 của Dự án.
Giao thông đô thị: Đã tập trung đầu tư các trục giao thông hướng tâm, các đường vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên là các vành đai Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời, đang phối hợp với UBND Hà Nội, UBND TP.HCM tập trung triển khai 06 dự án đường sắt đô thị.
Giao thông nông thôn: Trong giai đoạn 2011-2015, đã tiến hành xây dựng mới, nâng cấp được 47.436 km đường giao thông nông thôn (GTNT); xây mới 15.474 cầu; cứng hóa được 220.246 km/492.982 km đường GTNT. Đồng thời, chủ động phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; đến hết năm 2015 có 35% số xã trong cả nước đạt tiêu chí về giao thông trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án xây dựng cầu dân sinh đảm bảo ATGT cho vùng dân tộc thiểu số với mục tiêu xây dựng 4.145 cầu dân sinh tại 50 tỉnh, thành phố.
2. Định hướng đầu tư trong thời gian sắp tới:
Để đảm bảo phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông quốc gia đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trong khi nguồn vốn NSNN hiện nay còn nhiều khó khăn, thực hiện theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đang phối hợp với các Bộ ngành liên quan tiếp tục rà soát danh mục, thứ tự ưu tiên các dự án quan trọng, cấp bách để bảo đảm hiệu quả đầu tư, tránh dàn trải, không tạo gánh nặng về nợ công. Trước mắt, sẽ tập trung nguồn lực rất lớn cho các dự án trọng điểm như dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, nghiên cứu hoàn thiện phương án để trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế khuyến khích kêu gọi xã hội hóa để đầu tư, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông vận tải.
Như vậy, thời gian vừa qua và trong giai đoạn tới đây, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã được Bộ GTVT tổ chức triển khai thực hiện theo quy hoạch, phát huy đúng đặc điểm lợi thế của từng vùng miền đảm bảo sự phù hợp điều kiện nguồn vốn, đồng bộ, phát huy hiệu quả đầu tư, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Trên đây là ý kiến của Bộ GTVT trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chuyển thông tin đến cử tri được rõ. Bộ GTVT trân trọng cảm ơn ý kiến của cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, góp ý của đại biểu, cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với sự nghiệp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải./.
Giấy ghi chất vấn của Đại biểu Quốc hội Lê Thành Nhơn - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương do Vụ Phục vụ hoạt động giám sát – Văn phòng Quốc hội gửi kèm theo văn bản số 43/PC-VPQH ngày 29/5/2015. Về các nội dung chất vấn của Đại biểu Quốc hội Lê Thành Nhơn, Bộ GTVT xin trả lời như sau:
1. Suất đầu tư của Cảng HKQT Long Thành, lợi thế cạnh tranh (trước mắt và lâu dài) với 4 sân bay khu vực Hongkong, Malaisya, Thái Lan, Singapore.
a) Suất đầu tư
Thông thường, suất đầu tư của các dự án đầu tư về hạ tầng được tính trên diện tích xây dựng (m2). Tại báo cáo lần này, Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức rà soát, tính toán lại, áp dụng đơn giá của các dự án có tính chất, quy mô... tương tự. Khi so sánh suất đầu tư Cảng hàng không quốc tế Long Thành với các cảng hàng không khác, như: Nhà ga hành khách T3 Singapore hoàn thành xây dựng năm 2006, có đơn giá xây dựng là 3.680 USD/m2; nhà ga T2 Thượng Hải hoàn thành xây dựng năm 2008, có đơn giá xây dựng là 4.239 USD/m2. Trong khi đó, đơn giá dự tính cho nhà ga sân bay Long Thành là 3.800 USD m2, dự kiến hoàn thành vào năm 2022.
Ngoài ra, Bộ GTVT đã so sánh suất đầu tư trên hành khách với TMĐT giai đoạn 1 của Dự án là 5,2 tỷ USD cho công suất 25 triệu khách, suất đầu tư là 208 USD/hành khách. Trong khi đó, suất đầu tư của Cảng hàng không Suvarnabhumi - Thái Lan sau khi quy đổi về thời giá hiện nay là 280 USD (năm 2006 sân bay Suvarnabhumi - Thái Lan có TMĐT giai đoạn 1 là 155 tỷ bath, tương đương 5 tỷ USD với công suất 45 triệu khách/năm, suất đầu tư là 111 USD/hành khách. Đến nay đã 9 năm, tỷ lệ trượt giá đồng USD hàng năm khoảng 4%, trượt giá vật liệu xây dựng và trang thiết bị hàng năm ước tính từ 6-10% - theo số liệu của Tổng cục thống kê - nên tỷ lệ trượt giá trong 9 năm khoảng 253%; suất đầu tư của sân bay này là khoảng: 111 USD x 253% là 280 USD).
Kết quả so sánh cho thấy, sau khi rà soát giảm TMĐT của Dự án, suất đầu tư là không cao so với các dự án khác.
b) Lợi thế cạnh tranh
Cảng hàng không quốc tế Long Thành được hình thành, đưa vào khai thác sau các cảng hàng không trung chuyển lớn trong khu vực như: Chek Lap Kok (Hongkong), Changi (Singapore), Suvarnabhumi (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia)... nên trong giai đoạn phát triển ban đầu sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh với các cảng hàng không nói trên do hạ tầng phục vụ công nghiệp hàng không, bảo dưỡng tàu bay, dịch vụ thương mại... chưa được xây dựng đầy đủ. Tuy nhiên, trong giai đoạn ban đầu, Cảng hàng không Long Thành chủ yếu giải quyết vấn đề quá tải cho Cảng hàng không Tân Sơn Nhất nên vấn đề cạnh tranh chưa đặt ra.
Tuy nhiên về lâu dài, Cảng hàng không quốc tế Long Thành có những lợi thế khi so sánh với các trung tâm trung chuyển hàng không trong khu vực như:
- Về cơ sở vật chất, Cảng hàng không quốc tế Long Thành có quy mô sân bay cấp 4F, đủ điều kiện tiếp nhận tất cả các loại tàu bay hiện đại nhất. Cảng HKQT Long Thành cũng được quy hoạch đủ diện tích đất cần thiết để phát triển thành một cảng hàng không hiện đại, phát triển đồng bộ các dịch vụ hàng không và phi hàng không; được quy hoạch phát triển thành mô hình thành phố sân bay, bao gồm các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch...
- Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, một trong những khu vực phát triển nhanh, năng động trên thế giới; đang quản lý điều hành 2 vùng thông báo bay (FIR) Hà Nội và Hồ Chí Minh với 04/25 đường hàng không nhộn nhịp bậc nhất thế giới; là quốc gia có nền chính trị ổn định; tốc độ tăng trưởng kinh tế, đầu tư, thương mại, xuất nhập khẩu cao; tiềm năng du lịch lớn; hệ thống đường bay quốc tế, nội địa rộng lớn (Tính đến cuối năm 2014, đã có 51 hãng hàng không nước ngoài khai thác 83 đường bay quốc tế đến Việt Nam; các hãng hàng không Việt Nam khai thác 56 đường bay quốc tế, 46 đường bay nội địa), Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh trong việc phát triển một trung tâm trung chuyển hàng không.
- Về thị trường, Việt Nam là một thị trường tiềm năng với hơn 90 triệu dân, được dự báo là khu vực có tăng trưởng cao về hành khách sử dụng dịch vụ vận chuyển hàng không (đứng thứ ba trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương). Khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam - nơi xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành là khu vực kinh tế phát triển năng động, có nhu cầu vận chuyển hàng không cao nhất cả nước. Yếu tố dân số và tăng trưởng nội khu vực là lợi thế rất lớn khi so sánh với Singapore (dân số 5,4 triệu người), Hồng Kông - Trung Quốc (dân số 6 triệu người), Malaysia (dân số 30 triệu người), Thái Lan (dân số 67 triệu người)... để một cảng hàng không quốc tế phát triển bền vững và cạnh tranh về khai thác trung chuyển quốc tế.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định sân bay Long Thành là trung tâm trung chuyển hàng không?
Như trên đã nói, Cảng hàng không quốc tế Long Thành hoàn toàn có tiềm năng và có đủ các điều kiện để trở thành Cảng hàng không quốc tế trung chuyển:
- Về xu thế phát triển của ngành hàng không trong khu vực, vùng phía Nam Việt Nam đã được ICAO đánh giá có khả năng hình thành cảng hàng không trung chuyển để phục vụ cho Liên minh Hàng không Sky Team mà Vietnam Airlines đang tham gia.
- Thị trường Việt Nam là thị trường tiềm năng, lượng hành khách thông qua các cảng hàng không của Việt Nam những năm qua có tốc độ tăng trưởng cao (giai đoạn 2002-2012 đạt tăng trưởng bình quân 14,7%/năm; Năm 2013, lượng hành khách thông qua các cảng hàng không đã đạt hơn 44,5 triệu hành khách, tăng 17,3% so với năm 2012), Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) đánh giá Việt Nam sẽ là nước đứng thứ 3 trong 10 nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia khác, việc phát triển các cảng hàng không trở thành trung chuyển quốc tế cần theo lộ trình từng bước và phải có những chính sách hỗ trợ phù hợp của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải có những chính sách đồng bộ, Chính phủ phải chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng các thể chế, chính sách phát triển phù hợp trong quá trình đầu tư và khai thác.
3. Diện tích 2.250ha thực tế cũng là đất phục vụ cho Cảng hàng không Long Thành. Vì sao đưa ra thành 1 dự án khác. Vốn đầu tư ra sao?
Theo quy hoạch được duyệt, diện tích đất dành cho Cảng hàng không quốc tế Long Thành là 5.000 ha. Sau khi rà soát lại báo cáo đầu tư Dự án theo phương án phân kỳ đầu tư, nhu cầu sử dụng đất cho Dự án là 2.750 ha (chỉ tính diện tích đất cần thiết cho các hạng mục hàng không thiết yếu của cảng hàng không), không bao gồm diện tích đất cho quốc phòng (khoảng 1.050 ha) và đất dành cho các hạng mục phụ trợ và đầu tư xây dựng khu công nghiệp hàng không, các công trình thương mại khác (khoảng 1.200 ha).
Thực tế, diện tích khoảng 1.050 ha là đất phục vụ cho quốc phòng an ninh và sẽ tiến hành giải tỏa khi có nhu cầu.
Diện tích đất còn lại (1.200 ha dành cho các hạng mục phụ trợ và công nghiệp hàng không, các công trình thương mại khác) là đất dự trữ cho sự phát triển ngành hàng không trong tương lai và sẽ được GPMB trong các dự án độc lập khác khi có nhu cầu xây dựng, nguồn vốn sẽ được thực hiện theo từng dự án cụ thể phù hợp với quy hoạch và mục đích sử dụng đất.
4. Bộ trưởng có cam kết với Quốc hội dự án nếu được Quốc hội đồng ý, thực hiện đúng lộ trình và nguồn vốn 15,8 tỷ USD?
Hiện nay hệ thống pháp luật và các chính sách đầu tư của nước ta ngày càng được hoàn thiện và chặt chẽ, công tác giám sát ngày càng minh bạch và công khai, do đó việc quản lý các dự án GTVT nói chung và hạ tầng hàng không nói riêng đã diễn ra đúng theo các quy định hiện hành và lộ trình đề ra. Tuy vậy, Bộ GTVT không chủ quan, với tinh thần cầu thị cao nhất, chúng tôi mong muốn được tiếp tục lắng nghe nhiều hơn nữa những phản biện khoa học, những ý kiến đóng góp quý báu, thể hiện trách nhiệm cao nhất với Tổ quốc của các ĐBQH, các chuyên gia và nhân dân cả nước về dự án có tầm quốc gia đặc biệt quan trọng này.
208. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Đề nghị tổ chức lực lượng chức năng giám sát công việc thì hành xử phạt theo Nghị định 46 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông nhằm ngăn chặn tiêu cực.
Trả lời: (Tại Công văn số 240/BGTVT- ngày 10/1/2017)
Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012 đã có quy định cụ thể về trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan, đơn vị và các nhân trong công tác xử lý vi phạm hành chính, bao gồm cả việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (theo quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ như kiến nghị của cử tri), cụ thể như sau:
Tại điểm a khoản 1 Điều 18 của Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính: “thường xuyên kiểm tra, thanh tra và kịp thời xử lý đối với vi phạm của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình…”;
Tại điểm a khoản 2 Điều 18 của Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp: “thường xuyên chỉ đạo kiểm tra việc xử lý vi phạm hàn chính của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình”;
Tại khoản d khoản 2 Điều 17 của Luật xử lý vi phạm hành chính có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính là: “kiểm tra, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan tiến hành thanh tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
Ngoài ra, tại Điều 19 của Luật xử lý vi phạm hành chính cũng quy định việc giám sát công tác xử lý vi phạm hành chính như sau: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và mọi công dân giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; khi phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thì có quyền yêu cầu, kiến nghị với cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, giải quyết, xử lý theo quy định của pháp luật”.
Hiện nay, các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao cũng đã tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra công tác xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, đã công bố số điện thoại đường dây nóng tiếp nhận các kiến nghị, phản ánh của người dân về các sai phạm của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để kịp thời xử lý theo quy định của pháp luật.
209. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Đắk Lắk là tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, trong điều kiện đất sản xuất cách xa thì việc sử dụng xe công nông là rất cần thiết, tuy nhiên hiện nay việc đào tạo để lấy giấy phép lái xe chưa được tổ chức phổ biến ở từng địa phương, giáo trình chưa phù hợp với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số, học phí học còn cao. Cử tri đề nghị ngành giao thông vận tải cần nghiên cứu việc đào tạo, cấp giấy phép lái xe cho phù hợp, để đồng bào dân tộc thiểu số thuận tiện trong việc tham gia giao thông bằng loại phương tiện này.
Trả lời: (Tại Công văn số 15626/BGTVT- ngày 28/12/2016)
Theo quy định của Luật giao thông đường bộ năm 2008, giấy phép lái xe hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000 kg (gồm có xe công nông). Về chương trình đào tạo lái xe hạng A4 đã được quy định tại Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT ngày 20/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ. Để phục vụ công tác đào tạo, sát hạch lái xe hạng A4 trên toàn quốc, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành giáo trình đào tạo lái xe hạng A4, được sửa đổi bổ sung năm 2005 để đáp ứng đòi hỏi của thực tế, đảm bảo chất lượng đào tạo.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương chủ động trong việc tổ chức đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe đáp ứng nhu cầu của người dân, Bộ Giao thông vận tải đã phân cấp việc cấp giấy phép đào tạo lái xe các hạng, cấp giấy chứng nhận trung tâm sát hạch lái xe loại 3 đủ điều kiện hoạt động cho các địa phương thực hiện. Các Sở Giao thông vận tải chịu trách nhiệm quản lý sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với tỉnh Đắk Lắk, hiện có 05 cơ sở đào tạo, sát hạch để cấp giấy phép lái xe hạng A4 phục vụ nhu cầu đào tạo cấp giấy phép lái xe hạng A4 cho nhân dân. Trong những năm qua, Sở Giao thông vận tải Đắk Lắk đã có nhiều nỗ lực để phục vụ công tác đào tạo lái xe hạng A4 cho đồng bào dân tộc ở vùng sâu vùng xa, đến nay đã đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe hạng A4 cho 12.874 người.
Để tiếp tục tạo điều kiện hơn nữa cho các địa phương, cơ sở đào tạo, sát hạch lái xe chủ động trong việc tổ chức đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe phục vụ nhân dân, Bộ Giao thông vận tải đang rà soát, nghiên cứu sửa đổi Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT ngày 20/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ theo hướng cơ sở đào tạo được chủ động về đào tạo lái xe các hạng A1, A2, A3, A4, đồng thời tăng cường quản lý chặt chẽ việc sát hạch, cấp giấy phép lái xe và tổ chức hậu kiểm. Về giáo trình đào tạo, cơ sở đào tạo lái xe sử dụng giáo trình đào tạo lái xe phù hợp với giáo trình đào tạo lái xe khung do Tổng cục Đường bộ Việt Nam ban hành, không bắt buộc cơ sở đào tạo sử dụng giáo trình của Tổng cục Đường bộ Việt Nam.
210. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ quan tâm tăng kinh phí phân bổ cho các công ty quản lý đường sắt, hiện nay kinh phí phân bổ còn thấp.
Trả lời: (Tại Công văn số 15807/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Hiện nay, Tổng công ty đường sắt Việt Nam đang được giao quản lý hơn 2.500 km chiều dài đường chính tuyến, 513 km đường ga và hệ thống các cầu đường sắt. Theo tính toán nhu cầu kinh phí cho công tác quản lý bảo trì hàng năm khoảng trên 6.000 tỷ đồng, tuy nhiên do điều kiện ngân sách Nhà nước khó khăn chỉ đáp ứng được khoảng 30% so với nhu cầu thực tế. Mặc dù có nhiều khó khăn như nêu trên, nhưng những năm qua Bộ GTVT đã tích cực, chủ động đề xuất phương án phân bổ nguồn sự nghiệp kinh tế đường sắt để đảm bảo năm sau tăng trưởng cao hơn năm trước và tỷ lệ tăng trưởng từ năm 2016 so với năm 2011 là 59,24%, cụ thể như bảng biểu dưới đây:
Thời gian
|
Kinh phí (tỷ đồng)
|
Tốc độ tăng trưởng năm sau so với năm trước (%)
|
Năm 2011
|
1.482
|
|
Năm 2012
|
1.572
|
6,07
|
Năm 2013
|
1.817
|
15,59
|
Năm 2014
|
1.947
|
7,15
|
Năm 2015
|
2.203
|
13,15
|
Năm 2016
|
2.360
|
7,13
|
211. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri phản ảnh hiện tại chất lượng vận tải hành khách của ngành đường sắt không bằng đường bộ và đường hàng không, trong khi đó giá vé lại cao hơn so với loại hình vận tải hành khách bằng đường bộ và hàng không (giá rẻ), đặc biệt thường xảy ra tiêu cực trong các dịp lễ, tết. Cử tri đề nghị Bộ quan tâm.
Trả lời: (Tại Công văn số 15761/BGTVT- ngày 30/12/2016)
Trong những năm gần đây, Bộ Giao thông vận tải đã quan tâm chỉ đạo Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải đường sắt nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải đường sắt, kết quả như sau:
Các phòng đợi tàu của hành khách tại các ga đều được bố trí rộng rãi, sạch sẽ, có đủ các trang thiết bị như ánh sáng, quạt mát, nhà vệ sinh (một số ga lớn tại các thành phố, thị xã đông khách được trang bị điều hòa không khí); các ga lớn như Hà Nội, Sài Gòn đã bố trí cầu vượt đường ke ga để tạo điều kiện cho hành khách lên, xuống tàu an toàn, thuận tiện; hệ thống bán vé điện tử được nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho hành khách có thể mua vé đi tàu ở mọi nơi, mọi lúc mà không phải đi đến ga mua vé như trước kia; đã nâng cấp cải tạo hơn 850 toa xe có vệ sinh tự hoại và hiện có trên 630 toa xe được trang bị điều hòa không khí để phục vụ vận chuyển hành khách trên các tuyến đường sắt; trong năm 2016, tỷ lệ tàu khách đi đúng giờ đạt 99%, đến đúng giờ đạt 91%.
Như vậy chất lượng phục vụ hành khách đi tàu cơ bản đã được cải thiện và từng bước nâng cao, tuy nhiên hiện nay hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt là đường đơn, năng lực thông qua thấp, phương tiện vận chuyển hành khách đã cũ và lạc hậu vì vậy chất lượng dịch vụ vận tải đường sắt còn hạn chế so với vận tải hàng không, vận tải đường bộ và chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải của hành khách, giá vé tàu ở một số mác tàu trên các tuyến đường sắt còn cao hơn giá vé hàng không giá rẻ và giá vé vận tải đường bộ. Trong các dịp cao điểm như lễ, tết, hè do cung không đủ cầu nên đã phát sinh một số hiện tượng tiêu cực như phe vé, bao khách gây bức xúc cho hành khách.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng vận tải đường sắt, giảm giá vé đi tàu, Bộ Giao thông vận tải đã và đang chỉ đạo các doanh nghiệp kinh doanh vận tải đường sắt, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam thực hiện một số các giải pháp sau:
- Tiếp tục đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng đường sắt, hiện đại hóa hệ thống điều hành vận tải đường sắt nhằm nâng cao năng lực vận tải đường sắt để nâng cao hơn nữa khả năng đáp ứng nhu cầu vận tải của hành khách bằng đường sắt, đặc biệt là trong các dịp lễ, tết; xây dựng mái che và nâng cao các ke ga đón tiễn hành khách tại các ga đường sắt nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho khách đi tàu.
- Sửa chữa, cải tạo và nâng cấp các ram tàu khách chất lượng cao như SE1/2, SE3/4, SE5/6, SE7/8 trên tuyến đường sắt Bắc – Nam.
- Điều chỉnh và giảm giá vé trên các tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Vinh, Sài Gòn – Nha Trang, Sài Gòn – Phan Thiết v.v..
- Xây dựng và thực hiện chính sách khuyến mại giảm giá vé linh hoạt để thu hút hành khách đi tàu, tăng hiệu suất sử dụng chỗ trên đoàn tàu.
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nội bộ đối với công tác bán vé và phối hợp với chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng có liên quan để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực như phe vé, bao khách gây bức xúc cho hành khách đi tàu.
212. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri cho rằng vị trí đặt trạm thu phí hầm đường bộ Đèo Cả (dự án BT, BOT) tại xã An Dân, huyện Tuy An là không hợp lý, vì chiều dài Quốc Lộ 1A đoạn từ Đèo Cả đến xã An Dân khoảng 70km đã được nhà nước nâng cấp, mở rộng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính Phủ, nếu đặt trạm thu phí tại địa điểm nói trên sẽ trùng thu và một số phương tiện không qua hầm Đèo Cả cũng phải chịu phí. Cử tri đề nghị bố trí trạm thu phí dự án BOT Đèo Cả ở nơi khác phù hợp hơn.
Trả lời: (Tại Công văn số 15600/BGTVT- ngày 28/12/2016)
Dự án đầu tư xây dựng hầm đường bộ qua Đèo Cả là dự trọng điểm quốc gia, trong điều kiện nguồn ngân sách khó khăn, để tạo điều kiện phát triển hạ tầng giao thông cho các tỉnh miền Trung, Bộ GTVT đã phối hợp với Nhà đầu tư và UBND các tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa triển khai Dự án theo hình thức hợp đồng BOT, BT. Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 47/QĐ-BGTVT ngày 06/01/2012 với tổng mức đầu tư là 15.603 tỷ đồng; sử dụng các trạm thu phí Bàn Thạch (Km1350+150), Đèo Cả (đặt trên đường dẫn phía Bắc hầm Đèo Cả) và Ninh An (Km1408 + 200) để hoàn vốn (Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số bản số 1309/TTg-KTN ngày 16/8/2013). Đối với trạm Ninh An, từ tháng 01/2016 được chuyển sang thu phí cho Dự án BOT mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Bắc Khánh Hòa.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 3874/VPCP-KTN ngày 28/5/2015, Bộ GTVT đã phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện rà soát tổng thể các trạm thu phí BOT trên các tuyến quốc lộ. Theo đó, trạm thu phí Bàn Thạch (Km1350+150) cách trạm thu phí Đèo Cả khoảng 4km (tuy nhiên, trạm thu phí Đèo Cả đặt trên đường dẫn cửa hầm phía Bắc nên các phương tiện có sự lựa chọn khi tham gia lưu thông), cách trạm thu phí Ninh An (Km1408+200) khoảng 54km là khá gần nhau, gây bất cập.
Trên cơ sở ý kiến thống nhất của UBND tỉnh Phú Yên (Thông báo số 769/TB-UBND ngày 14/11/2014) và Bộ Tài chính (văn bản số 11810/BTC-HCSN ngày 22/8/2014), Bộ GTVT đã có văn bản số 14907/BGTVT-ĐTCT ngày 24/11/2014 di dời trạm Bàn Thạch (Km1350+150) về vị trí Km1298 +150 (huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên); trạm Ninh An (Km1408 + 200) di dời về vị trí Km1425+050, đảm bảo khoảng cách giữa 2 trạm > 70km.
Việc áp dụng hình thức thu phí hở (thu phí theo lượt) tại trạm Bàn Thạch cũng như một số trạm thu phí hở khác chỉ đảm bảo được tính công bằng tương đối, một số phương tiện không đi qua hầm Đèo Cả vẫn phải trả phí, nhưng ngược lại một số phương tiện đi qua hầm Đèo Cả nhưng không qua trạm thu phí thì không phải mất phí.
213. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Sau khi triển khai nâng cấp Quốc lộ IA qua địa bàn tỉnh, nhiều đoạn đường chưa có lề, vỉa hè, nhiều nơi không có hệ thống thoát nước dọc, nước tràn vào nhà dân. Cử tri đề nghị Bộ quan tâm.
Trả lời: (Tại Công văn số 421/BGTVT- ngày 12/1/2017)
Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Phú Yên thuộc các dự án đầu tư xây dựng mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa đi Cần Thơ, được thiết kế xây dựng với quy mô thống nhất trên toàn tuyến như sau: Khu vực ngoài đô thị bề rộng nền đường Bnền = 20,5m, trong đó bề rộng lề đường mỗi bên là 0,5m; Khu vực qua khu đô thị bề rộng nền đường Bnền = 20,5m, hai bên xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước, không đầu tư xây dựng vỉa hè, cây xanh và hệ thống chiếu sáng (địa phương tự đầu tư xây dựng các hạng mục này); Dự án được Bộ GTVT giao Ban QLDA Thăng Long là Đại diện chủ đầu tư quản lý thực hiện. Dự án đã hoàn thành thi công theo đúng thiết kế được duyệt với các đoạn qua khu đô thị có xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước (hệ thống rãnh dọc và các cống ngang), được nghiệm thu, đưa vào khai thác từ cuối năm 2015. Theo Ban QLDA Thăng Long báo cáo, sau khi hoàn thành thi công dự án, có một số vị trí bị các hộ dân tái lấn chiếm hành lang đường bộ, đổ đất làm nhà sát đường, làm thay đổi hiện trạng xây dựng, ảnh hưởng đến năng lực thoát nước của công trình, khi có mưa lớn có thể gây ứ đọng nước và nước tràn vào nhà dân, ví dụ : Đoạn Km1288+030 - Km1288+225, Km1294+500 - Km1296, cống ngang đường Km1304+892… Về vấn đề này, Bộ GTVT đề nghị cơ quan chức năng địa phương tiến hành kiểm tra, tuyên truyền, yêu cầu các hộ dân khắc phục, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm và có biện pháp ngăn chặn. Về phía Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Ban QLDA Thăng Long phối hợp kiểm tra, xem xét xử lý các bất cập, tồn tại (nếu có), nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả khai thác dự án, đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của nhân dân trong khu vực dự án đi qua.
214. Cử tri tp Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri cho rằng, hiện nay mức phí đường bộ đối với xe ô tô khi qua các trạm thu phí thuộc các dự án BOT cao gấp nhiều lần so một số nước trong khu vực. Vấn đề này gây bức xúc cho người dân; làm tăng chi phí, gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải. Đề nghị Chính phủ xem xét lại vấn đề này, nhất là công tác quản lý, kiểm soát nguồn phí mà doanh nghiệp thu.
Trả lời: (Tại Công văn số 267/BGTVT- ngày 10/12/2016)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Trong quá trình chuẩn bị đầu tư dự án, thương thảo hợp đồng dự án, căn cứ tổng mức đầu tư dự án, mức phí trần do Bộ Tài chính ban hành để xác định mức phí cụ thể trên nguyên tắc Bộ GTVT và các Nhà đầu tư đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân, Nhà nước và khả năng hoàn vốn cho Nhà đầu tư, mức phí nằm trong khung mức phí được quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính. Mức thu cụ thể của từng trạm thu phí đều được Bộ Tài chính ban hành Thông tư riêng cho từng trạm thu phí. Các nội dung này đều được công khai minh bạch phục vụ người dân và doanh nghiệp tham gia lưu thông.
Mức phí sử dụng đường bộ trên Quốc lộ hiện nay của Việt Nam đối với xe con cơ sở là 35 nghìn đồng/lượt. So với suất đầu tư xây dựng đường bộ và lưu lượng xe lưu thông, mức thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay thì mức phí sử dụng đường bộ là phù hợp, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của người dân, doanh nghiệp tham gia giao thông và nhà đầu tư dự án BOT.
Các tuyến đường được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới đã mang lại nhiều lợi ích do rút ngắn được thời gian vận chuyển hàng hóa và hành khách; tiết kiệm nhiên liệu; giảm chi phí sửa chữa, khấu hao phương tiện; lợi ích mang lại cho người sử dụng lớn hơn so với mức phí người sử dụng phải đóng. Trong đó, chưa kể đến các lợi ích mang lại không định lượng được bằng tiền như giảm thiểu tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, rút ngắn thời gian đi lại (ví dụ, dự án cầu Cổ Chiên giúp rút ngắn 70 km từ Trà Vinh đi Thành phố Hồ Chí Minh).
215. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Cử tri đề nghị: Việc các cơ quan có thẩm quyền cấm các phương tiện ô tô lưu thông qua cầu Việt Trì cũ, trong khi chất lượng và niên hạn sử dụng vẫn còn 30 năm. Bên cạnh đó mức thu phí qua cầu Hạc Trì (mới) như hiện nay là quá cao, gây bức xúc cho người dân và làm ảnh hưởng đến việc đi lại.
Trả lời: (Tại Công văn số 1051/BGTVT - ngày 3/2/2017)
1. Về quản lý, khai thác cầu Việt Trì cũ:
- Để đảm bảo an toàn khai thác cầu Việt Trì và tổ chức phân luồng giao thông cầu Hạc Trì, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tổ chức kiểm định cầu Việt Trì để đánh giá tình trạng kỹ thuật và mức độ khai thác cầu. Sau khi xem xét báo cáo kết quả kiểm định cầu Việt Trì và ý kiến Hội đồng Khoa học công nghệ Bộ GTVT mặc dù năm 2013 Tổng công ty ĐSVN cũng đã tiến hành sửa chữa, tuy nhiên hiện tình trạng hệ mặt cầu bê tông của 2 làn đường bộ 2 bên cánh gà, khe co giãn vẫn xuất hiện hư hỏng cần thiết phải sửa chữa;
- Ngày 07/9/2015, Bộ GTVT đã có văn bản số 11921/BGTVT-KCHTGT giao Tổng công ty ĐSVN lập dự án sửa chữa và Tổng cục ĐBVN tổ chức phân luồng giao thông tạm thời cấm toàn bộ các phương tiện ô tô lưu thông qua cầu Việt Trì và phân luồng sang lưu thông qua cầu Hạc Trì;
- Ngày 22/9/2015, Tổng cục ĐBVN có văn bản số 5120/TCĐBVN-ATGT chỉ đạo Cục QLĐB I và Công ty CP BOT cầu Việt Trì tổ chức phân luồng giao thông tạm thời cấm toàn bộ xe ô tô qua cầu Việt Trì và phân luồng sang lưu thông qua cầu Hạc Trì theo chỉ đạo của Bộ GTVT bằng hệ thống biển báo giao thông tuy nhiên vẫn xuất hiện tình trạng các phương tiện ô tô qua lại cầu Việt Trì, vi phạm qui định của Tổng cục ĐBVN đặc biệt vào ban đêm;
- Ngày 19/2/2016, Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo Cục QLĐB I phối hợp với các cơ quan tổ chức lắp đặt ụ bê tông không cho ô tô qua cầu Việt Trì gây bức sức cử tri.
- Để giải quyết kiến nghị của cử tri, ngày 11/7/2016, Phó Thủ tướng Trịch Đình Dũng đã chủ trì kiểm tra tình hình khai thác cầu Việt Trì, cầu Hạc Trì. Ngày 21/7/2016, Văn phòng Chính phủ có Thông báo Kết luận số 187/TB-VPCP truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng giao Bộ GTVT, Bộ Xây dựng, UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức đánh giá về an toàn cầu Việt Trì và phương án tổ chức giao thông qua cầu Việt Trì, cầu Hạc Trì;
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng ngày 01/8/2016, Bộ GTVT ban hành Quyết định số 2385/QQĐ-BGTVT thành lập tổ công tác để triển khai thực hiện nhiệm vụ giao;
- Trên cơ sở báo cáo tổ công tác và đề nghị của Tổng cục ĐBVN. Ngày 16/8/2016, Bộ GTVT đã có văn bản số 9492/BGTVT-KCHT giao Tổng cục ĐBVN trước mắt tiến hành sửa chữa khẩn cấp cầu Việt Trì và quyết định tổ chức phân luồng giao thông qua cầu Việt Trì cho xe ô tô từ 7 chỗ trở xuống, xe máy, xe thô sơ được phép lưu thông qua cầu Việt Trì ngay sau khi thi công sửa chữa hoàn thành đồng thời, Bộ GTVT cũng đã báo cáo kết quả thực hiện lên Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại văn bản số 9916/BGTVT-ĐTCT ngày 25/8/2016.
2. Về mức thu phí qua cầu Hạc Trì mới như hiện nay là quá cao, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Về mức thu phí qua cầu Hạc Trì, Bộ GTVT và Nhà đầu tư BOT thực hiện theo các quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 và Thông tư số 81/2015/TT-BTC ngày 25/5/2015 của Bộ Tài chính. Về cơ bản mức thu phí qua cầu hạc Trì đã đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của người dân, doang nghiệp tham gia giao thông và Nhà đầu tư BOT.
- Hiện Bộ GTVT cũng đã giao Tổng cục ĐBVN và các cơ quan của Bộ GTVT phối hợp với Nhà đầu tư BOT tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong công tác thu phí và quyết toán dự án để xác định cụ thể kinh phí và thời gian hoàn vốn đối với dự án này. Trên cơ sở kết quả kiểm tra giám sát của Tổng cục ĐBVN, Bộ GTVT sẽ làm việc với Nhà đầu tư BOT để Nhà đầu tư xem xét điều chỉnh giá phí nếu đáp ứng được các điều kiện về hoàn vốn dự án theo quy định.
216. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan đến các dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng các tuyến quốc lộ 7, quốc lộ 48E, quốc lộ 7B, quốc lộ 15A qua địa bàn tỉnh Nghệ An, cần tập trung thi công những đoạn đường bị hư hỏng nặng tạo điều kiện đi lại của người dân trong vùng.
Trả lời: (Tại Công văn số 15783/BGTVT- ngày 30/12/2017)
Trong thời gian vừa qua, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở Giao thông vận tải Nghệ An và các đơn vị liên quan tăng cường công tác quản lý, bảo trì các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Nghệ An, trong đó có các tuyến quốc lộ 7, quốc lộ 48E, quốc lộ 7B, quốc lộ 15A, cụ thể như sau:
1. Đối với dự án quốc lộ 7
Dự án quốc lộ 7 đoạn từ Yên Thành đến Đô Lương thuộc dự án nâng cấp, mở rộng quốc lộ 7 đoạn Km0 – Km36 do Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm Chủ đầu tư được khởi công xây dựng từ tháng 12/2010. Thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Chính phủ, do chưa bố trí được nguồn vốn, dự án thuộc danh mục các dự án tạm dừng giãn tiến độ. Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã chỉ đạo các nhà thầu thực hiện việc đảm bảo giao thông và bàn giao cho Cục Quản lý Đường bộ II quản lý từ ngày 17/7/2013. Hàng năm, Cục Quản lý Đường bộ II đã thường xuyên thực hiện công tác quản lý, bảo trì tuyến đường, đảm bảo giao thông an toàn, thuận lợi trên tuyến.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ kiến nghị Chính phủ sớm bố trí nguồn vốn cho dự án để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành đoạn tuyến.
2. Đối với quốc lộ 48E và quốc lộ 7B
Quốc lộ 48E (chiều dài 213,35 km) và quốc lộ 7B (chiều dài 44,9 km) đang được quản lý khai thác, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên. Từ tháng 4/2016 nhiều đoạn tuyến đã thực hiện sửa chữa định kỳ và đột xuất, cụ thể:
- Quốc lộ 7B: Tiến hành sửa chữa nền, mặt đường một số đoạn: Km17+400 - Km18+00; Km19+250 - Km19+300; Km25+00 - Km25+150; Km31+400 - Km31+550; Km32+00 - Km32+200,.... với tổng kinh phí khoảng 2 tỷ đồng.
- Quốc lộ 48E: Tiến hành sửa chữa nền, mặt đường một số đoạn: Km140+400 - Km140+436, Km142+650 - Km142+675, Km142+980 - Km142+998, Km143+370 - Km143+420,... với tổng kinh phí khoảng 1 tỷ đồng.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Giao thông vận tải Nghệ An tăng cường công tác duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, triển khai kế hoạch sửa chữa năm 2017 đối với nền, mặt đường, gia cố lề quốc lộ 7B đoạn từ Km0 - Km22, Km31 - Km42+050 với tổng kinh phí khoảng 60 tỷ đồng; quốc lộ 48E đoạn từ Km26+200 - Km85+500; Km118+200 - Km125; Km139+500 - Km155+00; Km168 - Km189 với tổng kinh phí khoảng 142 tỷ đồng.
3. Đối với tuyến quốc lộ 15A
Quốc lộ 15A, đoạn đi qua địa bàn tỉnh Nghệ An có chiều dài là 135 km, trong đó có 19,84 km là đường cấp phối, còn lại là đường nhựa và bê tông nhựa. Thời gian vừa qua, Sở Giao thông vận tải Nghệ An đã tăng cường chỉ đạo công tác bảo dưỡng thường xuyên và sửa chữa định kỳ, đột xuất với tổng kinh phí thực hiện trong năm 2016 là 43,2 tỷ đồng để sửa chữa, khắc phục các hư hỏng trên tuyến; đồng thời trong năm 2016, đoạn từ Km315+00 - Km320+00 (qua khu di tích lịch sử Truông Bồn) đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng và hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng. Dự kiến đầu năm 2017 sẽ triển khai đầu tư nâng cấp, mở rộng QL15 đoạn từ Km301+00 - Km333+00 (trừ đoạn từ Km315+00 -Km320+00 đã được đầu tư), để từng bước đáp ứng nhu cầu vận tải và đi lại của nhân dân.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng Cục Đường bộ Việt Nam, Sở Giao thông vận tải Nghệ An và các đơn vị liên quan thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng các tuyến đường quốc lộ trên địa bàn tỉnh Nghệ An để kịp thời sửa chữa các đoạn đường bị hư hỏng đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, đáp ứng nhu cầu vận tải và đi lại của người dân trong vùng.
217. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT sớm triển khai giải ngân dự án đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận; giải quyết đền bù thỏa đáng một lần cho dân và bố trí nơi tái định cư để người dân ổn định nơi ở, an tâm sản xuất. Đồng thời, xem xét đến giá bồi thường đất như hiện nay còn quá thấp và các công trình phụ liền kề. Mặt khác, tuyến đường tránh thị xã Cai Lậy chủ đầu tư đang xây dựng các trạm thu trên tuyến Quốc lộ 1A là không hợp lý, bởi đây là tuyến giao thông không thu phí, kiến nghị xem xét lại vấn đề này.
Trả lời: (Tại Công văn số 1488/BGTVT- ngày 15/2/2017)
(1) Về nội dung liên quan đến dự án cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận:
Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận (sau đây gọi là Dự án) được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và ký hợp đồng đầu tư với Nhà đầu tư là Liên danh Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Tuấn Lộc - Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Yên Khánh - Công ty cổ phần đầu tư xây dựng BMT - Công ty TNHH tập đoàn Thắng Lợi - Công ty cổ phần Hoàng An - Công ty cổ phần đầu tư cầu đường CII (Hợp đồng số 14/HĐ.BOT-BGTVT ngày 18/11/2016).
Ngày 07/02/2015, Bộ GTVT đã phối hợp với UBND tỉnh Tiền Giang và Nhà đầu tư khởi động lại Dự án đồng thời, tiến hành ngay công tác giải phóng mặt bằng (GPMB). Hiện nay, Dự án còn vướng mắc do Nhà đầu tư chưa ký được hợp đồng tín dụng với ngân hàng, tuy nhiên, Nhà đầu tư đã giải ngân cho Dự án từ nguồn vốn chủ sở hữu để địa phương thực hiện việc chi trả bồi thường GPMB với kinh phí khoảng 442 tỷ đồng. Để triển khai dự án thành công, đảm bảo chất lượng, Bộ GTVT và Nhà đầu tư rất cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành địa phương, đặc biệt trong vấn đề GPMB. Với đặc thù dự án có phạm vi ảnh hưởng trên diện rộng (chiều dài tuyến trên địa bàn Tỉnh khoảng 51km), khối lượng công tác GPMB rất lớn, Bộ GTVT trân trọng đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh hỗ trợ để đẩy nhanh công tác GPMB dự án. Song song đó, Bộ GTVT sẽ quyết liệt chỉ đạo, phối hợp Nhà đầu tư xử lý những tồn tại để sớm ký được hợp đồng tín dụng với ngân hàng, đảm bảo đủ nguồn vốn triển khai dự án; trong khi chưa ký được hợp đồng tín dụng, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Nhà đầu tư giải ngân nguồn vốn chủ sở hữu để kịp thời chi trả tiền bồi thường GPMB theo đề nghị của địa phương.
Về việc tính toán chi phí bồi thường GPMB và bố trí tái định cư: Theo quy định của Chính phủ và Quyết định phê duyệt đầu tư dự án số 4145/QĐ-BGTVT ngày 31/10/2014 của Bộ trưởng Bộ GTVT, phương án tổ chức thực hiện công tác GPMB, tái định cư được tách thành dự án riêng do UBND tỉnh Tiền Giang triển khai thực hiện. Toàn bộ kinh phí liên quan đến công tác GPMB do UBND tỉnh Tiền Giang xác định và được lấy từ Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận. Do vậy, về nội dung liên quan đến bố trí tái định cư và giá bồi thường đất, các công trình phụ liền kề còn thấp như ý kiến của cử tri tỉnh Tiền Giang, đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang và UBND tỉnh Tiền Giang xem xét và trả lời kiến nghị của cử tri Tỉnh.
(2) Về nội dung liên quan đến trạm thu phí dự án tránh thị xã Cai Lậy:
QL.1 đoạn tránh thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang được Bộ GTVT cho phép lập dự án đầu tư từ năm 2009 (Quyết định số 2174/QĐ-BGTVT ngày 28/7/2009), tuy nhiên do khó khăn về vốn nên chưa triển khai được. Năm 2013, trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Tiền Giang và của Bộ GTVT, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1908/TTg-KTN ngày 11/11/2013 chấp thuận chủ trương đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT và Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư dự án tại Quyết định số 4173/QĐ-BGTVT ngày 19/12/2013. Dự án có điểm đầu tại Km1987+560, QL.1 thuộc địa phận huyện Cai Lậy; điểm cuối tại Km2014+000, QL.1 thuộc địa phận huyện Cái Bè; trong đó tuyến tránh QL.1 đoạn qua thị xã Cai Lậy (nằm bên trái QL.1) có điểm đầu tại Km1987+560, điểm cuối tại Km1998+661, có chiều dài khoảng 12km được đầu tư với quy đường cấp III - Đồng bằng, bề rộng nền đường 12m; phần QL.1 hiện tại có chiều dài khoảng 26,5km tiến hành bảo trì, tăng cường mặt đường.
Việc đặt trạm thu phí trên QL.1 hiện hữu (khoảng Km1999+300) để thu phí hoàn vốn đầu tư dự án QL.1 đoạn tránh thị xã Cai Lậy nhận được sự đồng thuận của UBND tỉnh Tiền Giang (văn bản số 5090/UBND-CN ngày 04/11/2013), của Hội đồng nhân dân tỉnh Tiền Giang (văn bản số 44/HĐND-KTNS ngày 04/11/2013), của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang (văn bản số 379/ĐĐBQH-VP ngày 06/11/2013) và của Bộ Tài chính (văn bản số 202/BTC-HCSN ngày 06/01/2014), đồng thời Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 30/2016/TT-BTC ngày 23/02/2016 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ trạm thu phí tại Km1999+300 QL.1, tỉnh Tiền Giang (điều chỉnh vị trí trạm từ Km1999+900 về Km1999+300 theo đề nghị của UBND tỉnh Tiền Giang tại văn bản số 4717/UBND-KTN ngày 02/10/2015). Bên cạnh đó, Dự án bao gồm việc đầu tư xây dựng 12km tuyến tránh thị xã Cai Lậy và bảo trì, tăng cường mặt đường QL.1 hiện hữu đoạn từ ngã ba Trung Lương đến cầu Mỹ Thuận (gồm 26,5km mặt đường QL.1 hiện hữu (Km1987+560÷ Km2014+000) đã đầu tư và đoạn còn lại đang chuẩn bị đầu tư theo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 589/TTg-KTN ngày 06/4/2016 về việc bổ sung hạng mục tăng cường mặt đường QL.1 đoạn ngã ba Trung Lương - cầu Mỹ Thuận vào dự án QL.1 đoạn tránh thị xã Cai Lậy). Do vậy, việc đặt trạm thu phí tại Km1999+300 đảm bảo tiêu chí nằm trong phạm vi dự án và đảm bảo khoảng cách tới các trạm thu phí lân cận trên cùng tuyến đường theo đúng quy định.
Trường hợp đặt trạm thu phí trên tuyến tránh thì có thể các phương tiện có xu hướng vẫn tiếp tục đi trên QL.1 hiện hữu (do không phải trả phí) và khi đó QL.1 sẽ tiếp tục xuống cấp, ùn tắc, mất an toàn giao thông và mục tiêu đầu tư tuyến tránh không phát huy hiệu quả; đồng thời, dự án sẽ không đảm bảo khả thi về mặt tài chính.
Liên quan đến việc đặt trạm thu phí trên QL.1, Bộ GTVT đã có văn bản số 12660/BGTVT-ĐTCT ngày 26/10/2016 trả lời ý kiến của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Sơn - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang (sao gửi kèm theo).
218. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Theo điểm a, khoản 7, điều 6 Nghị định 46 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt có hiệu lực từ ngày 1/8, người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự khi phạm lỗi “sử dụng chân chống hoặc vật khác quẹt xuống đường khi xe đang chạy” sẽ bị phạt tiền từ 2 đến 3 triệu đồng là chưa phù hợp, vì một số loại xe không có hệ thống tự tắt máy khi quên gạt chân chống. Cử tri đề nghị Quốc hội có ý kiến để Bộ Giao thông vận tải xem xét.
Trả lời: (Tại Công văn số 15695/BGTVT- ngày 29/12/2016)
Trước hết, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) xin trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri tỉnh Lâm Đồng đã góp ý về công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải. Đối với nội dung cử tri kiến nghị, Bộ GTVT xin trả lời như sau:
Về nguyên tắc, chân chống của xe mô tô, xe gắn máy (bao gồm chân chống giữa và chân chống ngang) bao giờ cũng được thiết kế và lắp đặt để vừa bảo đảm tính hợp lý, tính thuận tiện vừa bảo đảm tính an toàn cho cả phương tiện và người điều khiển phương tiện. Các chân chống khi lắp trên xe đều được bố trí bộ phận lò xo để kéo lên (theo hướng ngược với chiều xe chạy) và luôn giữ ở “chế độ không sử dụng”. Do đó, việc sử dụng chân chống để quẹt xuống đường khi xe đang chạy chỉ thực hiện được trong trường hợp người điều khiển phương tiện cố tình giữ chân chống ở “chế độ sử dụng” và kết hợp với điều khiển xe chạy nghiêng về phía có lắp chân chống ngang. Hành vi này, ngoài việc tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn giao thông còn làm hư hại mặt đường.
Trong trường hợp người điều khiển phương tiện quên không gạt chân chống ngang thì cũng chưa thể quẹt xuống mặt đường được, nếu như người điều khiển phương tiện không cố tình sử dụng để quẹt xuống mặt đường.
Với lý do trên, việc quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người thực hiện “hành vi sử dụng chân chống hoặc vật khác quẹt xuống đường khi xe đang chạy” tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP là cần thiết và đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công tác bảo đảm an toàn giao thông.
219. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, một số tiêu chí đặt ra vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù của mỗi vùng miền như quy định đường giao thông vùng nào cũng 3 mét là không phù hợp đặc biệt là miền núi và hải đảo. Đề nghị xem xét.
Trả lời: (Tại Công văn số 47/BGTVT- ngày 4/1/2017)
Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Bộ GTVT được giao nhiệm vụ hướng dẫn thực hiện nội dung “ Hoàn thiện đường giao thông trên địa bàn thôn, xã. Đến năm 2020 có ít nhất 55% số xã đạt tiêu chí số 2 về giao thông” được quy định tại Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
Để các địa phương có cơ sở thực hiện tiêu chí số 2 về giao thông, Bộ GTVT đã xây dựng và ban hành Quyết định số 4927/QĐ-BGTVT ngày 25/12/2014 về việc hướng dẫn lựa chọn quy mô kỹ thuật đường giao thông nông thôn phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 thay thế Quyết định số 315/QĐ-BGTVT ngày 23/02/2011 của Bộ GTVT về hướng dẫn lựa chọn quy mô kỹ thuật đường giao thông nông thôn phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Đây là hướng dẫn mở đối với từng loại đường (đường xã, đường trục thôn, đường ngõ xóm, đường trục chính nội đồng), phù hợp với mọi vùng miền trên cả nước, trên cơ sở hướng dẫn này các địa phương lựa chọn quy mô kỹ thuật cho phù hợp với yêu cầu thực tế để thực hiện. Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, đối với tiêu chí số 02 về giao thông đã quy định “ UBND cấp tỉnh quy định cụ thể để phù hợp với quy hoạch, điều kiện thực tế, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tính kết nối của hệ thống giao thông trên địa bàn”.
220. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Đề nghị đẩy mạnh hỗ trợ đầu tư hạ tầng giao thông nông thôn.
Trả lời: (Tại Công văn số 134/BGTVT- ngày 4/1/2017)
Theo quy định tại Luật Giao thông đường bộ và Luật Ngân sách, Bộ GTVT chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông vận tải địa phương, các địa phương chịu trách nhiệm đầu tư phát triển, quản lý khai thác và bảo trì, vì vậy vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông nông thôn (GTNT) thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương.
Bộ GTVT với trách nhiệm của mình đã hoàn thành “Chiến lược phát triển GTNT Việt Nam giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn đến 2030” trong đó đề ra khá đầy đủ các giải pháp, cơ chế chính sách cho từng vùng, miền để các tỉnh làm cơ sở xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển mạng lưới GTNT trên địa bàn.
Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của nhiều tỉnh còn khó khăn, ngân sách hạn hẹp (đặc biệt là một số tỉnh miền núi phía Bắc), những năm qua Chính phủ đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ các tỉnh xây dựng hệ thống GTNT tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân,thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng như: Chương trình hỗ trợ các địa phương mở đường tới xã chưa có đường ô tô bằng nguồn trái phiếu Chính phủ; chương trình 135; chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện theo Nghị quyết 30ª; chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới ..v.v... Bộ GTVT cũng đã tích cực huy động các nguồn vốn ODA để hỗ trợ các địa phương như: Dự án cầu GTNT vốn Nhật Bản; Dự án GTNT1; Dự án GTNT2 và Dự án GTNT3 (vốn vay WB/DFID). Đối với đặc thù vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 2529/QĐ-TTg ngày 31/12/2015 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 với nội dung chính: Thực hiện đầu tư xây dựng 4145 cầu, trong đó có 3.664 cầu cứng (dầm BTCT, thép) và 481 cầu treo với tổng mức đầu tư là 8.338,98 tỷ đồng trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số (trong đó tỉnh Yên Bái dự kiến được đầu tư 63 cầu với tổng mức đầu tư 157 tỷ đồng). Giai đoạn 1 của Chương trình “Đầu tư xây dựng 186 cầu treo dân sinh đảm bảo ATGT trên phạm vi 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên” đã hoàn thành, tỉnh Yên Bái được đầu tư xây dựng 8 cầu với kinh phí 29,875 tỷ đồng. Bộ GTVT đang tích cực làm việc với các nhà tài trợ trong và ngoài nước để huy động vốn thực hiện giai đoạn II của Chương trình, cụ thể:
- Nguồn huy động trong nước: Bộ GTVT đã phát động Chương trình nhịp cầu yêu thương để huy động vốn thực hiện Chương trình. Đến nay đã huy động được khoảng 381,989 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này, Bộ GTVT đã hỗ trợ tỉnh Yên Bái xây dựng thêm 6 cầu với kinh phí 24,0 tỷ đồng.
- Nguồn vay ODA: Bộ GTVT đã có Quyết định 622/QĐ-BGTVT ngày 02/3/2016 phê duyệt đầu tư Dự án Xây dựng cầu dân sinh và quản lý tài sản đường địa phương (LRAMP) với TMĐT: 435 triệu USD, trong đó vay WB: 385 triệu USD để xây dựng khoảng 2.174 cầu dân sinh trên địa bàn 50 tỉnh. Thông qua Dự án này, tỉnh Yên Bái dự kiến được đầu tư 49 cầu với kinh phí 103 tỷ đồng.
Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thành các thủ tục để triển khai Dự án, sớm hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
221. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri là nông dân các huyện miền núi biên giới cho rằng: Áp lực về đóng góp kinh phí đối với người dân ở vùng nông thôn nhằm hoàn thiện hạ tầng giao thông để xây dựng nông thôn mới là rất lớn, trong khi đó người dân ở nông thôn thu nhập thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn; do đó, cử tri ở nông thôn đề nghị nên xem xét nghiên cứu bổ sung chính sách hỗ trợ làm đường giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 48/BGTVT- ngày 4/1/2017)
Bộ GTVT thống nhất với kiến của cử tri trong quá trình xây dựng nông thôn mới cần ưu tiên hoàn thiện, nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn để kết nối hệ thống giao thông từ quốc lộ đến đường tỉnh, đường huyện, đường xã, vùng sâu, vùng xa đảm bảo giao thông thông suốt bốn mùa, tạo điều kiện đi lại cho nhân dân và thúc đẩy phát triển KT-XH của địa phương. Đường giao thông nông thôn cũng là một trong những tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng cho khu vực nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa nhất là các huyện có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thông qua các chương trình 134, 135, 30a, 30b, vốn ODA, vốn TPCP và các nguồn vốn huy động khác, bước đầu đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Hầu hết các tuyến đường huyết mạch và nhiều công trình trọng điểm đã và đang được đầu tư xây dựng đưa vào cấp, đến nay đã giải quyết cơ bản đường ô tô đến trung tâm các xã, cơ sở hạ tầng GTVT nhất là đường bộ đã được cải thiện một cách đáng kể, góp phần phát triển KT-XH và xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi với đồng bằng.
Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư cho khu vực nông thôn, miền núi, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong thời gian qua là nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng GTVT khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển vì khả năng thu hút các nguồn vốn của các địa phương ở khu vực này rất khó khăn, nguồn vốn đầu tư chủ yếu là ngân sách nhà nước.
Để giải quyết các nhu cầu bức xúc về giao thông ở các khu vực khó khăn cũng như phục vụ Chương trình xây dựng NTM, ngoài các chương trình mục tiêu đang triển khai như 30a, 30b, chương trình xây dựng đường tuần tra biên giới (do Bộ Quốc phòng đầu tư)… .Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông trên phạm vụ 50 tỉnh, thành phố theo quyết định số 477/QĐ-UBDT ngày 19/9/2013 của Ủy ban Dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ GTVT đã xây dựng hoàn thành 186 cầu treo dân sinh giai đoạn I để đáp ứng yêu cầu cấp bác, bảo đảm an toàn giao thông trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
Từ năm 2017 đến năm 2021 sẽ đầu tư xây dựng khoảng 2170 cầu dân sinh giai đoạn II tại 50 tỉnh và khôi phục cải tạo khoảng 676 km đường giao thông địa phương tại 14 tỉnh trong khuôn khổ Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và Quản lý tài sản đường địa phương” LRAMP vốn vay WB. Thực hiện Chiến lược phát triển GTNT Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 gắn với mục tiêu xây dựng NTM, Bộ GTVT đang cùng với các địa phương huy động mọi nguồn vốn kể cả nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ quốc tế để đầu tư, nâng cấp và mở rộng hệ thống đường giao thông địa phương để tăng khả năng kết nối với hệ thống giao thông trung ương, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của các địa phương, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn cả nước.
222. Cử tri tp Hà Nội kiến nghị: Đề nghị xem xét hiệu quả và chất lượng của Dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông do nhà thầu Trung Quốc thi công.
Trả lời: (Tại Công văn số 552/BGTVT- ngày 16/1/2017)
1. Về hiệu quả đầu tư của Dự án: Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông được xác định là dự án giao thông đô thị huyết mạch ở phía Tây thành phố Hà Nội, việc triển khai đầu tư dự án này nhằm từng bước thực hiện Quy hoạch phát triển giao thông thành phố Hà Nội đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần giảm ách tắc giao thông và ô nhiễm môi trường đô thị; tiết kiệm thời gian đi lại của người dân và giảm thiểu chi phí hoạt động của các phương tiện cá nhân.... Đến nay, theo kết quả rà soát, phân tích, đánh giá cho thấy Dự án sẽ góp phần tích cực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội; đồng thời đây cũng là định hướng phát triển của các đô thị hiện đại có tính bền vững cao, thân thiện với môi trường.
2. Về chất lượng của dự án:
Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông là công trình cấp đặc biệt, được thi công giữa nội thành của thành phố Hà Nội, vì vậy, ngoài công tác đảm bảo an toàn lao động, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và phòng chống cháy nổ trong quá trình thi công, Bộ GTVT còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề chất lượng để đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình khai thác vận hành sau này. Bộ GTVT đã thường xuyên chỉ đạo Ban QLDA đường sắt, Tư vấn giám sát, Tổng thầu và các đơn vị liên quan tuân thủ các quy định hiện hành về quản lý chất lượng công trình cũng như tuân thủ các khung tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Mặt khác, đây cũng là dự án nằm trong danh mục các công trình trọng điểm quốc gia do Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng (HĐNTNN) kiểm tra công tác nghiệm thu nên trong quá trình thi công HĐNTNN thường xuyên kiểm tra định kỳ cũng như đột xuất chất lượng thi công của Dự án. Theo báo cáo của HĐNTNN, sau các đợt kiểm tra thi công tại Dự án, đối với các hạng mục đã thi công tại công trường đều đáp ứng các yêu cầu chất lượng đề ra, các kết quả thí nghiệm kiểm tra tại hiện trường đều đạt yêu cầu.
223. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ sớm xem xét, cân đối vốn tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh tuyến Quốc lộ 50 đoạn Chợ Gạo – Cần Đước, qua địa bàn tỉnh Long An nhằm giảm ùn tắc, tránh tai nạn giao thông, tạo thuận lợi cho người dân khi tham gia lưu thông trên tuyến quốc lộ này, nâng cao hiệu quả đầu tư Quốc lộ 50.
Trả lời: (Tại Công văn số 2782/BGTVT-KHĐT - ngày 17/3/2017)
Tuyến Cần Đước – Chợ Gạo là tuyến đường địa phương do Ủy ban nhân dân tỉnh tỉnh Long An quản lý, không phải tuyến Quốc lộ 50 như kiến nghị của cử tri. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã có Quyết định số 3179/QĐ-UBND ngày 11/10/2011 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình đường Cần Đước – Chợ Gạo, tuy nhiên do thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, đến nay dự án chưa được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An bố trí nguồn vốn để triển khai.
224. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri có ý kiến: “Đoạn đường Quốc lộ 1A khu vực xã Nhị Quý và Ngã ba An Cư có nhiều chỗ xuống cấp rất trầm trọng gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông. Kiến nghị Bộ quan tâm, có kế hoạch sớm sửa chữa để người tham gia giao thông thuận lợi và an toàn, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán sắp đến.
Trả lời: (Tại Công văn số 3262/BGTVT-KCHT - ngày 29/3/2017)
- Do ảnh hưởng của các cơn bão cuối năm 2016, mặt đường các đoạn Km1985+400 - Km1985+600 (ngã ba Nhị Quý - bên trái tuyến, giao giữa QL.1 với ĐT.874B) và đoạn Km2007+000 - Km2007+200 (ngã ba An Cư - bên phải tuyến, giao giữa QL.1 với ĐT.869, thuộc dự án BOT Cai Lậy) bị hư hỏng cục bộ.
- Hiện nay, các đoạn khu vực ngã ba xã Nhị Quý đã được Cục QLĐB IV đã sửa chữa khắc phục bão lũ ĐBGT bước 1, hiện đoạn tuyến này đảm bảo êm thuận; đoạn khu vực ngã ba An Cư đã được nhà đầu tư BOT tuyến tránh Cai Lậy đã thảm tăng cường mặt đường đảm bảo giao thông qua khu vực êm thuận.
2. Kiến nghị Bộ xem xét lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông ở khu vực ngã ba Đông Hòa (Quốc lộ 1A) để nhân dân đi lại thuận tiện hơn tránh tai nạn giao thông; đồng thời, gắn biển báo giảm tốc độ trên tuyến Quốc lộ 1A (đoạn ngã ba Nhị Bình). Bởi, lưu lượng xe qua lại tại các đoạn giao thông này là rất nhiều.
Về vấn đề này, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Tại Km1978+500 QL.1 (ngã ba Đông Hòa, bên trái tuyến, giao giữa QL1 với ĐT876) hiện đã có hệ thống đèn cảnh báo chớp vàng do Ban ATGT huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang khai thác sử dụng nhưng hiện nay không hoạt động. Cục QLĐB IV đã có đề nghị địa phương khắc phục nhằm đảm bảo an toàn giao thông.
- Đoạn Km1980+500 - Km1980+600 QL 1 (khu vực ngã ba Nhị Bình, bên phải tuyến, giao giữa QL1 với ĐH37): hiện nay đã lắp đặt biển báo số hiệu 445g - "Đoạn đường hay xảy ra tai nạn giao thông" tại Km1977+500 (P), Km1980+000 (T) và Km1987+000 (P) theo đề nghị của Phòng Cảnh sát giao thông và Ban An toàn giao thông tỉnh Tiền Giang.
225. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ cho biết khi nào sẽ thông xe chính thức và giải pháp an toàn giao thông đối với tuyến tránh này? Bởi, hiện tại tuyến tránh Quốc lộ 1A đoạn đi qua thị xã Cai Lậy đã thi công xong, chưa đưa vào sử dụng chính thức nhưng đã có nhiều tai nạn xảy ra.
Trả lời: (Tại Công văn số 3088/BGTVT-CQLXD - ngày 27/3/2017)
Dự án đầu tư xây dựng công trình Quốc lộ 1 đoạn tránh thị trấn Cai Lậy và tăng cường mặt đường đoạn Km1987+560 – Km2014+000, tỉnh Tiền Giang theo hình thức hợp đồng BOT được đầu tư 2 đoạn tuyến chính, thảm tăng cường 26,5km mặt đường QL.1 hiện hữu và đoạn tránh thị xã Cai Lậy được đầu tư mới 12,02km đường và 5 cầu.
Phần tuyến tăng cường trên QL.1 đã hoàn thành và thông xe vào 31/12/2015; đoạn tuyến tránh thị xã Cai Lậy thông xe tạm từ dịp Tết Nguyên đán 2017 đến nay, góp phần rất lớn trong việc điều tiết, phân luồng tránh tình trạng ùn tắc, kẹt xe trên QL.1 (đặc biệt là đoạn qua thi xã Cai Lậy) như những năm trước.
Hiện tại, các hạng mục chính của Dự án đã hoàn thành, riêng Trạm thu phí và Nhà điều hành thì địa phương chưa bàn giao xong mặt bằng để tiếp tục thi công (còn vướng 07 hộ và 01 cây xăng). Theo kế hoạch, địa phương sẽ bàn giao mặt bằng cho Nhà đầu tư trong tháng 3/2017 và thời gian cần thiết để thi công các hạng mục còn lại là 03 tháng. Tuy nhiên, Bộ GTVT đã chỉ đạo Nhà đầu tư tập trung nguồn lực, triển khai thi công hoàn thành tất cả các khối lượng còn lại của dự án trước 30/5/2017 (trong trường hợp được bàn giao mặt bằng đúng kế hoạch).
Về giải pháp đảm bảo an toàn giao thông đối với tuyến tránh: Hạng mục ATGT tuyến tránh của Dự án đã được thiết kế theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành. Trong quá trình triển khai, trên cơ sở đề nghị của địa phương, Bộ GTVT đã đồng ý cho Nhà đầu tư bổ sung đèn tín hiệu để điều tiết giao thông (tại nút giao đầu, cuối tuyến tránh; nút giao giữa tuyến tránh với Tỉnh lộ 868 và một số vị trí khác...) để tăng tính an toàn trong quá trình sử dụng; trước khi đưa công trình vào khai thác chính thức sẽ hiện công tác thẩm tra, thẩm định ATGT theo quy định hiện hành.
Ngoài ra, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mất ATGT hiện nay trên tuyến tránh là tình trạng tái lấn chiếm mặt bằng, xây dựng trái phép trong hành lang an toàn đường bộ (có 38 hộ tái lấn chiếm mặt bằng và 95 hộ xây dựng trong phạm vi hành lang an toàn đường bộ, 02 cây xăng xây dựng chưa có thỏa thuận với cơ quan chức năng theo quy định).
Thông qua đây, Bộ GTVT kính mong Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang có sự hỗ trợ trong quá trình làm việc với các cơ quan liên quan của địa phương để giải quyết các vướng mắc, tồn tại nêu trên, sớm đưa Dự án vào khai thác nhằm giải quyết tình trạng ách tắc, mất an toàn giao thông trên địa bàn thị xã Cai Lậy nói riêng, góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Tiền Giang và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
226. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị quan tâm đầu tư xây dựng tuyến đê ngăn triều và kè chống sạt lở phía bờ Bắc kênh Chợ Gạo (đoạn từ xã Long Điền đến Tân Mỹ Chánh, Lộ Vàm. Bởi, trước đây khu vực này nằm trong dự án kênh Chợ Gạo, sau đó Bộ GTVT điều chỉnh lại dự án nên bỏ ra. Hiện nay đoạn này sạt lở trầm trọng, ảnh hưởng đến việc đi lại và phát triển kinh tế của nhân dân”.
Trả lời: (Tại Công văn số 3977/BGTVT-KHĐT - ngày 14/4/2017)
Dự án Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo được Bộ trưởng Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 3178/QĐ-BGTVT ngày 30/10/2009 sử dụng vốn Trái phiếu Chính phủ với tổng mức đầu tư 4.221 tỷ đồng (kinh phí GPMB là 1.267 tỷ đồng) để đầu tư với quy mô đạt cấp II kỹ thuật đường thủy nội địa với chiều rộng đáy luồng B=80m, độ sâu chạy tàu B=4,0 m. Dự án được duyệt có tuyến đê bờ Bắc kênh Chợ Gạo và không có hạng mục đê ngăn triều.
Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, Bộ GTVT đã điều chỉnh dự án tại Quyết định số 1738/QĐ-BGTVT ngày 21/6/2013 với tổng mức đầu tư 2.263 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 (thực hiện năm 2015) có tổng mức đầu tư 786,8 tỷ đồng (kinh phí GPMB 211 tỷ đồng) với mục tiêu thông luồng kỹ thuật, kè bờ một số đoạn xung yếu tại bờ Bắc, bờ Nam; nạo vét một số đoạn cạn để tàu trọng tải 800 tấn đến 1.000 tấn lợi dụng thủy triều có thể hành thủy. Giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư 1.476,78 tỷ đồng, dự kiến thực hiện 2016÷2017.
Giai đoạn 1 của Dự án đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng năm 2015, góp phần cải thiện năng lực vận tải thủy trên tuyến, chống xói lở một số đoạn bờ kênh xung yếu trong đó có một phần bờ Bắc kênh Chợ Gạo, đảm bảo an sinh xã hội cho nhân dân vùng dự án. Do nguồn vốn khó khăn, Giai đoạn 2 của Dự án đang thực hiện các thủ tục đầu tư theo hình thức xã hội hóa. Bộ GTVT đã ủy quyền cho Cục ĐTNĐ Việt Nam là cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn nhà đầu tưđể triển khai thực hiện.
Đối với đề xuất của cử tri Tỉnh Tiền Giang về việc xây dựng tuyến đê bờ Bắc kênh Chợ Gạo và đê ngăn triều, Bộ GTVT ghi nhận và giao Cục ĐTNĐ Việt Nam nghiên cứu trong quá trình lập, triển khai giai đoạn 2 của Dự án Nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo theo quy định.
227. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ lắp đặt cống thoát nước trên Quốc lộ 1A đoạn Trạm dừng chân Minh Phát 2 - 3; nạo vét 02 cống cặp Quốc lộ 1A khu vực 02 bên cầu Ông Hưng để đảm bảo an toàn giao thông và vệ sinh môi trường cho khu vực này, nhất là vào mùa mưa.
2. Kiến nghị Bộ lắp đặt cống thoát nước trên Quốc lộ 1A đoạn Trạm dừng chân Minh Phát 2 - 3; nạo vét 02 cống cặp Quốc lộ 1A khu vực 02 bên cầu Ông Hưng để đảm bảo an toàn giao thông và vệ sinh môi trường cho khu vực này, nhất là vào mùa mưa..
Trả lời: (Tại Công văn số 3262/BGTVT-KCHT - ngày 29/3/2017)
- Đoạn Km2015+000 - Km2015+500 (đoạn trạm dừng nghỉ Minh Phát 2-3): hiện đoạn tuyến này đã được Chủ đầu tư trạm dừng nghỉ Minh Phát 2 -3 xử lý thoát nước, do vậy không còn hiện tượng ngập úng; ngoài ra, Chủ đầu tư đã lắp thêm đèn chiếu sáng, đèn chớp vàng, biển báo ATGT tại khu vực này để đảm bảo ATGT.
- Đoạn Km2015+500 - Km2015+900 (khu vực hai đường dẫn vào cầu Ông Hưng - Km2015+752): hiện đã có rãnh thoát nước dọc, mặc dù đơn vị quản lý bảo trì thường xuyên nạo vét, vệ sinh nhưng do người dân hay xả rác làm ảnh hưởng thoát nước khi mưa lớn. Cục QLĐB IV đã đề nghị địa phương tuyên truyền vận động nhân dân không xả rác vào hệ thống thoát nước. Mặt khác, Cục QLĐB IV đã chỉ đạo nhà thầu quản lý bảo trì hoàn thành công tác nạo vét, khơi thông rãnh để đảm bảo thoát nước.
228. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri lại tiếp tục kiến nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường N2 (đoạn từ thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười đến thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh), đầu tư nâng cấp tuyến Quốc lộ 30 (đoạn giáp ranh huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đến thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp); sớm thi công tuyến Quốc lộ 30 (đoạn Thành phố Cao Lãnh đến Thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp); đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án nâng cấp, sửa chữa Quốc lộ 80 đoạn Lấp Vò – Vàm Cống; sớm hoàn thành Quốc lộ 54 nối liền tỉnh Đồng Tháp với Vĩnh Long để đảm bảo lưu thông hàng hóa và an toàn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 3089/BGTVT-CQLXD - ngày 27/3/2017)
- Về tuyến đường N2 đoạn Mỹ An – Mỹ Thọ và QL80 đoạn Lấp Vò – Vàm Cống
Đường N2 đoạn đi qua xã Mỹ An, huyện Tháp Mười đến thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh (một phần của tuyến đường Hồ Chí Minh Km2300+000 – Km2323+417) được Bộ GTVT đầu tư xây dựng hoàn thành năm 2013. QL80 đoạn Km0+000 – Km50+857 đi qua các tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp được Bộ GTVT đầu tư cải tạo, nâng cấp hoàn thành năm 2011. Hiện nay, các đoạn tuyến này do Cục Quản lý Đường bộ IV thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Trong những năm gần đây, tại các đoạn tuyến này không có Dự án đầu tư nâng cấp, sửa chữa lớn mà chủ yếu là công tác sửa chữa định kỳ hoặc sửa chữa đột xuất, khắc phục các hư hỏng cục bộ mặt đường; xây dựng bổ sung hệ thống thoát nước, hệ thống báo hiệu giao thông… để tăng cường khả năng khai thác tuyến từ nguồn vốn bảo dưỡng thường xuyên và Quỹ bảo trì đường bộ, các công tác này đã được thi công hoàn thành, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu.
Do QL80 và N2 là các tuyến quốc lộ huyết mạch từ Tp. Hồ Chí Minh đi các tỉnh miền Tây Nam Bộ nên Cục Quản lý Đường bộ IV đã thường xuyên, liên tục kiểm tra đôn đốc đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm túc việc quản lý, bảo trì theo đúng quy định, đảm bảo an toàn công trình và an toàn giao thông trên tuyến.
- Về QL30 đoạn Cái Bè (tỉnh Tiền Giang) – Tp. Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp)
Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến QL30 (đoạn từ Km1+200 - Km34+230) qua 02 tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp theo hình thức hợp đồng BOT (Dự án) đã được Bộ GTVT triển khai ký hợp đồng với Nhà đầu tư để thực hiện từ tháng 4/2016. Trong quá trình triển khai do có một số vướng mắc nên Nhà đầu tư chưa ký được Hợp đồng vay vốn với Nhà cung cấp tín dụng để thực hiện Dự án. Để giải quyết những tồn tại, Bộ GTVT đã chấp thuận về nguyên tắc việc chuyển nhượng vốn điều lệ trong Doanh nghiệp dự án.
Xác định được tính chất quan trọng của Dự án là để kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với Dự án kết nối trung tâm đồng bằng sông Mê kông (cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống và tuyến nối hai cầu), sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết để cơ cấu lại Liên danh Nhà đầu tư, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp Chủ đầu tư triển khai ngay công tác thực hiện đầu tư theo quy định.
- Về QL30 đoạn Tp. Cao Lãnh – thị xã Hồng Ngự
Dự án nâng cấp, mở rộng QL30 đoạn Cao Lãnh – Hồng Ngự đã được Bộ GTVT đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ để hoàn thành các dự án đang triển khai dở dang nên không thể cân đối được cho Dự án này; nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016 – 2020 đã được Quốc hội thông qua chủ trương sử dụng cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tưởng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định. Sau khi có được sự chấp thuận, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện Dự án để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Về QL54 nối liền tỉnh Đồng Tháp với Vĩnh Long
Quốc lộ 54 bắt đầu từ huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến thị xã Trà Vinh, dài 153 km, đi qua 03 tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long và Trà Vinh. Đối với đoạn qua địa phận tỉnh Đồng Tháp, Bộ GTVT đã phê duyệt và phê duyệt điều chỉnh Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 54 (giai đoạn II) để hoàn chỉnh toàn tuyến với quy mô đường cấp IV đồng bằng; nguồn vốn sử dụng từ ngân sách Nhà nước; giao cho Sở Giao thông Vận tải tỉnh Đồng Tháp làm Chủ đầu tư; thời gian hoàn thành Dự án là tháng 6/2017.
Trong những tháng vừa qua do tác động của thời tiết nên tiến độ công trình bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Chủ đầu tư đang chỉ đạo Tư vấn giám sát, Nhà thầu huy động nhân lực, vật tư, máy móc thiết bị triển khai thi công hoàn thành các hạng mục còn lại đảm bảo chất lượng công trình.
229. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Cử tri cho rằng hệ thống giao thông xuống cấp, thường xuyên gây tai nạn. Đề nghị Bộ, ngành quan tâm đầu tư sửa chữa nâng cấp Quốc lộ 27 đoạn từ huyện Cư Kuin đến tiếp giáp địa phận tỉnh Lâm Đồng. Sửa chữa tuyến đường từ QL26 (tỉnh Đắk Lắk) đi đến địa phận tỉnh Phú Yên, đồng thời nâng cấp tuyến đường này thành quốc lộ 19C.
Trả lời: (Tại Công văn số 3287/BGTVT - KCHT – ngày 30/3/2017)
1. Quốc lộ 27 là tuyến nối từ Buôn Ma Thuột đi tỉnh Lâm Đồng, trong đó đoạn từ huyện Cư Kuin đến tiếp giáp địa phận tỉnh Lâm Đồng, dài khoảng 63km. Hàng năm Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam bố trí kinh phí để duy tu, sửa chữa kịp thời hư hỏng trên toàn bộ tuyến Quốc lộ 27, trong đó có đoạn tuyến này, để đảm bảo an toàn giao thông và thuận lợi cho các phương tiện lưu thông. Trong đó, kinh phí thực hiện các năm 2015 và 2016 trên trên QL.27 qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk (không bao gồm sửa chữa thường xuyên): Năm 2015: kinh phí 18.788 tỷ đồng; Năm 2016: kinh phí 23.200 tỷ đồng. Trong năm 2017, Bộ GTVT đã chấp thuận kế hoạch bảo trì đường bộ với kinh phí 38 tỷ đồng; Đồng thời, Bộ GTVT đã có văn bản số 11257/BGTVT-KCHT ngày 27/9/2016 chấp thuận bổ sung trong kế hoạch bảo trì năm 2017 sửa chữa hư hỏng nền, mặt đường đoạn Km81+500 - Km88+00, QL.27 với kinh phí 15 tỷ đồng. Bộ GTVT cũng đã yêu cầu Tổng cục ĐBVN sớm triển khai thực hiện kế hoạch bảo trì đường bộ năm 2017 đã được Bộ GTVT chấp thuận.
- Về việc đầu tư nâng cấp QL.27: Bộ GTVT đã tổng hợp dự án đầu tư, nâng cấp QL.27 qua địa phận tỉnh Đắk Lắk vào danh mục các dự án đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
2. Tuyến đường từ Quốc lộ 26 (tại Km66+400, QL.26, tỉnh Đắk Lắk) đi đến địa phận tỉnh Phú Yên (tại điểm Km151+050, QL.19C) trước đây là Tỉnh lộ 13B, tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay, tuyến đường này gồm hai đoạn:
- Đoạn 1: nối từ Quốc lộ 26 (Km66+400/QL.26) đi trùng với đường Trường Sơn Đông từ Km517+720-Km519+300. Hiện trạng đoạn tuyến trùng với đường Trường Sơn Đông được Tổng cục Đường bộ Việt Nam quản lý đang khai thác bình thường, đảm bảo an toàn giao thông.
- Đoạn 2: từ điểm giao với đường Trường Sơn Đông tại Km517+720 đường Trường Sơn Đông đến điểm giáp ranh tỉnh Phú Yên (giao với Quốc lộ 19C tại Km151+050, QL.19C) với chiều dài khoảng 26,9 km đã được nâng cấp thành Quốc lộ 19C theo Quyết định số 506/QĐ-BGTVT ngày 22/02/2016 của Bộ Giao thông vận tải. Đoạn tuyến này hiện tương ứng với lý trình Km151+050 – Km177+950, QL.19C đã bị hư hỏng nặng, ảnh hưởng đến an toàn giao thông. Bộ GTVT đã có văn bản số 15638/BGTVT-KCHT ngày 28/12/2016 chấp thuận sửa chữa, nền mặt đường, hệ thống thoát nước, an toàn giao thông đoạn Km151+050 – Km177+950, QL.19C qua địa phận tỉnh Đắk Lắk với tổng kinh phí dự kiến khoảng 50 tỷ đồng. Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang triển khai thực hiện sửa chữa đoạn tuyến này..
230. Cử tri tỉnh Đăk Lăk kiến nghị: Cử tri cho rằng công tác quản lý đoạn đường QL14 đi qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk còn nhiều bất cập, như: chưa gắn biển báo, đèn tín hiệu giao thông, hệ thống thoát nước, dải phân cách chưa hợp lý, tình trạng lấn chiếm lòng lề đường để buôn bán, một số điểm đen" rất nguy hiểm dễ gây tai nạn giao thông. Cử tri đề nghị các ngành chức năng sớm giải quyết dứt điểm trình trạng nêu trên.
Trả lời: (Tại Công văn số 3319/BGTVT - KCHT - ngày 30/3/2017)
- Về việc xử lý điểm đen, điểm mất an toàn giao thông: Thời gian vừa qua, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã và đang khắc phục sửa chữa các vị trí điểm đen trên tuyến Quốc lộ 14 qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể, Tổng cục ĐBVN đã khắc phục sửa chữa điểm đen đoạn Km707-Km712, QL.14 và đang triển khai xử lý điểm đen Km725+464-Km733+800, QL.14. Bộ GTVT cũng đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN, Ban QLDA đường Hồ Chí Minh xử lý 02 điểm mất an toàn giao thông tại Km1714+150 và Km1720+395,QL.14.
- Về việc rà soát, xử lý các bất cập vệ hệ thống an toàn giao thông, hệ thống thoát nước: Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ III (đơn vị đường bộ trực tiếp quản lý Quốc lộ 14) bổ sung 13 biển cảnh báo nguy hiểm các vị trí có nguy cơ mất ATGT, bổ sung 675m hộ lan mềm, tháo dỡ dải phân làn bằng thép và phân làn bằng vạch sơn; đồng thời bổ sung biển báo đoạn Km707-Km712, QL.14, tỉnh Đắk Lắk bao gồm 6 bộ biển lắp đặt trên cần vươn và 40 biển lắp đặt trên vỉa hè, đồng thời đã chỉ đạo tháo dỡ 180 bộ biển báo trên QL.14 phạm vi tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông do không phù hợp quy chuẩn 41/2016.
- Trong quá trình quản lý khai thác, Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN, Ban QLDA đường Hồ Chí Minh tiếp tục rà soát các điểm đen và điểm tiểm ẩn tai nạn giao thông, đồng thời rà soát, xử lý các bất cập về tổ chức giao thông, hệ thống an toàn giao thông (biển báo, đèn tín hiệu, dải phân cách, … và hệ thống thoát nước trên Quốc lộ 14 để có kế hoạch xử lý để đảm bảo an toàn giao thông.
231. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ảnh, một số công trình giao thông ở An Giang từ nguồn vốn đầu tư của Trung ương thi công chậm hoặc chưa khởi động, cụ thể như: cầu Châu Đốc–Tân Châu đã làm lễ khởi công đến nay trên 1 năm và công trình Kè bờ sông Châu Đốc, địa phương đã tiến hành giải phóng mặt bằng, nhưng 2 công trình này chưa được thi công. Công trình cầu Long Bình-Nước bạn Camphuchia và cầu Tân An, tiến độ thi công chậm…Đề nghị Bộ giao thông vận tải sớm đầu tư nguồn vốn và tăng cường giám sát, đôn đốc nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công.
Trả lời: (Tại Công văn số 3085/BGTVT-QLXD - ngày 27/3/2017)
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh An Giang, Bộ GTVT đang triển khai 02 dự án là công trình cầu Châu Đốc và công trình cầu Long Bình - Chrey Thom. Quá trình triển khai thực hiện như sau:
- Về công trình cầu Châu Đốc:
Để hoàn chỉnh mạng lưới giao thông đường bộ trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Bộ GTVT đã nghiên cứu và quyết định thực hiện đầu tư Dự án xây dựng công trình cầu Châu Đốc, tỉnh An Giang theo hình thức Hợp đồng BOT (không có sự tham gia nguồn góp vốn của Nhà nước). Đây cũng là nguyện vọng chung của các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang. Ngày 12/12/2015, Bộ GTVT đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang để tổ chức lễ khởi động dự án với mục tiêu thông tin trước để người dân khu vực dự án biết phối hợp, đồng thuận trong công tác GPMB và cùng tham gia giám sát trong quá trình thực hiện.
Dự án đầu tư xây dựng cầu Châu Đốc thực hiện theo hình thức BOT nên phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ, Dự án thực hiện theo 02 bước, bước 01 sơ tuyển quốc tế (đã kết thúc tháng 9/2016 và chỉ có 01 nhà đầu tư qua vòng sơ tuyển) bước 2 đấu thầu nhà đầu tư theo hình thức chỉ định thầu. Hiện nay, Ban QLDA 7 đã tiến hành phát hành Hồ sơ yêu cầu, theo quy định về trình tự thủ tục thì dự kiến trong tháng 4/2017 hoàn thành việc lựa chọn nhà đầu tư và sẽ hoàn tất các thủ tục cần thiết khác để khởi công dự án trong Quý II/2017 sau khi hoàn tất các thủ tục theo quy định.
- Về công trình cầu Long Bình - Chrey Thom nối hai tỉnh An Giang (Việt Nam) và tỉnh Kandal (Campuchia):
Dự án xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom nối hai tỉnh An Giang (Việt Nam) và tỉnh Kandal (Campuchia) có tổng mức đầu tư 799,528 tỷ đồng, trong đó bờ phía Việt Nam được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước với kinh phí là 373,2 tỷ đồng, bờ phía Campuchia được đầu tư bằng nguồn vốn do Chính phủ Việt Nam cho Chính phủ Campuchia vay ưu đãi. Trong quá trình triển khai thực hiện, do có khó khăn về việc bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước nên tiến độ triển khai dự án đã chậm hơn so với kế hoạch.
Đến nay, nguồn vốn ngân sách nhà nước đã được bố trí 290 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2017 được bố trí 100 tỷ đồng. Hiện nay, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung phần kinh phí còn thiếu để hoàn thành dự án trong kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2010. Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện dự kiến hoàn thành dự án trong tháng 4/2017.
232. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm đầu tư các công trình: cầu bắt ngang Sông tiền Tân Châu-Hồng Ngự (Đồng Tháp); cầu Thị trấn An Phú – bắt ngang 3 xã bờ Đông (Vĩnh Lộc, Vĩnh Hậu, Phú Hữu) để nhân dân đi lại dễ dàng, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
233. Cử tri phản ảnh, hiện nay cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh còn nhiều nơi đã xuống cấp không đảm bảo an toàn giao thông..trong khi ngân sách địa phương không có. Đề nghị Trung ương quan tâm đầu tư để địa phương sớm thi công.
Trả lời: (Tại Công văn số 2778/BGTVT-KHĐT - ngày 17/1/2017)
Và Công văn số 3226/BGTVT-KH ĐT ngày 29/3/2017
- Về kiến nghị đầu tư cầu nối hai huyện Tân Châu và Hồng Ngự (Đồng Tháp): Đây là công trình nằm trên tuyến N1, bắc qua sông Tiền có quy mô đầu tư, kinh phí đầu tư xây dựng rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp, lưu lượng vận tải trên tuyến không cao nên giai đoạn trước mắt vẫn phải duy trì qua sông bằng phà. Hiện nay, UBND tỉnh An Giang đang triển khai nâng cấp bến phà Tân Châu – Hồng Ngự hiện hữu để đáp ứng nhu cầu vận tải giai đoạn trước mắt, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung. Khi điều kiện nguồn lực cho phép, nhu cầu vận tải tăng cao, Bộ GTVT sẽ nghiên cứu, tìm kiếm nguồn vốn đầu tư xây dựng cầu nối hai huyện Tân Châu và Hồng Ngự, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
- Về kiến nghị đầu tư xây dựng cầu thị trấn An Phú – bắt ngang 3 xã bờ Đông (Vĩnh Lộc, Vĩnh Hậu, Phú Hữu): Bộ GTVT thống nhất về sự cần thiết đầu tư xây dựng công trình này để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại, thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, đây là công trình do địa phương quản lý và đầu tư, theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT không thể đầu tư cho công trình này. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh An Giang chủ động cân đối nguồn vốn để triển khai thực hiện, đồng thời trả lời ý kiến của cử tri về nội dung nêu trên theo thẩm quyền.
Bộ GTVT thống nhất với kiến của cử tri về việc cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh nhiều nơi đã xuống cấp không đảm bảo an toàn giao thông nên cần phải ưu tiên cải tạo, nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn để kết nối hệ thống giao thông từ quốc lộ đến đường tỉnh, đường huyện, đường xã, vùng sâu, vùng xa đảm bảo giao thông thông suốt bốn mùa, tạo điều kiện đi lại cho nhân dân và thúc đẩy phát triển KT-XH của địa phương. Đường giao thông nông thôn cũng là một trong những tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng cho khu vực nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa nhất là các huyện có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thông qua các chương trình 134, 135, 30a, 30b, vốn ODA, vốn TPCP và các nguồn vốn huy động khác, bước đầu đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Hầu hết các tuyến đường huyết mạch và nhiều công trình trọng điểm đã và đang được đầu tư xây dựng đưa vào cấp, đến nay đã giải quyết cơ bản đường ô tô đến trung tâm các xã, cơ sở hạ tầng GTVT nhất là đường bộ đã được cải thiện một cách đáng kể, góp phần phát triển KT-XH và xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi với đồng bằng.
Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư cho khu vực nông thôn, miền núi, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong thời gian qua là nỗ lực rất lớn của Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng GTVT khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển vì khả năng thu hút các nguồn vốn của các địa phương ở khu vực này rất khó khăn, nguồn vốn đầu tư chủ yếu là ngân sách nhà nước.
Để giải quyết các nhu cầu bức xúc về giao thông ở các khu vực khó khăn cũng như phục vụ Chương trình xây dựng NTM, ngoài các chương trình mục tiêu đang triển khai như 30a, 30b, chương trình xây dựng đường tuần tra biên giới (do Bộ Quốc phòng đầu tư)… .Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông trên phạm vụ 50 tỉnh, thành phố theo quyết định số 477/QĐ-UBDT ngày 19/9/2013 của Ủy ban Dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ GTVT đã xây dựng hoàn thành 186 cầu treo dân sinh giai đoạn I để đáp ứng yêu cầu cấp bác, bảo đảm an toàn giao thông trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
Từ năm 2017 đến năm 2021 sẽ đầu tư xây dựng khoảng 2.300 cầu dân sinh giai đoạn II tại 50 tỉnh và khôi phục cải tạo khoảng 676 km đường giao thông địa phương tại 14 tỉnh trong khuôn khổ Dự án “Xây dựng cầu dân sinh và Quản lý tài sản đường địa phương” LRAMP vốn vay WB .
Thực hiện Chiến lược phát triển GTNT Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 gắn với mục tiêu xây dựng NTM, Bộ GTVT đang cùng với các địa phương huy động mọi nguồn vốn kể cả nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ quốc tế để đầu tư, nâng cấp và mở rộng hệ thống đường giao thông địa phương để tăng khả năng kết nối với hệ thống giao thông trung ương, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của các địa phương, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn cả nước.
234. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo đẩy nhanh thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp tuyến đường Quốc lộ 1B theo Quyết định 260/QĐ-TTg ngày 27/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, vì hiện nay mật độ phương tiện tham gia giao thông trên tuyến đường quốc lộ 1B rất cao trong khi mặt đường hẹp và xuống cấp nhiều.
Trả lời: (Tại Công văn số 3327/BGTVT-KHĐT - ngày 30/3/2017)
Do QL.1B đoạn qua tỉnh Thái Nguyên bị xuống cấp, Bộ GTVT đã giao Sở GTVT Thái Nguyên lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư và đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế, không đủ để bố trí cho các dự án khởi công mới nên chưa thể thực hiện đầu tư QL.1B đoạn qua tỉnh Thái Nguyên trước năm 2020.
Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tu, sửa chữa các tuyến đường nêu trên, đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực.
235. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị sớm chuyển tuyến đường ĐT268 thành Quốc lộ 3C: Đây là một trong những mục tiêu phát triển hạ tầng giao thông theo Quyết định 419/QĐ-TTg, ngày 17/3/2016 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên- Tuyên Quang- Bắc Cạn đến năm 2030.
Trả lời: (Tại Công văn số 3330/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang - Bắc Kạn đến năm 2030, Bộ GTVT đã ban hành Quyết định số 3414/QĐ-BGTVT ngày 01/11/2016 về việc nâng cấp các tuyến ĐT.268 thuộc tỉnh Thái Nguyên, ĐT.254 thuộc tỉnh Bắc Kạn thành tuyến QL.3C; đồng thời, giao Tổng cục ĐBVN phối hợp với các cơ quan của hai tỉnh Thái nguyên, Bắc Kạn tổ chức tiếp nhận, bàn giao để đưa QL.3C vào hệ thống quốc lộ theo quy định.
2. Về công tác quản lý, khai thác và bảo trì tuyến QL.3C, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN ủy thác cho Sở GTVT Thái Nguyên và Sở GTVT Bắc Kạn quản lý, khai thác và bảo trì bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương từ năm 2017.
236. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Quốc lộ 14 (đoạn qua tỉnh Bình Phước) đến nay cơ bản đã thi công xong và đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, có một số vị trí đặt mương thoát nước không đạt yêu cầu, khi mưa lớn nước tràn vào nhà và đất rẫy của các hộ dân gây ngập úng, xói lở và hư hại hoa màu, nhất là tại km 989 +100 đoạn từ chợ Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước hướng đi tỉnh Đăk Nông. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải chỉ đạo Ban quản lý đường Hồ Chí Minh kiểm tra, có hướng khắc phục và sửa chữa cho phù hợp.
Trả lời: (Tại Công văn số 2911/BGTVT-CQLXD – ngày 22/3/2017)
- Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh Bình Phước đã hoàn thành được Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng từ tháng 6/2015, sau đó theo đề nghị của địa phương để sử lý các tồn tại Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan (Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát và nhà thầu) rà soát, kiểm tra để điều chỉnh bổ sung hệ thống thoát nước phù hợp với thực tế hiện trường. Đến nay Bộ GTVT đã chấp thuận các kiến nghị của địa phương tại các Văn bản: số 3303/BGTVT-CQLXD ngày 19/2/2015; số 10369/BGTVT-CQLXD ngày 7/8/2015; số 16836/BGTVT-CQLXD ngày 18/12/2015; số 12110/BGTVT-CQLXD ngày 14/10/2016 về việc bổ sung các hạng mục rãnh dọc, cống ngang đường, hệ thống cửa xả hạ lưu cống,… Vị trí nêu trong kiến nghị của cử tri là gần chợ Thọ Sơn lý trình Km898+100-Km898+120 (không phải lý trình Km989+100), nội dung xử lý kỹ thuật tại vị trí này Bộ GTVT đã chấp thuận bổ sung mương dẫn tại Km898+120 (trái tuyến) và rãnh dọc, cửa xả từ Km898+100 – Km898+240 phải tuyến (Văn bản số 12110/BGTVT-CQLXD ngày 14/10/2016 của Bộ GTVT).
- Hiện nay Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Nhà thầu thi công tập kết vật liệu, máy móc và nhân lực để thi công vị trí này, tuy nhiên người dân vẫn chưa cho thi công do chưa nhận được kinh phí bồi thường. Về công tác giải phóng mặt bằng do địa phương thực hiện, đã hoàn thành công tác phê duyệt chi tiết phương án bồi thường, nhưng chưa giải ngân được do vốn GPMB đã được bố trí năm 2016 chưa được Chính phủ cho phép gia hạn (Văn bản số 02/B.QLDA-BC ngày 03/3/2017 của Ban QLDA ĐTXD CTGT - Sở GTVT Bình Phước).
- Để tránh ảnh hưởng đến hoa màu, đất rẫy của người dân, trong khi chưa giải ngân vốn GPMB, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Bình Phước chỉ đạo các đơn vị liên quan của Tỉnh giải thích và vận động người dân cùng chia sẻ và sớm bàn giao mặt bằng thi công cho Nhà thầu để có thể triển khai thi công ngay.
237. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang tiếp tục phản ánh tình hình sạt lỡ 02 bên bờ sông kênh Cái Sắn (song song với Quốc lộ 80) diễn ra ngày càng nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến Quốc lộ 80 và đường giao thông chạy dọc theo dòng sông, nhà của người dân sống ven sông. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành chức năng sớm khắc phục để tạo điều kiện cho người dân ổn định cuộc sống.
Trả lời: (Tại Công văn số 3684/BGTVT-KHĐT - ngày 7/4/2017)
Theo Thông tư số 46/2016/TT-BGTVT ngày 29/12/2016 của Bộ GTVT quy định cấp kỹ thuật đường thủy nội địa, tuyến kênh Rạch Sỏi Hậu Giang (địa phương gọi là tuyến kênh Cái Sắn) dài 59 km từ ngã ba sông Hậu đến ngã ba kênh ông Hiển Tà Niên là tuyến đường thủy nội địa quốc gia hiện đạt cấp III hạn chế với bề rộng kênh từ 50 - 70 m, quy hoạch đến 2030 đạt cấp III. Tuyến kênh này đã được đầu tư nâng cấp, nạo vét luồng và kè bờ một số đoạn xung yếu tại dự án Nâng cấp hai tuyến đường thủy phía Nam bằng nguồn vốn của WB, đưa vào sử dụng năm 2011, hiện đảm bảo chuẩn tắc luồng chạy tàu theo cấp kỹ thuật.
Dọc tuyến kênh phía bờ trái là quốc lộ 80; bờ phải là đường giao thông nông thôn kết hợp với đê bao chống lũ hiện xảy ra hiện tượng sạt lở tại bờ phải đoạn từ km26+420 đến km32+700 (thuộc xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang) và đoạn từ km34+700 đến km38+750 (thuộc xã Tân Hiệp B, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang). Để hạn chế hiện tượng sạt lở đường bờ, ảnh hưởng đến phương tiện lưu thông trên đoạn đường bộ, việc đầu tư kè bảo vệ bờ chống sạt lở như đề nghị của cử tri tỉnh Kiên Giang là cần thiết.
Việc thực hiện lập dự án đầu tư xây dựng kè tuyến kênh Rạch Sỏi Hậu Giang phải tuân thủ, triển khai theo Luật Đầu tư công, cần có thời gian để triển khai các bước với trình tự thủ tục theo quy định. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách trung ương khó khăn hiện nay nên việc thực hiện đầu tư kè bờ tuyến kênh này bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước khó có thể đáp ứng. Bộ GTVT sẽ giao Cục ĐTNĐ Việt Nam phối hợp với các Sở, ngành, các đơn vị liên quan của địa phương và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định cụ thể phạm vi, mức độ, nguyên nhân sạt lở để xác định phương án, nguồn vốn sửa chữa phù hợp.
Nguồn vốn sự nghiệp kinh tế đường sông hiện nay còn rất hạn hẹp, được bố trí để bảo trì duy tu báo hiệu, nạo vét các đoạn cạn… trên các tuyến đường thủy của cả nước. Do vậy, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang kiến nghị thêm với UBND Tỉnh để xem xét bố trí nguồn vốn ngân sách địa phương thực hiện xây dựng kè bờ kênh Rạch Sỏi Hậu Giang.
238. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri các huyện vùng U Minh Thượng, Kiên Giang tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sớm đầu tư đèn tại hai cầu sông Cái Lớn, Cái Bé trên tuyến Quốc lộ 63 đi qua Kiên Giang, vì Bộ Giao thông vận tải có văn bản trả lời cử tri Kiên Giang là sẽ tìm nguồn làm nhưng đến nay đã 02 nhiệm kỳ đi qua mà vẫn chưa thực hiện lời hứa với dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 3279/BGTVT-KHĐT - ngày 30/3/2017)
Công trình cầu Cái Lớn và cầu Cái Bé nằm trong Dự án thành phần xây dựng đoạn Minh Lương – Thứ Bảy thuộc Dự án đường hành lang ven biển phía Nam giai đoạn 1 đã được đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng từ năm 2014 bằng nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Hàn Quốc. Đến nay, Hiệp định vay vốn đã hết hiệu lực và không còn vốn dư để tiếp tục đầu tư hệ thống điện chiếu sáng các cầu nêu trên.
Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của Bộ nên chưa thể cân đối được vốn để đầu tư hệ thống điện chiếu sáng cho các cầu nêu trên theo kiến nghị của cử tri. Bộ GTVT xin ghi nhận kiến nghị của cử tri và sẽ nghiên cứu đầu tư khi điều kiện nguồn lực cho phép.
239. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Hiện nay biến đổi khí hậu đang tác động nặng nề đến sản xuất và đời sống của nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Kiên Giang nói riêng. Cử tri đề nghị Chính phủ có chính sách đặc thù ưu tiên đầu tư công, đê bao ngăn mặn, vì thời gian qua đầu tư không kịp thời làm thiệt hại cho sản xuất rất nhiều.
Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri Kiên Giang phản ánh các tuyến Quốc lộ 61; tuyến trách Quốc lộ 80 qua trung tâm thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và tuyến Quốc lộ 63 nối hai cầu Cái bé, Cái Lớn vừa thi công xong đưa vào sử dụng thời gian quá ngắn nhưng đã hư hỏng nặng. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải kiểm tra và làm rõ nguyên nhân chất lượng quá kém của các công trình này và đề nghị đầu tư kiên cố không phải chỉ rãi đá như hiện nay rất dễ gây ra tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 3320/BGTVT-CQLXD – ngày 20/3/2017)
- Tuyến QL61 theo phản ảnh của cử tri là đoạn Km53+000 – Km67+000 thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp QL61 đoạn Cái Tư - Gò Quao tỉnh Kiên Giang do Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) là Chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án 8 (Ban QLDA 8) là cơ quan đại diện Chủ đầu tư. Dự án được triển khai thi công từ tháng 9/2014 và thông xe vào tháng 12/2015 với kết cấu mặt đường là cấp phối đá dăm láng nhựa;
- Tuyến tránh QL80 qua trung tâm Tp.Rạch Giá và tuyến QL63 nối hai cầu Cái Bé, Cái Lớn theo phản ảnh của cử tri là tuyến tránh Tắc Cậu (Km84+480 – Km91+000), tuyến tránh Rạch Giá (Km96+000 – Km114+552) thuộc Dự án thành phần 2 và 3 của Dự án đường Hành lang ven biển phía Nam (giai đoạn 1). Các Dự án thành phần này được bàn giao cho Cục Quản lý đường bộ IV (Cục QLĐB IV) và đưa vào khai thác sử dụng từ tháng 10/2015, đã kết thúc bảo hành công trình từ tháng 4/2016 với kết cấu mặt đường là cấp phối đá dăm láng nhựa, do nền đất yếu nên phải chờ lún 1 -2 năm. Bộ GTVT đang chỉ đạo tiếp tục theo dõi xử lý bù lún và nghiên cứu cho thảm BTN khi nền đã ổn định và bố trí được nguồn vốn;
- Trong năm 2016 vừa qua, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, áp thấp nhiệt đới và ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 4, 5, 6, 7, 8, thời tiết ở khu vực các tỉnh miền Tây xuất hiện nhiều cơn mưa lớn kéo dài nhiều ngày làm cho mặt đường của các Dự án nói trên phát sinh hư hỏng nặng trên diện rộng gây trở ngại, mất an toàn giao thông cho người và phương tiện lưu thông. Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Cục QLĐB IV, Ban QLDA 8 và các đơn vị liên quan thực hiện công tác sửa chữa, khắc phục tạm thời để đảm bảo giao thông. Tuy nhiên do ảnh hưởng của thời tiết, việc sửa chữa hư hỏng thực hiện chậm, công tác đảm bảo giao thông chưa kịp thời dẫn đến tình trạng bức xúc của người dân như cử tri đã phản ảnh;
- Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo Cục QLĐB IV, Ban QLDA 8 đôn đốc Tư vấn, Nhà thầu xác định rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục triệt để các vị trí hư hỏng, tranh thủ lúc thời tiết thuận lợi khẩn trương triển khai công tác sửa chữa. Đến thời điểm hiện nay công tác sửa chữa đã hoàn thành, mặt đường cơ bản êm thuận.
240. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Cử tri phản ánh, tuyến đương Nam sông Hậu hiện nay đã hư hỏng và xuống cấp ở nhiều nơi. Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo tổ chức kiểm tra và có giải pháp sớm đầu tư sửa chữa tuyến đường này, góp phần đảm bảo an toàn giao thông và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trả lời: (Tại Công văn số 3323/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
Bộ GTVT đã tổ chức kiểm tra và giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam phê duyệt Dự án sửa chữa đoạn tuyến đường Nam Sông Hậu để triển khai thi công trong năm 2017 nhằm bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đảm bảo an toàn giao thông và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
241. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sớm có kế hoạch khai thác kênh Quan Chính Bố, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị qua Cảng Cái Cui, góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trả lời: (Tại Công văn số 3626/BGTVT-KHĐT - ngày 7/4/2017)
- Khu bến Cái Cui thuộc cảng biển Cần Thơ là khu bến đang hoạt động, khai thác là khu bến chính của cảng biển Cần Thơ, chủ yếu làm hàng tổng hợp, hiện có thể phục vụ cho tàu biển trọng tải đến 20.000 tấn. Theo quy hoạch, giai đoạn đến năm 2020, khu bến Cái Cui sẽ được hoàn thiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị đồng bộ hiện đại, gắn kết với các đầu mối logistics phía sau cảng để đảm nhận vai trò là khu bến chính làm hàng tổng hợp, công ten nơ, năng lực thông qua đến năm 2020 đạt khoảng 2,0 - 2,5 triệu tấn/năm, năm 2030 đạt khoảng 4,0 - 5,0 triệu tấn/năm theo quy hoạch.
- Dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố đến nay đã hoàn thành giai đoạn thông luồng kỹ thuật, có thể cho phép tàu 10.000 tấn đầy tải, 20.000 tấn giảm tải hành hải vào, rời các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong đó có bến cảng Cái Cui thuộc cảng biển Cần Thơ. Đây là cỡ tàu hợp lý cho xuất nhập khẩu hàng hóa, máy móc, xuất khẩu gạo đồng bằng sông Cửu Long vì khoảng 60% lượng gạo xuất khẩu là thị trường châu Á (tuyến nội Á). Sau khi luồng kênh Quan Chánh Bố đưa vào khai thác sử dụng, hàng hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ được xuất, nhập khẩu trực tiếp, góp phần giảm giá thành vận tải, nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hóa, giảm tải cho hệ thống đường bộ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Dự án Luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu đã hoàn thành giai đoạn thông luồng kỹ thuật và đưa vào tháng 01/2017. Hiện đã có một số tuyến công ten nơ cho tàu trọng tải trên 10.000 tấn được thiết lập kết nối các bến cảng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục triển khai giai đoạn 2 để đảm bảo yêu cầu ổn định, đồng bộ, hiệu quả của toàn Dự án.
242. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Cử tri thị xã Phú Thọ đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xem xét đầu tư nâng cấp, mở rộng đoạn đường nối từ ngã tư 27/7 đến đầu đường 35m (điểm ngã tư đèn đỏ sát trường Tiểu học Hùng vương) vì đây là đoạn đường tập trung nhiều trường học, đường đã xuống cấp, lòng đường hẹp gây ra nhiều vụ tai nạn giao thông cản trở khó khăn của người tham gia giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 2559/BGTVT-KHĐT - ngày 14/3/2017)
Bộ GTVT thống nhất với đề nghị của Cử tri tỉnh Phú Thọ về sự cần thiết đầu tư tuyến đường này. Tuy nhiên, đây là tuyến đường do UBND tỉnh Phú Thọ chịu trách nhiệm quản lý và đầu tư xây dựng. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Phú Thọ chủ động cân đối, bố trí nguồn vốn để thực hiện đầu tư và trả lời Cử tri theo thẩm quyền.
243. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Cử tri phản ánh: Quốc lộ 79B nối từ thị trấn Thanh Sơn đi Bến Ngọc Hòa Bình được đưa vào sử dụng đã tạo điều kiện giao thương cho người dân. Tuy nhiên cử tri phản ánh rằng, vào mùa mưa một số đoạn đường bị ứ đọng nước do đơn vị thi công không thiết kế rãnh thoát nước. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải xem xét, kiểm tra, chỉ đạo đơn vị liên quan có biện pháp khắc phục đảm bảo việc tham gia giao thông của người dân được an toàn.
Trả lời: (Tại Công văn số 3314/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Đoạn tuyến Km124+950 - Km125+700, QL.70B được UBND tỉnh Phú Thọ đầu tư xây dựng và hoàn thành trong năm 2013; do thiếu hệ thống thoát nước dọc, mỗi khi trời mưa đoạn tuyến trên thường xuyên bị đọng nước, ngập úng gây khó khăn cho việc lưu thông của người dân. Để xử lý thoát nước trên đoạn tuyến này, Bộ GTVT đã giao Tổng cục ĐBVN triển khai xây dựng bổ sung hệ thống rãnh thoát nước tại trên đoạn tuyến từ Km80+000-Km131+000, QL70B tỉnh Phú Thọ thuộc Dự án đầu tư xây dựng công trình sửa chữa và bổ sung hệ thống thoát nước mặt đường tại các vị trí cấp bách trên quốc lộ. Hiện tại, Tổng cục ĐBVN đang thực hiện công tác lựa chọn nhà thầu, dự kiến triển khai trong năm 2017.
Trong thời gian chờ triển khai dự án bổ sung hệ thống rãnh thoát nước, Bộ GTVT yêu cầu Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác kiểm tra, khơi thông cống rãnh nhằm đảm bảo việc thoát nước trên đoạn tuyến QL.70B, tỉnh Phú Thọ.
244. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Được sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải; đến nay trên địa bàn tỉnh có 03 trong tổng số 05 nút giao với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai xây dựng hoàn thành; nút giao IC7 với Thành phố Việt Trì còn dở dang. Hiện nay, tỉnh Phú Thọ triển khai cơ bản hoàn thành hệ thống đường kết nối từ Khu di tích lịch sử Đền Hùng, trung tâm Thành phố Việt Trì với nút giao IC7. Tuy nhiên, nút giao đường cao tốc nối với hệ thống trên do Tổng Công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) làm chủ đầu tư hiện đang chậm tiến độ. Để công trình hoàn thành tổng thể, kịp đón du khách về dự Giỗ tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2017; cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương thi công hoàn thành nút giao IC7 trước Tết nguyên đán năm 2017.
Trả lời: (Tại Công văn số 2295/BGTVT-CQLXD - ngày 7/3/2017)
Do đường dẫn đầu cầu vượt nút giao IC7 thi công qua vùng đất yếu, cần phải chờ lún (thời gian chờ lún theo tính toán khoảng 7-8 tháng), hiện tại khu vực đường dẫn đầu cầu vượt nút giao này vẫn đang trong giai đoạn chờ lún theo tính toán thiết kế. Tuy nhiên, để đáp ứng tiến độ phục vụ du khách về dự Giỗ tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2017, ngày 15/02/2017, Bộ GTVT đã tổ chức kiểm tra thực tế hiện trường và kiểm điểm tình hình thực hiện Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (Thông báo số 68/TB-BGTVT ngày 28/02/2017). Trong đó, Bộ GTVT đã chỉ đạo VEC và các đơn vị liên quan khẩn trương thi công hoàn thành nút giao IC7 trước ngày 31/3/2017 để đảm bảo thông xe phục vụ Lễ hội Đền Hùng năm 2017. Đồng thời, VEC nghiên cứu, đề xuất giải pháp đảm bảo thông xe trong giai đoạn trước mắt khi đường dẫn đầu cầu vượt đang trong giai đoạn chờ lún và đề xuất giải pháp hoàn thiện sau khi tắt lún.
Hiện nay, các đơn vị liên quan đang khẩn trương hoàn thiện các hạng mục công trình để đảm bảo thông xe nút giao IC7 trước ngày 31/3/2017 đáp ứng nhu cầu phục vụ Lễ hội Đền Hùng năm 2017.
245. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị ngành đường sắt cần quan tâm mở rộng đường sắt 1,435m nhằm thu hút khách du lịch đến Việt Nam và tiện lợi trong lưu thông, góp phần phát triển ngành đường sắt Việt Nam.
Trả lời: (Tại Công văn số 2759/BGTVT-KHĐT - ngày 17/3/2017)
Quan điểm phát triển GTVT đường sắt đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định GTVT đường sắt là một bộ phận quan trọng trong hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, là loại hình vận tải chủ yếu đảm nhận vận tải hành khách công cộng, đồng thời khẳng định cần nhanh chóng phát triển tại các thành phố lớn, đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Triển khai thực hiện Chiến lược, Quy hoạch nêu trên, bên cạnh việc đầu tư nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, Bộ GTVT đang rà soát, nghiên cứu phương án xây dựng các tuyến đường sắt mới trên trục Bắc - Nam, Đông - Tây và các tuyến kết nối với cảng biển, khu kinh tế lớn như: đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng Đăng, đường sắt Biên Hòa - Vũng Tàu, đường sắt TP. Hồ Chí Minh - Cần Thơ...; đồng thời, trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hiện đang triển khai đầu tư xây dựng 06 dự án đường sắt đô thị. Trong quá trình triển khai nghiên cứu, xây dựng các dự án này, khổ đường sắt được lựa chọn là khổ đường tiêu chuẩn theo đúng quy định của Luật Đường sắt năm 2005 (khổ đường 1.435mm).
Đối với các tuyến còn lại theo quy hoạch (bao gồm cả đường sắt hiện có), Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng khổ đường theo đúng quy định của Luật Đường sắt để tăng cường kết nối, phát huy hiệu quả khai thác của mạng đường sắt Việt Nam như kiến nghị của cử tri đã quan tâm.
246. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Nhà nước cần quan tâm xây dựng các cây cầu cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa để tiện đi lại, học hành.
Trả lời: (Tại Công văn số 3172/BGTVT-KH ĐT - ngày 28/3/2017)
Bộ GTVT thống nhất với cử tri TP Hồ Chí Minh về sự cần thiết xây dựng các cây cầu dân sinh cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, kết nối giao thông thông suốt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong vùng, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện đặc biệt là các em học sinh mỗi khi đến trường học.
Bộ GTVT đã xây dựng Chương trình xây dựng cầu dân sinh đảm bảo an toàn giao thông vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2529/QĐ-TTg ngày 31/12/2015. Giai đoạn I của Chương trình, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT triển khai xây dựng 186 cầu treo ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung Tây nguyên với tổng mức đầu tư 931 tỷ đồng, các cầu này đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng năm 2016. Giai đoạn II, dự kiến đầu tư xây dựng khoảng 2.300 cầu dân sinh trên phạm vi 50 tỉnh với tổng mức đầu tư khoảng 5000 tỷ đồng, sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới (WB) trong Dự án xây dựng cầu dân sinh và Quản lý tài sản đường địa phương (LRAMP) đã được Chính phủ Việt Nam ký Hiệp định tín dụng với WB ngày 02/7/2016. Hiện nay Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang phối hợp với Sở GTVT các tỉnh rà soát cập nhật danh mục cầu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và đang khẩn trương triển khai các bước chuẩn bị đầu tư trên tất cả 50 tỉnh.
247. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Nhiều ý kiến cử tri cho rằng, hiện việc thiết kế đường nối từ Quốc lộ 1A vào tỉnh lộ 705 chưa hợp lý nên đang gây rất nhiều khó khăn và nguy hiểm cho phương tiện và người tham gia giao thông. Nhiều vụ tai nạn giao thông đã xảy ra tại điểm kết nối này. Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm, xem xét lại việc thiết kế đọan nối này nhằm đảm bảo việc lưu thông của người dân được thuận lợi và an toàn hơn.
Trả lời: (Tại Công văn số 3117/BGTVT-QLXD - ngày 27/3/2017)
Dự án xây dựng mở rộng Quốc lộ 1 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, góp phần giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Vị trí nút giao giữa đường tỉnh lộ 705 với QL1 trước đây (khi chưa xây dựng mở rộng) nằm trong đường cong bằng, sát ngay với đầu cầu Lương Cách là một điểm đen về tai nạn giao thông. Trong quá trình triển khai lập hồ sơ thiết kế dự án xây dựng mở rộng quốc lộ 1 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận, Tư vấn thiết kế đã nghiên cứu giải pháp cải tạo điểm đen và tổ chức xin ý kiến của các cơ quan chức năng địa phương để thống nhất phương án thiết kế. Giải pháp thiết kế hiện nay đã tuân thủ tiêu chuẩn thiết kế được duyệt của dự án, đảm bảo an toàn giao thông. Tuy nhiên, theo báo cáo của Nhà đầu tư, hiện nay có một số phương tiện không tuân thủ đúng hiệu lệnh giao thông (từ đường tỉnh lộ 705 rẽ trái, đi ngược chiều trên đường QL1) gây mất an toàn giao thông. Do vậy, đề nghị cử tri và các cơ quan chức năng địa phương tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân để các phương tiện tham gia giao thông của địa phương tuân thủ đúng các quy định về an toàn giao thông đường bộ.
Sau khi công trình QL1 hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục theo dõi tình trạng tổ chức giao thông trong quá trình khai thác để kịp thời có giải pháp điều chỉnh cho phù hợp. Đối với phản ánh của cử tri về việc còn xẩy ra tai nạn giao thông tại nút giao giữa đường tỉnh lộ 705 với QL1, Bộ GTVT yêu cầu Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục phối hợp với cơ quan chức năng địa phương theo dõi, đánh giá và nghiên cứu giải pháp điều chỉnh nếu thấy cần thiết.
248. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri phản ánh, đường ngang dân sinh đi qua đường sắt trên địa bàn xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới (cách cầu Rào Lụy 200m) và địa bàn thôn Minh Tiến, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn với mật độ lưu thông khá lớn nhưng không có rào chắn hay biển báo gây nguy hiểm cho người dân khi tham gia giao thông. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo ngành đường sắt tiến hành khảo sát, kiểm tra, cho xây dựng hệ thống rào chắn hoặc biển báo tự động để việc đi lại của người dân trên địa bàn được đảm bảo an toàn.
Trả lời: (Tại Công văn số 2577/BGTVT-KCHT - ngày 14/3/2017)
1. Trên địa bàn xã Nghĩa Ninh – TP Đồng Hới:
Tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh chạy qua địa bàn xã Nghĩa Ninh, Tp. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình với chiều dài là 2,2km (từ km 524 + 500 đến km 526 + 700), có 01 đường ngang có người gác tại Km 525 + 150 và 01 lối đi dân sinh tại Km 526 + 060.
Lối đi dân sinh tại Km 526 + 060 chủ yếu phục vụ sự đi lại của người đi bộ, xe đạp, xe máy, xe thô sơ, có mật độ giao thông thấp, khoảng từ 40 đến 50 lượt/ngàyđêm. Thực hiện Quy chế phối hợp số 05/QCPH-BGTVT - UBND giữa Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân tỉnh tỉnh Quảng Bình, Công ty CP đường sắt Quảng Bình đã tổ chức rào thu hẹp lối đi qua đường sắt có chiều rộng là 2,5m và đã cắm 02 biển “ Chú ý tàu hỏa” theo quy định trong Quy chế nêu trên.
2. Trên địa bàn thôn Minh Tiến - xã Quảng Minh – TX Ba Đồn:
Tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh chạy qua địa bàn thôn Minh Tiến , xã Quảng Minh, Tx. Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình với chiều dài 0,8km (từ km 484 + 400 đến km 485 + 200), có 02 lối đi dân sinh tại Km 484 + 450 và tại Km 485 + 190.
Lối đi dân sinh tại Km 484 + 450: Chủ yếu phục vụ sự đi lại của người đi bộ, xe đạp, xe máy, xe thô sơ; có mật độ giao thông thấp, khoảng từ 25 đến 40 lượt/ngày. Thực hiện quy chế phối hợp số 05/QCPH-BGTVT - UBND giữa Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Công ty CP đường sắt Quảng Bình đã tổ chức rào thu hẹp lối đi qua đường sắt có chiều rộng là 1,5m và đã cắm 02 biển “ Chú ý tàu hỏa” theo quy định trong Quy chế nêu trên.
Lối đi dân sinh tại Km 485 + 190: Chủ yếu phục vụ sự đi lại người đi bộ, xe đạp, xe máy, xe thô sơ; có mật độ giao thông thấp, khoảng từ 30 đến 40 lượt/ngày đêm. Thực hiện quy chế phối hợp số 05/QCPH-BGTVT - UBND giữa Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Công ty CP đường sắt Quảng Bình đã tổ chức rào thu hẹp lối đi qua đường sắt có chiều rộng là 1,9m và đã cắm 02 biển “ Chú ý tàu hỏa” theo quy định trong Quy chế nêu trên.
3. Hiện tại, 02 lối đi dân sinh qua đường sắt tại Km 484 + 400 và tại Km 485 + 200 thuộc thôn Minh Tiến – xã Quảng Minh – TX Ba Đồn và lối đi dân sinh tại Km 526 + 060 thuộc xã Nghĩa Ninh – TP Đồng Hới có mật độ giao thông không lớn, chủ yếu là người đi bộ, xe đạp, xe máy, xe thô sơ phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Qua kiểm tra, rà soát thực tế hiện trường và theo Thông tư 62/2015/TT-BGTVT ngày 04/11/2015 “Quy định về đường ngang” của Bộ Giao thông vận tải thì 03 lối đi dân sinh trên không đủ điều kiện để thành lập đường ngang cảnh báo tự động hoặc đường ngang có người gác.
4. Để phòng ngừa, hạn chế tai nạn giao thông đường sắt, đường bộ, đề nghị địa phương:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng nghiêm chỉnh chấp hành Luật đường sắt; không mở các đường đi trái phép qua đường sắt, việc mở đường ngang phải thực hiện theo quy định tại Thông tư số 62/2015/TT-BGTVT ngày 04/11/2015 của Bộ Giao thông vận tải;
- Phối hợp cùng đơn vị đường sắt tổ chức kiểm tra việc chấp hành Luật Đường sắt và Quy chế phối hợp giữa Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình;
- Đầu tư kinh phí thực hiện giải phóng mặt bằng để xây dựng đường gom, hàng rào để tạo điều kiện cho nhân dân trong khu vực qua lại đường sắt tại vị trí đường ngang có người gác tại Km 525 + 150 tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh.
249. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị cấp kinh phí đẩy nhanh tiến độ xây dựng con đường từ Quốc lộ 3B (huyện Na Rì) đến cửa khẩu Pò Mã (Lạng Sơn) để phục vụ nhu cầu giao lưu hàng hóa, phát triển kinh tế của địa phương.
Trả lời: (Tại Công văn số 2455/BGTVT-KHĐT - ngày 10/3/2017)
Quốc lộ 3B qua 2 tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn có chiều dài khoảng 125km, đoạn qua địa phận tỉnh Bắc Kạn dài 66km (Km0 - Km66) được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 486/QĐ-BGTVT ngày 21/02/2014 với tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi có TMĐT là 2.191 tỷ đồng, sử dụng vốn TPCP, khởi công tháng 6/2010, theo tiến độ sẽ hoàn thành 2012. Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, dự án thuộc diện đình hoãn. Để đảm bảo ATGT, dự án phân kỳ đầu tư làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 đã hoàn thành các hạng mục: đoạn qua đèo Áng Toòng dài 17,1km; 3,5Km đoạn qua thị trấn Na Rì; 05 cầu; hoàn thiện các đoạn tuyến thi công dở dang đến điểm dừng kỹ thuật và chi trả công tác GPMB. Giai đoạn 2 đầu tư hoàn chỉnh theo quy mô đã được phê duyệt.
Việc hoàn thành Dự án, phát huy hiệu quả vốn đầu tư như kiến nghị của Cử tri tỉnh Bắc Kạn là rất cần thiết. Tuy nhiên, Do nguồn vốn NSNN giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên trong phương án phân bổ vốn không bố trí được cho Dự án này. Đối với nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016 - 2020, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2016 – 2020, trình Chính phủ, Quốc hội thông qua.
250. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Nâng cấp, mở rộng tuyến QL 60 đoạn từ ấp Lò Ngò (xã Song Lộc, huyện Châu Thành) đến gần Công ty TNHH giày da Mỹ Phong để tạo điều kiện thuận lợi trong lưu thông và đảm bảo an toàn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 2542/BGTVT-KHĐT - ngày 13/3/2017)
251. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị sớm bố trí vốn để đầu tư mở rộng Quốc lộ 53 từ thành phố Trà Vinh đến thị xã Duyên Hải, vì hiện nay công trình đã được giải phóng mặt bằng.
Trả lời: (Tại Công văn số 2542/BGTVT-KHĐT - ngày 13/3/2017)
Đoạn tuyến Quốc lộ 60 từ ấp Lò Ngò (xã Song Lộc, huyện Châu Thành) đến gần Công ty TNHH giày da Mỹ Phong thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp QL60 đoạn qua địa bàn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng; Đoạn tuyến Quốc lộ 53 từ thành phố Trà Vinh đến thị xã Duyên Hải thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp QL53 đoạn Trà Vinh – Long Toàn và xây dựng tuyến tránh QL53 qua thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
Bộ GTVT đã đưa 02 Dự án nêu trên vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để trình Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ để hoàn thành các dự án đang triển khai dở dang nên không thể cân đối được cho dự án này; Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016-2020 Quốc hội mới thông qua chủ trương sử dụng cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định.
252. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Sớm xây dựng tuyến bờ kè cặp theo 02 bên Luồng tàu Quan Chánh Bố để phòng chống sạt lở và ngăn chặn nước tràn vào gây ảnh hưởng đến sản xuất của người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 3222/BGTVT-KHĐT - ngày 29/3/2017)
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (Dự án) là dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với mục tiêu xây dựng luồng cho tàu biển có trọng tải đến 10.000 tấn đầy tải, tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải có thể hành hải vào, ra các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ (TPCP) giai đoạn 2014 - 2016. Thực hiện Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bố trí cho dự án 6.100 tỷ đồng. Đến nay, Dự án đã hoàn thành đầu tư giai đoạn thông luồng kỹ thuật.
- Nguồn vốn được bố trí theo Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội chỉ bố trí vốn cho giai đoạn 1 của Dự án để đảm bảo yêu cầu thông luồng kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ Dự án. Một số khu vực xung yếu của Dự án cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời xử lý sạt lở, sụt trượt mái luồng. Dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu được thi công nạo vét với mái dốc m = 6 trên nền địa chất tương tự như đoạn luồng kênh Tắt. Tuy nhiên, trong Giai đoạn thông luồng kỹ thuật, dự án chưa được bố trí kinh phí để xây dựng hệ thống kè bảo vệ bờ đoạn kênh này. Nhu cầu tăng cường bảo vệ luồng kênh Quan Chánh Bố hiện hữu để không bị sạt lở, đầu tư xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu là thật sự cần thiết, cấp bách nhằm bảo vệ luồng tàu, đảm bảo ổn định dân sinh dọc hai bên bờ kênh.
- Nhận thức được tầm quan trọng, cấp thiết nêu trên, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về phương án sử dụng vốn dư giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án (khoảng 1.550 tỷ đồng) để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 của Dự án, tập trung các hạng mục quan trọng, cấp thiết để đảm bảo điều kiện khai thác ổn định, hiệu quả cũng như đảm bảo điều kiện an sinh của người dân khu vực Dự án bao gồm các hạng mục được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên như sau: Xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố (các vị trí hai bên bờ kênh chưa kè); Thiết lập các vị trí tránh tàu; Lắp đặt hệ thống VTS kết hợp phân luồng; Xây dựng đường dân sinh dọc kênh Tắt.
- Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 3963/VPCP-KTTH ngày 26/5/2016 truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng ý báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2014 - 2016 đã bố trí giai đoạn 1 của Dự án nhưng còn dư để thực hiện một số hạng mục thuộc giai đoạn 2 và giao Bộ Kế hoạc và Đầu tư tổng hợp chung trong phương án điều chỉnh kế hoạch và sử dụng vốn dư TPCP giai đoạn 2014 - 2016.
- Bộ GTVT cũng đã giao Ban Quản lý dự án Hàng hải chỉ đạo Tư vấn nghiên cứu theo dõi, đánh giá diễn biến sa bồi trên luồng tàu, đánh giá ổn định của đường bờ, kè bảo vệ bờ và đê chắn sóng để đánh giá ổn định, hiệu quả giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án, đồng thời hoàn chỉnh phương án thiết kế kỹ thuật các hạng mục giai đoạn 2, đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả toàn Dự án để có thể thực hiện ngay sau khi được giao kế hoạch vốn TPCP năm 2017.
253. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Đường Xuyên Á (đoạn từ cầu Gò Dầu đến Mộc Bài) đã được mở rộng hai bên lề đường, nhưng hiện nay, phần mở rộng thêm chưa được trải nhựa. Đề nghị ngành chức năng sớm xem xét, trải nhựa.
Trả lời: (Tại Công văn số 3345/BGTVT-KCHT - ngày 31/3/2017)
254. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông - Vận tải sớm sửa chữa và nạo vét cống thoát nước trên tuyến đường Quốc lộ 22B, vì hiện nay, có một số nơi nắp cống bị sụp lún, không thoát được nước, gây ngập úng cục bộ, nhất là tại các khu dân cư (Khu vực ấp Đá Hàng, xã Hiệp Thạnh; gần ngã tư nghĩa trang Trà Võ, xã Cẩm Giang, Phước Trạch....).
Đề nghị ngành chức năng xem xét lắp đặt cống thoát nước dọc Quốc lộ 22B (tại cua Ngân hàng Nông nghiệp huyện Trảng Bàng) nhằm giải quyết tình trạng ngập úng cục bộ khu vực này.
Trả lời: (Tại Công văn số 3345/BGTVT-KCHT - ngày 31/3/2017)
1. Ngày 04/02/2016, Thủ tướng Chính phủ đã có chấp thuận chủ trương giao UBND TP. Hồ Chí Minh là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức kêu gọi đầu tư và thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng toàn tuyến QL.22 qua địa phận TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh.
Đoạn từ Gò Dầu đến Mộc Bài từ Km48+900 đến Km56+950 được đầu tư và đưa vào khai thác với quy mô 02 làn xe cơ giới. Do lưu lượng xe lớn, để đảm bảo ATGT, năm 2013, Bộ GTVT đã cho lắp đặt giải phân cách giữa kết hợp với gia cố lề mở rộng phần xe chạy để tổ chức giao thông một chiều. Do kinh phí hạn hẹp, phần gia cố lề được làm với kết cấu cán đá, láng nhựa 3 lớp (không phải cấp phối). Hiện tại, phần gia cố lề sau 04 năm khai thác đã xuất hiện một số vị trí bị hư hỏng, trong khi chờ UBND TP. Hồ Chí Minh thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng QL.22, đồng Bộ GTVT tiến hành kiểm tra, rà soát và đưa vào kế hoạch bảo trì năm 2018 để sửa chữa, khôi phục như kết cấu hiện trạng đảm bảo êm thuận và ATGT.
2. Đối với các vị trí nắp cống bị sụp lún, năm 2016, Bộ GTVT đã cho thay thế một số tấm đan rãnh hư hỏng phát sinh mới để khắc phục tình trạng tắc nghẽn dòng chảy cục bộ, đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quản lý, bảo trì trên tuyến khẩn trương nạo vét, khơi thông dòng chảy trong công tác bảo dưỡng thường xuyên QL.22B.
Đối với các vị trí chưa có rãnh thoát nước gây ngập nước mặt đường, Bộ GTVT đã cho phép thực hiện Dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B từ nguồn kinh phí Bảo trì đường bộ Trung ương thực hiện trong năm 2017, trong đó cho phép xây dựng rãnh thoát nước dọc tại các vị trí qua khu dân cư, đọng nước mặt đường.
3. Hiện nay, tại khu vực đường cong trước mặt Ngân hàng nông nghiệp huyện Trảng Bàng, cơ quan chức năng của địa phương đang triển khai công tác lắp đặt cống thoát nước. Các cơ quan quản lý đường bộ trực thuộc Bộ GVTT đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của địa phương để thực hiện các công việc liên quan.
4. Tháng 9/2016, Bộ GTVT đã hoàn thành lắp đặt đèn cảnh báo tại tại ngã ba Khu di tích Tua Hai - Đồng Khởi tại Km47+150, ngoài ra còn lắp đặt thêm tại một số vị trí nguy hiểm tại Km17+500, Km22+100, Km 37+500, Km49+200, Km54+300, Km59+800.
255. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Quốc lộ 22B đã có kế hoạch nâng cấp, sửa chữa nhưng đến nay đã quá lâu vẫn chưa thực hiện, hiện nay đường đã xuống cấp, lưu lượng xe nhiều, nên thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Được biết, ngành chức năng Trung ương đã có chủ trương giao cho TP.HCM kêu gọi đầu tư (đoạn từ TP.HCM đến thị trấn Gò Dầu), vậy còn đoạn từ thị trấn Gò Dầu đến cửa khẩu Xa Mát có thực hiện không? Nếu có, thì khi nào thực hiện?
Trả lời: (Tại Công văn số 3884/BGTVT-ĐTCT - ngày 13/4/2017)
Tại buổi làm việc ngày 11/8/2016 giữa Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Lãnh đạo tỉnh Tây Ninh, hai bên đã thống nhất không đầu tư dự án nâng cấp Quốc lộ 22B theo hình thức hợp đồng BOT mà chỉ sửa chữa, cải tạo đảm bảo năng lực khai thác, an toàn giao thông để tập trung nguồn lực, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài và Gò Dầu - thành phố Tây Ninh - Xa Mát.
Để đảm bảm an toàn giao thông, khắc phục triệt để và ngăn chặn phát sinh hư hỏng các hạng mục, công trình trên tuyến QL22B; đồng thời phù hợp khả năng cân đối nguồn vốn từ Quỹ bảo trì đường bộ, Bộ Giao thông vận tải đã giao Tổng cục ĐBVN là Chủ đầu tư Dự án sửa chữa, cải tạo QL22B. Trên cơ sở báo cáo của Tổng cục ĐBVN, kinh phí dự kiến khoảng 255 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư sửa chữa trong 03 năm (2017 - 2019), cụ thể:
- Năm 2017: Dự kiến bố trí 74,2 tỷ đồng thực hiện sửa chữa đoạn từ Gò Dầu đến thành phố Tây Ninh Km0+000 - Km39+300 (sửa chữa hư hỏng cục bộ mặt đường; thảm tăng cường mặt đường bằng BTN dày 5cm; xây dựng bổ sung hệ thống thoát nước; sửa chữa, thay thế khe co giãn 11 cầu; sửa chữa, gia cố lề với kết cấu tương tự kết cấu mặt đường với bề rộng mỗi bên 2m, sửa chữa bù phụ cấp phối sỏi đỏ, đầm lèn chặt đối với phần lề đất và sửa chữa hoàn thiện hệ thống ATGT).
- Năm 2018: Dự kiến bố trí 79,5 tỷ đồng thực hiện sửa chữa đoạn từ Km39+300 - Km60+100 (sửa chữa hư hỏng cục bộ mặt đường; thảm tăng cường mặt đường bằng BTN dày 5cm; xây dựng bổ sung hệ thống thoát nước; sửa chữa, thay thế khe co giãn 02 cầu và cầu Cần Đăng; sửa chữa, gia cố lề với kết cấu tương tự kết cấu mặt đường với bề rộng mỗi bên 2m, sửa chữa bù phụ cấp phối sỏi đỏ, đầm lèn chặt đối với phần lề đất và sửa chữa hoàn thiện hệ thống ATGT).
- Năm 2019: Dự kiến bố trí 101,3 tỷ đồng thực hiện sửa chữa đoạn từ Km60+100 - Km84+162 (sửa chữa hư hỏng cục bộ mặt đường; thảm tăng cường mặt đường bằng BTN dày 5cm; bổ sung hệ thống thoát nước; sửa chữa thay thế khe co giãn 02 cầu; sửa chữa cầu Cần Đăng nếu cần thiết; sửa chữa, gia cố lề với kết cấu tương tự kết cấu mặt đường với bề rộng mỗi bên 2m, sửa chữa bù phụ cấp phối sỏi đỏ, đầm lèn chặt đối với phần lề đất và sửa chữa hoàn thiện hệ thống ATGT).
Trong kế hoạch bảo trì năm 2017, Bộ GTVT đã giao kế hoạch bảo trì cho danh mục sửa chữa, cải tạo QL22B với kinh phí 74,2 tỷ đồng và triển khai ngay trong năm 2017. Đối với các khối lượng dự kiến thực hiện trong năm 2018 và 2019, Bộ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức kiểm tra hiện trường, căn cứ vào hiện trạng thực tế của công trình xác định hạng mục công trình và khối lượng đưa vào kế hoạch bảo trì hàng năm để triển khai thực hiện nhằm đảm bảo ATGT và an toàn công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện giao thông lưu thông trên QL22B.
256. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Cử tri xã Tân Hưng thành phố hưng Yên đề nghị các cấp có thẩm quyền quan tâm đầu tư xây dựng cầu chui qua xã Tân Hưng (thuộc tuyến đường Cầu Rẽ - Ninh Bình nối với đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng) để nhân dân thuận tiện trong việc đi lại và sinh hoạt.
Trả lời: (Tại Công văn số 2875/BGTVT-CQLXD - ngày 21/3/2017)
Dự án đầu tư xây dựng Cầu Hưng Hà thuộc tuyến đường bộ kết nối đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình đoạn đi qua địa bàn xã Tân Hưng có chiều dài L= 1.077m (Km26+291 - Km27+368) trong đó có 2 vị trí giao cắt với đường xã tại lý trình Km26+390 và Km26+908. Đối với vị trí giao cắt tại Km26+390 hồ sơ thiết kế điều chỉnh hướng tuyến của đường địa phương qua cống chui dân sinh ĐH72 (lý trình Km26+232) cách tim giao cắt cũ khoảng 158m; đối với vị trí giao cắt Km26+908, việc đi lại qua đường gom dưới gầm cầu tại Km27+170 với khoảng cách đến tim giao cắt cũ là L= 262m, làm ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân. Để đảm bảo thuận lợi cho việc đi lại của người dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét bổ sung cống chui dân sinh với khẩu độ BxH= 4mx2,5m tại lý trình Km26+908.
Trên cơ sở kiến nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án 1, Tư vấn và các đơn vị liên quan tiến hành khảo sát, kiểm tra thực tế hiện trường. Căn cứ vào điều kiện thực tế, đồng thời để đảm bảo phù hợp với cao độ đường đỏ trong hồ sơ thiết kế kỹ thuật đã được phê duyệt, tại Biên bản làm việc ngày 21/11/2016, đại diện các đơn vị: Uỷ ban nhân dân thành phố Hưng Yên, Sở Giao thông vận tải Hưng Yên, Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, Ban Quản lý dự án 1, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát và Nhà thầu thi công đã thống nhất bổ sung cống chui dân sinh tại vị trí Km26+932 với khẩu độ BxH=4mx2,5m thuộc địa phận xã Tân Hưng (cách vị trí cống do địa phương đề xuất là 24m). Để có cơ sở triển khai thiết kế, thi công, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và tiến độ yêu cầu, ngày 01/12/2016 Bộ Giao thông vận tải đã có Văn bản số 14283/BGTVT-CQLXD về việc chấp thuận bổ sung cống chui dân sinh nêu trên vào dự án để triển khai thực hiện.
Hiện tại Ban Quản lý dự án 1 đang khẩn trương hoàn thiện công tác thiết kế để tổ chức thi công hạng mục cống chui dân sinh tại vị trí Km26+932 thuộc địa phận xã Tân Hưng, dự kiến đưa hạng mục cống chui này vào khai thác sử dụng vào tháng 9/2017, đảm bảo thuận tiện cho sinh hoạt của người dân trong khu vực dự án đi qua.
257. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Cử tri huyện Ân Thi đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo chủ đầu tư dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng sớm thi công nút giao tại 2 xã Tân Phúc và Bãi Sậy; đảm bảo khai thác hiệu quả toàn tuyến tránh lãng phí vì đất thu hồi quá lâu dễ bị tái lấn chiếm.
Trả lời: (Tại Công văn số 2946/BGTVT-CQLXD - ngày 22/3/2017)
Dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng là dự án trọng điểm quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Dự án có tổng chiều dài 105,5 km. Đoạn tuyến đi qua địa phận tỉnh Hưng Yên đã kết nối với hệ thống đường giao thông địa phương tại nút giao với Quốc lộ 39 (Km20+300) thuộc địa phận xã Lý Thường Kiệt, huyện Yên Mỹ và nút giao với Quốc lộ 38 (Km29+850) thuộc địa phận xã Tân Phúc, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi.
Tại vị trí nút giao giữa Dự án với Quốc lộ 39 do xác định vai trò kết nối của Dự án với QL39 và tuyến nối đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng công ty phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam (Chủ đầu tư) thi công xây dựng ngay trong giai đoạn 1 để thu hút và phân bổ lưu lượng các phương tiện giao thông. Đối với nút giao với Quốc lộ 38 do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên Quốc lộ 38 thấp, để phát huy hiệu quả đầu tư, nút giao thông này sẽ được nghiên cứu để đầu tư xây dựng trong giai đoạn 2 của Dự án.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 29/5/2015, Bộ Giao thông vận tải sẽ xem xét việc điều chỉnh phương án tài chính của dự án sau 02 năm đưa vào vận hành, khai thác. Do đó, đến năm 2018, Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo Chủ đầu tư và các đơn vị liên quan căn cứ vào nhu cầu, lưu lượng giao thông của khu vực, đồng thời phương án tài chính khả thi sẽ xem xét việc đầu tư nút giao kết nối dự án với Quốc lộ 38 tại địa phận xã Tân Phúc, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên để tăng cường tính kết nối và hiệu quả khai thác của Dự án.
258. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, ổn định kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng, thỏa mãn nhu cầu đi lại ngày càng tăng cao của khách quốc tế và nhân dân vùng duyên hải Bắc Bộ, góp phần giảm tải cho Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài, đồng thời tạo điều kiện nâng cao hiệu quả khai thác các nguồn lực hiện có của Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi. Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm tiếp tục đầu tư triển khai thực hiện giai đoạn 2 của Dự án Đầu tư mở rộng khu bay Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi đúng tiến độ, đảm bảo quy hoạch. Chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị nghiên cứu, có phương án, hình thức đầu tư xây dựng nhà ga hàng hóa Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa giữa các địa phương, vùng miền trong nước; hàng hóa xuất nhập khẩu và nhu cầu vận chuyển hàng hóa, vật tư của các nhà đầu tư nước ngoài tại Hải phòng.
Trả lời: (Tại Công văn số 2013/BGTVT-KHĐT - ngày 28/3/2017)
1. Về việc tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của Dự án mở rộng khu bay Cảng hàng không quốc tế (CHKQT) Cát Bi:
Hiện nay, Giai đoạn 2 của Dự án mở rộng khu bay CHKQT Cát Bi do Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng là Chủ đầu tư đã triển khai thi công từ ngày 13/01/2017 và dự kiến hoàn thành trong 9 tháng. Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục quan tâm bố trí vốn và đôn đốc các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án để phát huy hiệu quả đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo an ninh, an toàn hàng không tại CHKQT Cát Bi.
2. Về việc đầu tư xây dựng nhà ga hàng hóa tại CHKQT Cát Bi.
Trong thời gian qua, Bộ GTVT đã giao Cục Hàng không Việt Nam nghiên cứu đề xuất thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ga hàng hóa tại CHKQT Cát Bi. Hiện nay, đã có 02 nhà đầu tư quan tâm đến việc đầu tư dự án, Cục Hàng không Việt Nam đang phối hợp, hướng dẫn các nhà đầu tư để lập hồ sơ đề xuất dự án, trong đó có nghiên cứu phương án điều chỉnh cục bộ quy hoạch chi tiết một số hạng mục công trình tại CHKQT Cát Bi. Ngày 11/10/2016, Bộ đã có văn bản số 11906/BGTVT-KHĐT gửi UBND Tp. Hải Phòng đề nghị góp ý điều chỉnh cục bộ quy hoạch CHKQT Cát Bi. Đề nghị UBND Tp. Hải Phòng phối hợp sớm có ý kiến để làm cơ sở điều chỉnh cục bộ quy hoạch, lập hồ sơ đề xuất dự án.
259. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Hải Phòng là địa phương được xác định là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, cửa chính ra biển của các địa phương phía Bắc, có đủ 5 loại hình giao thông (đường biển, đường thủy, đường hàng không, đường bộ, đường sắt), tuy đã được đầu tư lớn song tính liên kết còn thấp, hạ tầng giao thông bộ khu vực cảng biển quá tải, gây ùn tắc thường xuyên. Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh việc thực hiện các dự án: Dự án đường cao tốc ven biển Hải Phòng - Thanh Hóa; Triển khai dự án nút giao khác mức giữa đường 356 và đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (điểm cuối đường 5 kéo dài), giải tỏa ùn tắc giao thông khu vực Cảng Hải Phòng; chỉ đạo đẩy nhanh việc đầu tư, thi công xây dựng Cảng Lạch Huyện, quy hoạch hệ thống cảng biển, cảng sông trên địa bàn thành phố, khắc phục tình trạng manh mún hiện nay. Đồng thời, hỗ trợ Hải Phòng nguồn vay ODA để triển khai xây dựng các cầu Nguyễn Trãi và cầu Vũ Yên.
Trả lời: (Tại Công văn số 3347/BGTVT-KHĐT - ngày 21/3/2017)
- Về đầu tư đường cao tốc ven biển Hải Phòng – Thanh Hóa: Theo quy hoạch mạng đường bộ cao tốc, trong vùng duyên hải Bắc Bộ có tuyến cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh, chiều dài khoảng 160km, quy mô 4-6 làn xe, đầu tư hoàn thành sau năm 2020. Hiện nay Bộ GTVT đang phối hợp với các địa phương liên quan huy động nguồn vốn để đầu tư, sớm đưa tuyến đường vào khai thác.
Tuyến cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh qua địa phận thành phố Hải Phòng dài khoảng 30km, trong đó: 10km đi trùng cao tốc Hà Nội – Hải Phòng đã hoàn thành đầu tư năm 2015; 2,3km đi trùng tuyến nối Quảng Ninh – Hải Phòng đang thực hiện đầu tư, hoàn thành 2017; đoạn còn lại đang được UBND TP Hải Phòng thực hiện đầu tư theo hình thức BOT, giai đoạn trước mắt phân kỳ đầu tư theo quy mô đường 2 làn xe, khởi công năm 2017, hoàn thành năm 2019. Như vậy, dự kiến trước năm 2020 tuyến cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh đoạn qua địa phận thành phố Hải Phòng sẽ được đầu tư thông tuyến với quy mô phù hợp nhu cầu vận tải.
- Nút giao khác mức giữa đường 356 và đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là công trình do UBND thành phố Hải Phòng quản lý, đầu tư. Do vai trò quan trọng của nút giao kết nối Quốc lộ 5 với các cảng biển tại Hải Phòng, nhưng hiện đã xuống cấp, ảnh hưởng đến hoạt động vận tải hàng hóa khu vực. Vì vậy, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư cải tạo nút giao giữa đường 356 với đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để đảm bảo an toàn giao thông, đáp ứng nhu cầu vận tải; đồng thời, đề nghị UBND thành phố Hải Phòng chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư và thông báo đến cử tri thành phố được biết về tiến độ đầu tư nút giao.
- Về tiến độ đầu tư dự án xây dựng cảng cửa ngõ Lạch Huyện (giai đoạn khởi động) gồm 2 hợp phần, trong đó:
+ Hợp phần A: Xây dựng cơ sở hạ tầng dùng chung cho cảng, kinh phí đầu tư 18.627 tỷ đồng sử dụng vốn ODA Nhật Bản, hiện đang triển khai đầu tư, dự kiến hoàn thành năm 2018.
+ Hợp phần B: Đầu tư 2 bến và các trang thiết bị khai thác, xếp dỡ cho tàu có tải trọng đến 100.000 tấn, tổng mức đầu tư khoảng 6572 tỷ đồng bằng nguồn vốn do liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam (55%) và Nhật Bản (45%) đầu tư, dự kiến hoàn thành tháng 5/2018.
- Về quy hoạch hệ thống cảng biển, cảng sông trên địa bàn thành phố: Hệ thống cảng biển trên địa bàn thành phố Hải Phòng thuộc nhóm cảng biển phía Bắc (nhóm 1) đã được Bộ GTVT phê duyệt quy hoạch tại Quyết định số 2367/QĐ-BGTVT ngày 29/7/2016. Hệ thống cảng sông đã được phê duyệt tại tại các Quyết định số 1112/QĐ-BGTVT ngày 26/4/2013 phê duyệt quy hoạch chi tiết hệ thống cảng đường thủy nội địa đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; hiện nay Bộ GTVT đang chỉ đạo Cục Đường thủy nội địa Việt Nam rà soát, cập nhật điều chỉnh quy hoạch này.
- Về kiến nghị hỗ trợ thành phố Hải Phòng vay vốn ODA để đầu tư cầu Nguyễn Trãi và Vũ Yên: Bộ GTVT đã có các văn bản số 14202/BGTVT-KHĐT ngày 23/12/2013 và 6962/BGTVT-KHĐT ngày 20/6/2016 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủng hộ việc vận động vốn vay ODA Nhật Bản để triển khai đầu tư dự án xây dựng cầu Nguyễn Trãi. Đề nghị UBND TP Hải Phòng tiếp tục làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ để sớm được chấp thuận vay vốn ODA Nhật Bản đầu tư cầu Nguyễn Trãi, cầu Vũ Yên, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND TP Hải Phòng trong quá trình triển khai đầu tư.
260. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị quan tâm, xây dựng cầu bắc qua sông Cầu nối liền địa phận xã Vân Hà, tỉnh Bắc Giang với tỉnh Bắc Ninh để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại và phát triển kinh tế.
Trả lời: (Tại Công văn số 3388/BGTVT-KHĐT - ngày 31/3/2017)
Công trình cầu bắc qua sông Cầu tại địa phận xã Vân Hà nối tỉnh Bắc Giang với tỉnh Bắc Ninh đang được nghiên cứu bổ sung quy hoạch và là công trình giao thông do UBND tỉnh Bắc Giang quản lý, đầu tư.
Việc đầu tư xây dựng cầu kết nối tỉnh Bắc Giang với tỉnh Bắc Ninh nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế khu vực. Vì vậy, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư công trình cầu kết nối nêu trên và đề nghị UBND tỉnh Bắc Giang chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện đầu tư và thông báo đến cử tri tỉnh Bắc Giang được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.
261. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Đề nghị quan tâm, đầu tư nâng cấp tỉnh lộ 248 qua địa phận huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang thành Quốc lộ nối liền với cửa khẩu Lạng Sơn.
Trả lời: (Tại Công văn số 3182/BGTVT-KCHT - ngày 28/3/2017)
1. Tại mục a, khoản 1, Điều 39 của Luật Giao Thông đường bộ quy định: Quốc lộ là đường nối liền Thủ đô Hà Nội với trung tâm hành chính cấp tỉnh; đường nối liền trung tâm hành chính cấp tỉnh từ ba địa phương trở lên; đường nối liền từ cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế đến các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính trên đường bộ; đường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng, khu vực.
2. Việc đề nghị nâng cấp ĐT.248 qua địa phận huyện Lục Ngạn thành quốc lộ là chưa đáp ứng được tiêu chí theo quy định của Luật Giao thông đường bộ. Đề nghị UBND tỉnh Bắc Giang quan tâm đầu tư nâng cấp, cải tạo và tăng cường công tác quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ nằm trên địa bàn địa phương để phục vụ việc đi lại của người dân huyện Lục Ngạn nói riêng và người dân tỉnh Bắc Giang nói chung.
262. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Trên tuyến cao tốc Hà Nội- Bắc Giang qua địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có một điểm tách làn đi vào trạm dừng nghỉ, trạm xăng dầu và 02 nhánh rẽ đi khu di tích Đình- Chùa- Núi Đồn, QL 37 được bố trí trực diện với cửa hàng xăng dầu và trạm dừng nghỉ. Sau một thời gian đi vào hoạt động đã xuất hiện nhiều nguy cơ tiềm ẩn mất an toàn giao thông tại vị trí này, vì các hướng di chuyển phương tiện giao thông qua vị trí này có xung đột tập trung trong một đoạn đường ngắn, các xe đủ chủng loại mà chủ yếu là xe tải dài lại không có đủ khoảng cách an toàn để trộn dòng, chuyển làn khi di chuyển. Bên cạnh đó lưu lượng phương tiện giao thông qua khu vực này ngày một gia tăng, đặc biệt là vào giờ cao điểm. Đã có thời điểm khu vực này bị ùn tắc kéo dài theo hướng Khu công nghiệp Quang Châu- Cầu vượt Đình Trám; việc ùn tắc và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông tại khu vực này khiến người dân gặp khó khăn trong cuộc sống và phát triển kinh tế.
Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải chỉ đạo nhà đầu tư BOT Hà Nội – Bắc Giang và các cơ quan liên quan nghiên cứu điều chỉnh nhánh rẽ từ đường cao tốc Hà Nội- Bắc Giang vào đường gom đi khu di tích Đình- Chùa- Núi Đồn và lên cầu vượt Đình Trám đi QL 37 để đảm bảo an toàn giao thông và phát triển kinh tế trong khu vực.
Trả lời: (Tại Công văn số 2470/BGTVT-CQLXD - ngày 10/3/2017)
Bộ Giao thông vận tải ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang đồng thời sẽ chỉ đạo Nhà đầu tư, Tư vấn và các đơn vị có liên quan kiểm tra, rà soát hiện trường để nghiên cứu điều chỉnh nhánh rẽ từ cao tốc Hà Nội - Bắc Giang vào đường gom đi khu di tích Đình - Chùa - Núi Đồn và lên cầu vượt Đình Trám đi QL37 nếu có bất cập, đảm bảo an toàn giao thông, hạn chế ùn tắc trong quá trình khai thác, tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện tham gia giao thông trong khu vực.
263. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Khi xây dựng đường cao tốc Hà Nội- Bắc Giang đoạn qua địa phận huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Nhà đầu tư BOT có đề nghị và được UBND tỉnh Bắc Giang đồng ý cho mượn, sử dụng tuyến đường gom Khu công nghiệp Quang Châu làm đường tạm phục vụ thi công và đi lại của nhân dân (Nhà đầu tư có cam kết duy tu, sửa chữa, nâng cấp hoàn trả lại hiện trạng tuyến đường này sau khi hoàn thành cao tốc). Tuy nhiên, sau gần 01 năm thông xe kỹ thuật, Nhà đầu tư đã tiến hành thu phí cao tốc, mặt đường gom hiện trạng bị hư hỏng nặng nề nhưng vẫn chưa được thi công hoàn trả như ban đầu; gây khó khăn rất nhiều đến đi lại của nhân dân và doanh nghiệp ở Khu Công nghiệp. (mặc dù UBND huyện Việt Yên, sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang đã nhiều lần có ý kiến nhưng Nhà đầu tư BOT đến nay vẫn chưa thực hiện) (có một số hình ảnh cụ thể thực trạng do doanh nghiệp, người dân cung cấp).
Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải chỉ đạo nhà đầu tư BOT khẩn trương thi công hoàn trả hiện trạng tuyến đường gom ở khu vực Khu công nghiệp Quang Châu nêu trên để đảm bảo an toàn cho xe ra vào các Khu công nghiệp cũng như dân cư lưu thông dọc đường gom.
Trả lời: (Tại Công văn số 2466/BGTVT-CQLXD - ngày 10/3/2017)
Theo nội dung Hợp đồng BOT ký giữa Bộ GTVT và Nhà đầu tư, trong quá trình thực hiện dự án, Nhà đầu tư có trách nhiệm khảo sát hệ thống đường địa phương dùng làm đường vận chuyển vật liệu thi công, thống nhất với địa phương về việc mượn đường và chịu trách nhiệm hoàn trả theo quy định nếu phát sinh hư hỏng do lỗi của Nhà đầu tư. Vì vậy, đối với các tuyến đường do địa phương quản lý mà các đơn vị thi công hoặc Nhà đầu tư đã ký biên bản cam kết mượn làm đường công vụ phục vụ thi công, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo và yêu cầu Nhà đầu tư thực hiện nghiêm theo cam kết tại biên bản đã thống nhất với địa phương và Hợp đồng đã ký với Bộ GTVT.
264. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: - Cử tri phản ánh trên Quốc lộ 5 xuất hiện tình trạng hằn lún vệt bánh xe nhưng chưa được khắc phục, nhiều đoạn đi qua khu vực đô thị, khu công nghiệp có lưu lượng xe rất lớn, tại các nút giao thường xuyên ùn tắc giao thông và gia tăng nhiều vụ tai nạn giao thông. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm đầu tư xây dựng các cầu vượt và xóa các điểm đen về an toàn giao thông; cụ thể:
+ Cầu vượt QL5 (Km50+630) tại nút giao QL37 và QL5 đi cầu Hàn;
+ Xây dựng nút giao khác mức tại nút giao khu công nghiệp Lai Vu tại Km60+900 QL5 và nút giao khu công nghiệp Lương Điền – Cẩm Điền tại Km35+702 QL5.
+ Xây dựng các đoạn đường gom (tổng chiều dài 2,5km) đường sắt Hà Nội – Hải Phòng đoạn từ Km69+470 – Km81+830, thuộc địa phận huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương để xóa bỏ 88 lối đi dân sinh.
Trả lời: (Tại Công văn số 3270/BGTVT-KCHT - ngày 29/3/2017)
1. Thực hiện Thông báo số 73/TB-BGTVT ngày 02/3/2017 của Bộ trưởng Trương Quang Nghĩa tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Hải Dương, Tổng cục ĐBVN đã đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị tại Công văn số 1378/TCĐBVN-QLBTĐB ngày 14/3/2017, trong đó yêu cầu thực hiện một số nội dung sau:
- Tổng công ty Phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam rà soát, kiểm tra và thực hiện sửa chữa các vị trí hằn lún vượt quá 2,5 cm (mức hằn lún nặng theo quy định của Tiêu chuẩn số 07/TCCS:2013/TCĐBVN - Tiêu chuẩn bảo dưỡng thường xuyên đường bộ), sửa chữa các vị trí sơn kẻ đường mờ mất tác dụng, các hư hỏng khác ảnh hưởng đến ATGT; tăng cường kiểm tra phát hiện các hư hỏng, bất cập mất ATGT để sửa chữa kịp thời. Hiện nay, Tổng công ty phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam đang triển khai thực hiện, lập phương án sửa chữa các hư hỏng phát sinh có khả năng gây mất ATGT trên QL.5.
- Đối với việc lắp đèn tín hiệu điều khiển giao thông tại Km47+450, QL.5, Tổng cục ĐBVN giao Cục QLĐBI chủ trì, phối hợp với Sở GTVT Hải Dương, Phòng CSGT tỉnh Hải Dương và Tổng công ty Phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam kiểm tra, báo cáo và đề xuất. Hiện nay, các đơn vị đang triển khai thực hiện.
2. Xây dựng Cầu vượt QL.5 (Km50+630) tại nút giao QL.37 và QL.5 đi cầu Hàn: trong điều kiện nguồn vốn XDCB khó khăn để thực hiện đầu tư xây dựng cầu vượt; năm 2016 Tổng cục ĐBVN đã bố trí 5,25 tỷ đồng từ nguồn vốn Quỹ Bảo trì đường bộ để thực hiện dự án xử lý điểm đen tai nạn giao thông tại nút giao này với giải pháp chủ yếu: lắp đặt đèn tín hiệu, điều chỉnh lại dải phân cách, vạch sơn, biển báo và bổ sung hệ thống chiếu sáng. Hiện nay, tình hình về tai nạn giao thông khu vực nút giao đã được cải thiện, đi lại dễ dàng và an toàn hơn.
3. Xây dựng nút giao khác mức tại nút giao khu công nghiệp Lai Vu tại Km60 + 900, QL.5 và nút giao khu công nghiệp Lương Điền – Cẩm Điền tại Km35+702, QL.5
- Đối với nút giao Km60+900(T)/QL.5: đây là nút giao đường nhánh vào Khu công nghiệp Lai Vu với QL.5. Tổng cục ĐBVN đã thỏa thuận phương án tổ chức giao thông tại công văn số 1248/TCĐBVN-ATGT ngày 19/3/2015 và chấp thuận thiết kế kỹ thuật tại công văn số 5667/TCĐBVN-ATGT ngày 13/10/2016; UBND tỉnh Hải Dương chịu trách nhiệm về kinh phí để điều chỉnh tổ chức giao thong tại nút giao này.
- Về nút giao Km35+702/QL.5: đây là điểm đấu nối đường nhánh vào KCN Lương Điền – Cẩm Điền với QL.5. Bộ GTVT đã chấp thuận tại Công văn số 8526/BGTVT-KCHTGT ngày 01/7/2015 và Tổng cục ĐBVN đã kiểm tra hiện trường, thống nhất phương án tổ chức giao thông để Sở GTVT Hải Dương báo cáo UBND tỉnh Hải Dương bố trí kinh phí triển khai xây dựng.
4. Về Xây dựng các đoạn đường gom (tổng chiều dài 2,5Km) đường sắt Hà Nội – Hải Phòng đoạn từ Km69+470 – Km81+830, thuộc địa phận Kim Thành, tỉnh Hải Dương để xóa bỏ 88 lối đi dân sinh: Dự án xây dựng đường gom, hàng rào cách ly nhằm xóa bỏ lối đi dân sinh, bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận theo Quyết định số 994/QĐ-TTg ngày 19/6/2014; Bộ GTVT ban hành kế hoạch thực hiện tại QĐ số 3067/QĐ-BGTVT ngày 11/8/2014, lộ trình thực hiện trong năm 2016 – 2017. Sau khi được bố trí kinh phí, Bộ GTVT sẽ triển khai thực hiện và ưu tiên đầu tư xây dựng đường gom trên đoạn đường sắt qua huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
265. Cư tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Trên quốc lộ 18, đề nghị Bộ Giao thông Vận tải sớm triển khai thi công 4 vị trí nút giao Bộ đã phê duyệt: Cổ Thành (Km29+916), Sao Đỏ (Km37+390), Côn Sơn – Kiếp Bạc (Km37+850), nút giao Bến Tắm (Km41+500); hệ thống chiếu sáng và thay thế rào chắn phân cách giữa quốc lộ18 đoạn qua nội thị, thị xã Chí Linh.
Trả lời: (Tại Công văn số 2173/BGTVT-CQLXD - ngày 30/3/2017)
Dự án QL18 đoạn Bắc Ninh - Uông Bí được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư tại quyết định số 1754/QĐ-BGTVT ngày 12/5/2014, điểm đầu tại Km20 (tỉnh Bắc Ninh, điểm cuối tại Km77 (tỉnh Quảng Ninh). Nhà đầu tư là Công ty Cổ phần Phát triển Đại Dương; Chủ đầu tư (doanh nghiệp dự án) là Công ty Cổ phần BOT Phả Lại. Dự án triển khai thi công chính thức từ tháng 3/2015, dự kiến hoàn thành 30/9/2017.
Theo phê duyệt đầu tư ban đầu, Dự án không bao gồm các đoạn xen kẹp đã được mở rộng bằng dự án Tăng cường an toàn giao thông. Trong quá trình triển khai, theo đề xuất của địa phương Bộ GTVT đã bổ sung vào Dự án 04 nút giao tại Quyết định số 915/QĐ-BGTVT ngày 25/3/2016, bổ sung hệ thống chiếu sáng, sửa chữa rào chắn phân cách giữa trên QL18 đoạn qua nội thị thị xã Chí Linh tại văn bản số 769/BGTVT-ĐTCT ngày 19/01/2017.
Về tình hình triển khai thực hiện:
- 04 nút giao đã được Chủ đầu tư phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công để thi công. Tuy nhiên chỉ thi công được trên 02 nút giao là Nút giao Bến Tằm và Nút giao Cổ Thành; hiện đang thi công kết cấu áo đường, khối lượng đạt khoảng 80%. Các nút giao Sao Đỏ, Côn Sơn - Kiếp Bạc không thi công được do vướng mắc giải phóng mặt bằng (GPMB).
- Đối với hệ thống chiếu sáng, thay thế rào chắn phân cách giữa trên QL18 đoạn qua nội thị, thị xã Chí Linh: Chủ đầu tư đang chỉ đạo đơn vị tư vấn hoàn thiện hồ sơ thiết kế để thẩm định phê duyệt, triển khai thi công.
- Về công tác GPMB: Đoạn QL18 qua thị xã Chí Linh thuộc Dự án cần GPMB 3,7 km; đến nay mới giải phóng được 3,03 km (đạt 81,8%). Việc sau khi triển khai thi công gần 2 năm nhưng vẫn còn vướng mắc GPMB đã ảnh hưởng đến tiến độ thi công chung của Dự án. Nguyên nhân của chậm GPMB là nhân dân chưa nhận tiền đền bù do khó khăn trong xác định nguồn gốc đất và công tác di chuyển các công trình hạ tầng kỹ thuật.
Nhận biết được tầm quan trọng của tuyến QL18 trong khu vực và để đảm bảo tiến độ Dự án, Bộ GTVT đã quyết liệt chỉ đạo Ban Quản lý dự án 2, Chủ đầu tư khẩn trương triển khai thi công đồng loạt các gói thầu, phối hợp chặt chẽ với địa phương trong công tác GPMB. Tuy nhiên, đến nay Dự án còn khó khăn do vướng mắc về GPMB gây ra tình trạng thi công xôi đỗ, ngắt quãng tiềm ẩn nguy cơ về mất an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân khu vực.
Thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Ban Quản lý dự án 2, Chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công, cương quyết thay thế các Nhà thầu, Tư vấn yếu kém bằng các đơn vị có đủ năng lực, tránh nhiệm cao tham gia Dự án; đồng thời phối hợp chặt chẽ với các Ban ngành của tỉnh Hải Dương để sớm hoàn thành dứt điểm công tác GPMB phục vụ thi công Dự án.
266. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Việc xây dựng mương thoát nước dọc tuyến đường Quốc lộ 14E và Quốc lộ 40B không có nắp đậy, mặt đường xuống cấp nặng, quá hẹp, lưu lượng người và phương tiện giao thông trên 02 tuyến đường này rất lớn nên thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng. Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải chỉ đạo Tổng cục đường bộ Việt Nam kiểm tra, có giải pháp xử lý, nâng cấp 02 tuyến đường trên nhằm đảm bảo tính mạng, tài sản của người dân khi tham gia giao thông
Trả lời: (Tại Công văn số 3374/BGTVT - KCHT ngày 31/3/2017)
1. Để tăng cường an toàn giao thông trên các tuyến QL.14E và QL.40B qua địa phận tỉnh Quảng Nam, trong các năm qua, ngoài kinh phí bảo trì thường xuyên, Bộ Giao thông vận tải đã giao Tổng cục đường bộ Việt Nam bố trí nguồn vốn sửa chữa định kỳ để sửa chữa mặt đường, gia cố lề đường, bổ sung mương thoát nước, cụ thể:
- Quốc lộ 14E: Trong 3 năm 2015-2017 đã bố trí 87,024 tỷ đồng (năm 2015: 40,966 tỷ, năm 2016: 29,588 tỷ, năm 2017: 16,5 tỷ). Ngoài ra, tại công văn số 15326/BGTVT-KCHT ngày 22/12/2017, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương bổ sung kinh phí 30 tỷ đồng hai năm 2017-2018 để sửa chữa mặt đường và bổ sung rãnh thoát nước dọc trên Quốc lộ 14E qua địa phận tỉnh Quảng Nam.
- Quốc lộ 40B: Trong 3 năm 2015-2017 đã bố trí 115,445 tỷ đồng (năm 2015: 40,389 tỷ, năm 2016: 41,156 tỷ, năm 2017: 26,9 tỷ). Ngoài ra, tại công văn số 15326/BGTVT-KCHT ngày 22/12/2016, Bộ GTVT đã chấp thuận chủ trương bổ sung kinh phí 35 tỷ đồng hai năm 2017-2018 để sửa chữa mặt đường và bổ sung rãnh thoát nước dọc trên Quốc lộ 40B qua địa phận tỉnh Quảng Nam.
2. Về việc xử lý, nâng cấp các Quốc lộ 14E và Quốc lộ 40B qua địa phận tỉnh Quảng Nam, Bộ GTVT đã tổng hợp các dự án nâng cấp QL.40B, QL.14E vào danh mục các dự án đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn khó khăn, vì vậy việc đầu tư, nâng cấp các QL.40B và QL.14E bằng nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 là chưa thực hiện được. Bộ GTVT cũng đã có văn bản số 1739/BGTVT-KHĐT ngày 22/2/2017 gửi UBND tỉnh Quảng Nam trả lời kiến nghị nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 40B, tỉnh Quảng Nam.
267. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Hiện nay, điểm giao nhau giữa đường sắt và đường ĐT 611 (tại xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam) rất gồ ghề, phần bê tông do đường sắt thi công đã hư hỏng, xuống cấp nhưng không được sửa chữa, phương tiện giao thông đường bộ qua lại rất khó khăn và nguy hiểm. Đề nghị Bộ Giao thông – Vận tải chỉ đạo Tổng cục đường sắt kiểm tra, khắc phục.
Trả lời: (Tại Công văn số 3292/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Hiện trạng công trình: điểm giao cắt giữa đường sắt và ĐT.611 tại lý trình đường sắt tại Km834+982 là đường ngang cấp III công cộng, có người gác, phòng vệ bằng cần chắn, thuộc khu gian Trà Kiệu - Phú Cang, tuyến đường sắt Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh. Mặt đường hiện tại là bê tông xi măng dày 20cm, được đầu tư sửa chữa năm 2010 theo kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia. Do lưu lượng giao thông qua lại tại khu vực nêu trên có mật độ đông nên hiện nay xảy ra hiện tượng vết bong vỡ mặt đường. Công ty CP Đường sắt Quảng Nam – Đà Nẵng đã tiến hành sửa chữa, bảo trì hàng năm, lần gần nhất được sửa chữa trong tháng 9 năm 2016.
2. Bộ GTVT yêu cầu Tổng công ty ĐSVN chỉ đạo Công ty CP Đường sắt Quảng Nam – Đà Nẵng kiểm tra, rà soát, nếu phát hiện các tấm bê tông bị hư hỏng phải thực hiện sửa chữa ngay để tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện tham gia giao thông đi qua đường ngang Km834+982.
3. Đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo các cơ quan quản lý đường bộ địa phương thực hiện cải tạo, sửa chữa đoạn đường bộ ngoài phạm vi đường ngang; đồng thời phối hợp với Tổng công ty ĐSVN tăng cường thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông theo nội dung cảu Quy chế phối hợp đã được ký kết giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Quảng Nam.
268. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri các huyện tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông – Vận tải xem xét mở rộng thêm phần đường dành cho xe thô sơ trên tuyến Quốc lộ 1A (một số đoạn qua tỉnh Quảng Nam).
Trả lời: (Tại Công văn số 3369/BGTVT-ĐTCT - ngày 31/3/2017)
Liên quan đến vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ đã có các văn bản số 2365/TTg-KTN ngày 25/12/2015, số 132/TTg-KTN ngày 19/01/2016 và Bộ GTVT có các văn bản số 14702/BGTVT-KHĐT ngày 04/11/2015, số 420/BGTVT-ĐTCT ngày 12/01/2017 trả lời Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, theo đó QL1 đoạn qua tỉnh Quảng Nam từ Km942 - Km1027, dài 85 km; tại thời điểm trước khi triển khai Đề án mở rộng QL1, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép đầu tư mở rộng theo hình thức BOT với quy mô 4 làn xe đoạn Tứ Câu - Vĩnh Điện (Km942 - Km947), dài 5 km tại văn bản số 1735/TTg-KTN ngày 27/9/2011 và đoạn từ huyện Phú Ninh - huyện Núi Thành (Km987 - Km1027), dài 40 km tại văn bản số 1999/TTg-KTN ngày 03/11/2010. Còn lại đoạn từ Vĩnh Điện - huyện Phú Ninh (Km947 - Km987), dài 40 km giữ nguyên hiện trạng (2 làn xe).
Theo Đề án mở rộng QL1 đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Thông báo số 55/TB-VPCP ngày 21/02/2012 và Quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đoạn từ Vĩnh Điện - huyện Phú Ninh (Km947 - Km987), dài 40 km nói trên giữ nguyên hiện trạng, chỉ tiến hành tăng cường mặt đường bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do song hành với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đang triển khai xây dựng.
Để đảm bảo an toàn giao thông, UBND tỉnh Quảng Nam đã có Tờ trình số 1992/TTr-UBND ngày 04/6/2013, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng QL1 đoạn Km947 - Km987 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến (văn bản số 5689/VPCP-KTN ngày 12/7/2013 của Văn phòng Chính phủ): "Trước mắt, chưa tiến hành đầu tư nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 đoạn Km947 - Km987, tỉnh Quảng Nam. Việc đầu tư nâng cấp, mở rộng đoạn tuyến quốc lộ 1 này sẽ triển khai khi có đủ điều kiện".
Do đây là tuyến đường có nhiều khu công nghiệp, dẫn đến lưu lượng lưu thông trên đoạn tuyến ngày càng tăng cao. Để đảm bảo ATGT trên tuyến, UBND tỉnh Quảng Nam tiếp tục có văn bản số 2831/UBND-KTN ngày 21/7/2013 gửi Bộ GTVT về việc đầu tư mở rộng QL1 đoạn Km947 - Km987 theo hình thức BOT với chiều dài toàn tuyến 40 km (trong đó 11 km đã được đầu tư mở rộng với quy mô 4 làn xe, gồm các tuyến tránh thị trấn Vĩnh Điện, cầu Bà Rén, cầu Hương An, còn lại 29 km cần phải đầu tư mở rộng), quy mô đoạn ngoài đô thị chiều rộng nền đường 16,5m, sử dụng trạm thu phí Hòa Phước để hoàn vốn cho dự án và đề nghị Bộ GTVT xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho triển khai thực hiện.
Trên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh Quảng Nam, Bộ GTVT đã chỉ đạo tư vấn tính toán lại dự báo lưu lượng cho QL1 đoạn tuyến này trong bối cảnh giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn, có xét đến phân bổ lưu lượng cho tuyến cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi sau khi đưa vào khai thác, đồng thời nhằm đảm bảo hiệu quả tài chính của dự án BOT (do sử dụng trạm thu phí Hòa Phước hiện tại, không lập thêm trạm mới) và xác định nhu cầu đầu tư với quy mô chiều rộng nền đường 16,5m là hợp lý, hiệu quả. Do vậy, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư đoạn tuyến này theo hình thức BOT có sự hỗ trợ vốn của Nhà nước với quy mô đoạn qua đô thị có chiều rộng nền đường 20,5m, đoạn ngoài đô thị có chiều rộng nền đường 16,5m (văn bản số 7645/VPCP-KTN ngày 13/9/2013). Như vậy, việc mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Quảng Nam đã được triển khai đúng quy định, đảm bảo hiệu quả.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri tỉnh Quảng Nam, sau khi dự án cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đưa vào khai thác, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với tỉnh Quảng Nam đánh giá lưu lượng xe để có giải pháp xử lý an toàn giao thông trên tuyến quốc lộ 1.
269. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Xem xét hỗ trợ tỉnh đầu tư xây dựng cầu treo qua sông Mỹ tại thôn Rô, xã Cà Dy, huyện Nam Giang để nhân dân đi lại được thuận lợi.
Trả lời: (Tại Công văn số 3174/BGTVT-KH ĐT - ngày 28/3/2017)
Bộ GTVT thống nhất với cử tri tỉnh Quảng Nam về sự cần thiết xây dựng cầu Cà Dy, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thuận tiện kết nối giao thông thông suốt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong vùng, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân khi đi qua cầu.
Hiện nay Bộ GTVT đang triển khai Dự án xây dựng cầu dân sinh và Quản lý tài sản đường địa phương (LRAMP) vốn vay ngân hàng Thế giới (WB) đã được Chính phủ Việt Nam ký Hiệp định tín dụng với WB ngày 02/7/2016 và được triển khai xây dựng các dự án thành phần từ năm 2017 đến năm 2021 trong đó có tỉnh Quảng Nam. Tổng cục Đường bộ Việt Nam đang phối hợp với Sở GTVT các tỉnh rà soát cập nhật danh mục cầu theo tiêu chí của Dự án, báo cáo Bộ GTVT phê duyệt để thực hiện đầu tư xây dựng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam, chỉ đạo Sở GTVT, chính quyền địa phương phối hợp với Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát nếu cầu Cà Dy đáp ứng tiêu chí của Dự án thì báo cáo Bộ GTVT bổ sung vào danh mục thực hiện đầu tư trong khuôn khổ Dự án LRAMP trên cơ sở kinh phí của Tỉnh được phân bổ.
270. Cử tri tỉnh Sóc Trăng kiến nghị: Nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông, vận tải tăng cao, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển phía Nam; trong đó, có tỉnh Sóc Trăng. Cử tri kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương xem xét đầu tư xây dựng Dự án đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và Dự án đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ kết nối thành phố Cần Thơ, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực trong cả nước; Dự án xây dựng cầu Đại Ngãi trên tuyến Quốc lộ 60, nối tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc Trăng, đây là dự án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh các tỉnh khu vực Tây Nam bộ, đã được tổ chức Lễ khởi động ngày 12/12/2015; Cải tạo, nâng cấp tuyến Quốc lộ Nam sông Hậu và tuyến Quốc lộ Quản lộ Phụng Hiệp kết nối các tỉnh ven biển phía Nam và thành phố Cần Thơ (trung tâm kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long), vì hiện nay 02 tuyến quốc lộ này đã và đang xuống cấp nghiêm trọng
Trả lời: (Tại Công văn số 3299/BGTVT-KHĐT - ngày 30/3/2017)
1. Về kiến nghị đầu tư xây dựng đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và Mỹ Thuận - Cần Thơ:
Đường cao tốc Trung Lương - Cần Thơ được Bộ GTVT triển khai thành 02 dự án độc lập (gồm: Trung Lương - Mỹ Thuận và Mỹ Thuận - Cần Thơ) để thuận lợi trong việc huy động nguồn vốn tư nhân đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Về dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận theo hình thức đối tác công tư, hợp đồng BOT (sau đây gọi tắt là Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận): Bộ GTVT đã ký Hợp đồng BOT số 04/HĐ.BOT-BGTVT ngày 18/11/2016 với Nhà đầu tư.
Hiện nay, Bộ GTVT và Nhà đầu tư đang phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang để triển khai công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), cơ bản đã có công địa để có thể triển khai thi công từng phần. Nhà đầu tư đang tập trung hoàn thiện hồ sơ thiết kế và tiến hành công tác chuẩn bị thi công. Theo kế hoạch triển khai đã được Bộ GTVT và Nhà đầu tư thống nhất ký Hợp đồng BOT, sẽ hoàn thành Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận vào cuối năm 2018. Tuy nhiên, do còn khó khăn về huy động nguồn vốn tín dụng nên tiến độ dự án có thể sẽ kéo dài đến năm 2019.
Về dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ theo hình thức đối tác công tư, hợp đồng BOT (sau đây gọi tắt là Dự án Mỹ Thuận - Cần Thơ): Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án Nhà nước hỗ trợ cho Dự án Mỹ Thuận - Cần Thơ bằng quyền thu phí đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương; trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt đề xuất dự án tại Quyết định số 1666/QĐ-BGTVT ngày 31/5/2016. Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo quyết liệt để đẩy nhanh công tác lập, phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi và tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo quy định; dự kiến bắt đầu tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư từ tháng 4/2017 và phấn đấu triển khai thi công công trình trong năm 2017, hoàn thành công trình trong năm 2020. Dự án Mỹ Thuận - Cần Thơ đi qua địa bàn hai tỉnh (tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Đồng Tháp) nên công tác lập phương án GPMB cũng như triển khai thực hiện sẽ phức tạp hơn và mất nhiều thời gian hơn so với Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận.
Để triển khai dự án Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ thành công, đảm bảo chất lượng, sớm đưa vào khai thác, nhằm rút ngắn khoảng cách và thời gian lưu thông giữa TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng, Bộ GTVT và Nhà đầu tư các dự án rất cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành địa phương có dự án đi qua (03 tỉnh: Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long), đặc biệt trong vấn đề GPMB (dự án Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ có phạm vi ảnh hưởng trên diện rộng với khối lượng rất lớn). Bộ GTVT đã, đang và sẽ chỉ đạo quyết liệt Nhà đầu tư, các cơ quan liên quan của Bộ bám sát kế hoạch tiến độ, triển khai thi công ngay đối với phần mặt bằng đã bàn giao để tránh việc tái lấn chiếm và đẩy nhanh tiến độ các dự án.
2. Về kiến nghị đầu tư cầu Đại Ngãi:
Ngày 12/12/2015, Bộ GTVT đã tổ chức Lễ khởi động dự án để triển khai các thủ tục đầu tư dự án theo hình thức BOT đối với Hợp phần 1 (phần cầu chính dây văng của cầu Đại Ngãi 1) và nguồn vốn Nhà nước đối với Hợp phần 2 (gồm toàn bộ phần cầu dẫn của cầu Đại Ngãi 1, cầu Đại Ngãi 2, phần đường dẫn và công tác giải phóng mặt bằng). Tuy nhiên, do khó khăn trong việc lựa chọn nhà đầu tư, việc bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước rất khó khăn, do vậy Thủ tướng Chính phủ đã cho phép nghiên cứu, tìm kiếm nguồn vốn ODA để đầu tư dự án (Thông báo số 218/TB-VPCP ngày 05/8/2016). Hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh đã đồng ý đề xuất dự án xây dựng cầu Đại Ngãi sử dụng vốn ODA của Nhật Bản (Văn bản số 2743/VPCP-QHQT ngày 22/3/2017), Bộ GTVT sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan kêu gọi nguồn vốn vay ODA và hoàn thiện các thủ tục quy định để sớm triển khai Dự án.
3. Về kiến nghị nâng cấp, mở rộng tuyến Nam Sông Hậu và Quản Lộ - Phụng Hiệp:
Dự án cải tạo, nâng cấp tuyến Nam Sông Hậu và tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp mới được đầu tư xây dựng và hoàn thành năm 2011 với quy mô đường cấp IV đồng bằng, mặt đường láng nhựa. Hàng năm, Bộ GTVT vẫn bố trí nguồn vốn bảo trì để duy tu, sửa chữa đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ để hoàn thành các dự án đang triển khai dở dang nên không thể cân đối được cho các dự án này; nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016-2020 Quốc hội mới thông qua chủ trương sử dụng cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định. Tuy nhiên khả năng cân đối bố trí nguồn vốn để đầu tư nâng cấp các tuyến nêu trên là rất khó khăn. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.
271. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Hiện tại, đường N2 mới đưa vào sử dụng, nhưng đã xuống cấp, hư hỏng, gây khó khăn cho người dân khi tham gia giao thông và dễ xảy ra tai nạn giao thông. Đề nghị ngành giao thông tiến hành kiểm tra chất lượng thi công và sửa chữa những đoạn hư hỏng để đảm bảo an toàn. Đồng thời, đề nghị sớm triển khai đường Quốc lộ N1 (đoạn từ Tân Thành - Lò Gạch) để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng vùng biên giới.
Trả lời: (Tại Công văn số 3425/BGTVT-KHĐT- ngày 31/3/2017)
51. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị sớm mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 62 để tạo điều kiện phát triển khu vực Đồng Tháp Mười, thuận lợi cho việc đi lại của người dân và hạn chế tai nạn giao thông trên tuyến đường này.
Trả lời: (Tại Công văn số 3425/BGTVT-KHĐT- ngày 31/3/2017)
1. Đối với kiến nghị sửa chữa tuyến N2 và đầu tư tuyến N1 đoạn Tân Thành – Lò Gạch qua địa phận tỉnh Long An:
- Tuyến N2 qua địa bàn tỉnh Long An được triển khai đầu tư nâng cấp từ năm 2008 và đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2013. Do tuyến đi qua vùng có địa chất yếu nên mặt đường chỉ đầu tư với kết cấu láng nhựa, chấp nhận lún theo thời gian. Trong quá trình khai thác sử dụng, do lưu lượng ngày càng tăng cao, mặt đường có hiện tượng phát sinh ổ gà, lún đầu cầu, đầu cống, do vậy hàng năm Bộ GTVT vẫn bố trí nguồn vốn bảo trì để sửa chữa các hư hỏng trên tuyến. Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa các hư hỏng trên tuyến để đảm bảo êm thuận và an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông.
- Đối với tuyến N1 đoạn Tân Thành – Lò Gạch: Đoạn tuyến này thuộc Dự án đầu tư xây dựng tuyến N1 đoạn Km0+000 – Km98+660, tỉnh Long An đã được Bộ GTVT đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ để hoàn thành các dự án đang triển khai dở dang nên không thể cân đối được cho dự án này; nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016-2020 Quốc hội mới thông qua chủ trương sử dụng cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Về kiến nghị đầu tư nâng cấp Quốc lộ 62:
Theo quy hoạch, Quốc lộ 62 bắt đầu từ Tân An đến cửa khẩu Mộc Hóa, tỉnh Long An có chiều dài khoảng 76km. Trong đó, đoạn từ Quốc lộ 1 đến Âu tầu Rạch Chanh (Km0-Km7) đã được Bộ GTVT đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT rất hạn hẹp không đủ để hoàn thành các dự án đang triển khai dở dang nên không thể cân đối được cho dự án này; nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016-2020 Quốc hội mới thông qua chủ trương sử dụng cho các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương về việc sử dụng nguồn vốn này để xây dựng phương án trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, quyết định.
Đoạn tuyến còn lại từ Âu tầu Rạch Chanh đến cửa khẩu Bình Hiệp (Km7-Km76), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư theo hình thức BOT (Thông báo số 367/TB-VPCP ngày 14/11/2016 và Văn bản số 10454/VPCP-KTN ngày 02/12/2016 của Văn phòng Chính phủ), Bộ GTVT đang tổ chức lấy ý kiến tham vấn của Tỉnh ủy Long An, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lon An, HĐND tỉnh Long An, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô tỉnh Long An. Đến nay, Bộ GTVT đã nhận được ý kiến đồng thuận của các cơ quan xin ý kiến và đang khẩn trương thực hiện các bước tiếp theo theo quy định để sớm triển khai dự án.
272. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri phấn khởi Quốc lộ 20 đã dược đầu tư và sắp hoàn thành, bên cạnh đó dự kiến năm 2017 sẽ tiếp tục khởi công xây dựng đường cao tốc Dầu Giây – Liên Khương. Tuy nhiên hiện nay Quốc lộ 27 nối giữa Lâm Đồng và tỉnh Đăk Nông hiện nay đã xuống cấp trầm trọng, gây khó khăn cho người dân, nhất là mùa mưa bão. Quốc lộ 27B nối Đà Lạt – Nha Trang (Khánh Hòa) cũng xuống cấp nhiều. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải bố trí vốn để nâng cấp Quốc Lộ 20 và Quốc lộ 27.
Trả lời: (Tại Công văn số 2960/BGTVT-KHĐT - ngày 22/3/2017)
Các tuyến QL27 (nối từ Đắk Lắk qua Lâm Đồng và tới Ninh Thuận), QL27B (nối từ Ninh Thuận với Khánh Hoà) và QL28 (nối từ Bình Thuận qua Lâm Đồng và tới Đắk Nông) đang được Bộ GTVT quản lý và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013.
Với các tuyến quốc lộ nêu trên, Bộ GTVT đã rà soát một số đoạn tuyến cấp bách và đề xuất trong danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nguồn vốn dự kiến được giao rất hạn chế nên Bộ GTVT chưa thể cân đối vốn cho các dự án này. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng phối hợp với Bộ GTVT trong quá trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trong khi chưa triển khai thực hiện đầu tư được ngay, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và đảm bảo an toàn giao thông.
273. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Đường Quốc lộ 9, đoạn đi qua Phường 3, phường 4- thành phố Đông Hà, là đường Quốc lộ không xây dựng hệ thống cống thoát nước. Vì vậy, vào mùa mưa, nhà ở một số hộ dân sinh sống hai bên đoạn đường này thường bị ngập úng. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải quan tâm giải quyết.
Trả lời: (Tại Công văn số 3275/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
Trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Quảng Trị tại văn bản số 4595/UBND-CN ngày 02/11/2016 về việc hỗ trợ kinh phí cải tạo hệ thống ATGT và thoát nước dọc từ Km14+170-Km17+740/QL.9 đoạn qua thành phố Đông Hà; kiến nghị của cử tri gửi đến sau Kỳ họp thứ 2 - Quốc hội khóa XIV, ngày 09/3/2017, Bộ GTVT đã phối hợp với Cục QLĐB II, Sở GTVT Quảng Trị, Văn phòng Quỹ BTĐBTƯ đã tiến hành kiểm tra hiện trường QL.9 đoạn qua thành phố Đông Hà. Kết quả kiểm tra như sau:
- Quốc lộ 9 đoạn qua thành phố Đông Hà có điểm đầu Km13+740 (đầu cầu vượt Đông Hà - Km0+00 theo lý trình hiện trạng), điểm cuối Km21+081 (Km7+341 lý trình hiện trạng), được cải tạo, nâng cấp hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng năm 2006 với tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng, tần suất thiết kế P=4%, kết cấu mặt đường bằng bê tông nhựa. Từ khi công trình đưa vào khai thác đến nay, công tác Bảo dưỡng thường xuyên được thực hiện đáp ứng yêu cầu nên mặt đường đường êm thuận, hệ thống an toàn giao thông đầy đủ và phát huy tác dụng, đáp ứng yêu cầu khai thác, đảm bảo an toàn giao thông.
- Sau hơn 10 năm đưa vào khai thác sử dụng, đoạn tuyến chưa xảy ra tình trạng ngập úng gây cản trở giao thông, mặt đường khô ráo sau mưa trừ một số vị trí đọng nước bên lề đường. Nguyên nhân, do tốc độ đô thị hóa nhanh, dân cư phát triển dọc hai bên đường, trong khi một số đoạn chưa được đầu tư hệ thống thoát nước dọc tuyến nên hệ thống thoát nước hiện tại chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là khu vực đông dân cư gây tình trạng đọng nước cục bộ (bên lề đường sau mưa) tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông.
Để đảm bảo an toàn giao thông, phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị, hạn chế hư hỏng mặt đường, nâng cao hiệu quả khai thác của đoạn tuyến, Bộ GTVT nhận thấy việc bổ sung hệ thống thoát nước QL.9 đoạn qua thành phố Đông Hà (Km13+740-Km21+081) là cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn còn khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu, Bộ GTVT sẽ bố trí bổ sung hệ thống thoát nước trên trong Kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2018. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục ĐBVN, Cục QLĐB II tăng cường công tác bảo dưỡng thường xuyên, lắp đặt tạm thời ống dẫn nước về các vị trí xả, đồng thời cử người trực thường xuyên trên tuyến khi trời mưa lớn để đảm bảo giao thông và khơi thông các vị trí đọng nước.
274. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Đa số cử tri phản ánh tình trạng các công trình giao thông hiện nay chưa được đảm bảo và đầu tư đúng mức, tiến độ thi công chậm, gây ô nhiễm môi trường, khi đưa vào khai thác sử dụng mau xuống cấp, kém chất lượng, đề nghị có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đồng thời, cử tri kiến nghị sớm thi công Dự án nâng cấp, nới rộng tuyến Quốc lộ 54, vì hiện nay tuyến Quốc lộ này lưu lượng xe qua lại nhiều nhưng mặt đường hẹp, đang xuống cấp ảnh hưởng đến việc đi lại và vận chuyển hàng hóa.
Trả lời: (Tại Công văn số 3087/BGTVT-CQLXD - ngày 27/3/2017)
Trong thời gian qua các dự án xây dựng giao thông hoàn thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các vùng, các địa phương nơi có công trình, dự án triển khai. Tuy nhiên, tại một số dự án, công trình khi đưa vào sử dụng đã xuất hiện một số tồn tại, khiếm khuyết về chất lượng ở một số hạng mục hoặc bộ phận công trình làm hạn chế khả năng khai thác sử dụng của công trình.
Bộ GTVT luôn xác định công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tiến độ trong đầu tư xây dựng công trình giao thông là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đảm bảo hiệu quả đầu tư các dự án. Vừa qua, Bộ GTVT đã triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ chất lượng công trình như:
- Nâng cao năng lực, phân định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể tham gia dự án (Chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát…) trong quá trình thực hiện đầu tư nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ thực hiện từ khâu lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến thi công xây lắp.
- Rà soát, kiến nghị sửa đổi, điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật và chế độ chính sách để tăng cường công tác quản lý chất lượng và công tác lựa chọn Nhà thầu.
- Rà soát, hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ mới... đảm bảo thực hiện có chất lượng từ giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát – thiết kế đến giai đoạn thi công, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát quản lý chất lượng, góp phần đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án.
- Ban hành các quy định đánh giá kết quả thực hiện và xếp hạng, phân loại các chủ thể tham gia quá trình thực hiện các dự án: Chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, Tư vấn thiết kế, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công và tiến hành thực hiện nghiêm túc, khách quan công tác đánh giá, xếp loại các chủ thể làm căn cứ để lựa chọn các đơn vị tham gia thực hiện dự án.
- Chủ động kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa các yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình, kiên quyết xử lý đối với các cá nhân, tổ chức có vi phạm.
- Tăng cường công tác kiểm định, giám định chất lượng tại các dự án có nghi ngờ về chất lượng để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh đảm bảo chất lượng công trình.
Đối với Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL54 thuộc tỉnh Vĩnh Long, Bộ GTVT đã giao cho đơn vị chuyên môn trực nghiên cứu đầu tư theo hình thức hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT). Tuy nhiên, vừa qua Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ GTVT tạm thời ngừng triển khai dự án theo hình thức BOT, nghiên cứu phương án nguồn vốn khác để triển khai dự án. Tại buổi làm việc với Lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, kiểm tra để triển khai việc duy tu, sửa chữa đảm bảo giao thong êm thuận trên tuyến.
275. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét lại việc xây dựng Sân bay Quốc tế ở An Giang vì ở miền Tây đã có Sân bay Quốc tế Cần Thơ, nhưng lượng khách và số chuyến bay rất ít, Bộ Giao thông Vận tải lại tiếp tục đề xuất xây dựng sân bay Quốc tế ở An Giang. Đồng thời, trong khi năm 2016 ngân sách nhà nước thu không đủ chi nhưng Chính phủ lại đề nghị xây đường cao tốc Bắc Nam, gây lãng phí lớn.
Trả lời: (Tại Công văn số 3695/BGTVT- ngày 7/4/2017)
(1) Về nội dung liên quan đến xây dựng sân bay quốc tế ở An Giang
Căn cứ Quyết định 21/QĐ-TTg ngày 08/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển GTVT hàng không giai đoạn 2020 và định hướng đến năm 2030, Bộ GTVT đã phê duyệt quy hoạch sân bay An Giang tại Quyết định số 1166/QĐ-BGTVT ngày 02/6/2011 với định hướng là sân bay nhỏ, phục vụ mục đích bay taxi, bay tìm kiếm cứu nạn và chỉ nghiên cứu khai thác dân dụng khi có nhu cầu. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Hàng không dân dụng sửa đổi năm 2014, đến nay sân bay An Giang không thuộc đối tượng đầu tư do Bộ GTVT quản lý. Trường hợp sân bay An Giang là sân bay chuyên dùng sẽ do Bộ Quốc phòng quản lý.
Vì vậy, Bộ GTVT chưa có kế hoạch nghiên cứu đầu tư xây dựng sân bay An Giang là sân bay quốc tế như thông tin của cử tri đã nêu.
(2) Về nội dung liên quan đến đầu tư đường cao tốc Bắc - Nam
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng (KCHT) kinh tế, xã hội và đã đạt được những kết quả nhất định; phần lớn kết cấu hạ tầng giao thông (KCHTGT) đã được triển khai theo tinh thần Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI bao gồm các lĩnh vực đường sắt, đường thủy, cảng biển, cảng hàng không, QL.1 đã hoàn thành mở rộng quy mô 4 làn xe; riêng đường bộ cao tốc đã và đang đầu tư với chiều dài 1.324km, còn kém xa so với mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành đưa vào sử dụng 2.000km. Mặt khác, theo kết quả nghiên cứu của tư vấn và đánh giá của các tổ chức quốc tế, hệ thống KCHTGT vẫn còn nhiều bất cập, vẫn là điểm nghẽn của nền kinh tế, giảm năng lực cạnh tranh và trở thành thách thức lớn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hành lang kinh tế Bắc - Nam từ TP. Hà Nội đi TP. Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế nước ta (kết nối trung tâm chính trị Thủ đô Hà Nội và trung tâm kinh tế TP. Hồ Chí Minh đi qua địa phận 20 tỉnh/thành phố, tác động đến 45% dân số, đóng góp 52% tổng sản phẩm trong nước, ảnh hưởng đến 75% các cảng biển loại I-II và 67% các khu kinh tế của cả nước), đến năm 2020 vai trò của hành lang này lại càng quan trọng, đóng góp tỷ trọng GDP rất lớn cho đất nước. Với vai trò quan trọng như vậy nên cần thiết phải ưu tiên đầu tư để tạo động lực phát triển cho hành lang này, đặc biệt là yêu cầu về phát triển KCHT hiện đại.
Hiện nay, về lĩnh vực đường sắt, Bộ GTVT đang gấp rút để hoàn chỉnh Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao theo chỉ đạo của Chính phủ để trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư; tuy nhiên, đường sắt tốc độ cao cần kinh phí đầu tư lớn, thực hiện trong thời gian dài, trình độ công nghệ của đất nước chưa đủ khả năng làm chủ kỹ thuật và cần chuẩn bị chương trình đào tạo nguồn lực. Lĩnh vực hàng không đã và đang được đầu tư, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vận tải đến năm 2025, ngoài ra sau khi đầu tư cảng hàng không Long Thành giai đoạn 1 thì đáp ứng nhu cầu đến năm 2030. Lĩnh vực hàng hải và đường thủy nội địa đã cơ bản đáp ứng nhu cầu. Riêng đối với lĩnh vực đường bộ, trên trục vận tải hành lang Bắc Nam đang dựa vào QL.1; mặc dù QL.1 đã được mở rộng với quy mô 4 làn xe, tuy nhiên ngay từ bước trình chủ trương đầu tư đã xác định việc mở rộng QL.1 chỉ đáp ứng được nhu cầu vận tải giai đoạn trước mắt (đến năm 2020), đến nay một số đoạn lưu lượng giao thông lớn đã quá tải và xẩy ra ùn tắc, đặc biệt trong các dịp cao điểm.
Theo kết quả số liệu dự báo đến năm 2020, nhu cầu hành khách, hàng hóa trên hành lang vận tải Bắc - Nam là 45,37 triệu hành khách/năm và 62,27 triệu tấn hàng hóa/năm. Tổng năng lực các loại phương thức vận tải trên hành lang Bắc - Nam, trong trường hợp không có đường sắt tốc độ cao, đến năm 2020 đạt 39,45 triệu hành khách/năm (trong đó năng lực vận tải hàng không đạt khoảng 17,74 triệu hành khách/năm, đường sắt hiện tại khổ 1000mm năng lực vận chuyển hành khách sau khi nâng cấp cũng chỉ đạt khoảng 2,37 triệu hành khách/năm, năng lực QL.1 và đường Hồ Chí Minh đạt khoảng 19,34 triệu hành khách/năm). Như vậy, đến năm 2020 nếu không xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam hoặc đường sắt tốc độ cao thì nhu cầu vận tải trên hành lang này chỉ riêng đối với vận tải hành khách sẽ bị vượt quá so với năng lực thông hành của hệ thống KCHT hiện tại khoảng 5,92 triệu hành khách/năm. Trong khi đường sắt tốc độ cao không thể triển khai ngay trong giai đoạn đến năm 2025 thì việc đầu tư ngay tuyến đường bộ cao tốc để đáp ứng nhu cầu vận tải là rất cần thiết và cấp bách. Ngoài ra, trong bối cảnh hiện tượng biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp cùng với việc đảm bảo quốc phòng, an ninh thì việc có tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam sẽ hỗ trợ một số đoạn tuyến QL.1 trong trường hợp xẩy ra sự cố, đảm bảo lưu thông Bắc - Nam được thông suốt trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Với những phân tích nêu trên, việc nghiên cứu và sớm đầu tư tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam là rất cần thiết, không thể trì hoãn. Thực hiện Nghị quyết số 26/2016/QH14 ngày 10/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ GTVT lập, hoàn chỉnh báo cáo nghiên cứu tiền khả thi tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam đoạn Tp. Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh để trình Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư.
276. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan kịp thời kiểm tra, xử lý và thông báo đến cử tri rõ việc đầu tư, thi công không đồng bộ dự án nâng cấp Quốc lộ 1 (đoạn đi qua xã Xuân Tâm, xã Xuân Hòa và thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) không đảm bảo an toàn giao thông, do hệ thống cống thoát nước ở khu vực trên không đạt chất lượng.
Trả lời: (Tại Công văn số 2787/BGTVT-QLXD - ngày 17/3/2017)
Ngày 23/01/2017, Bộ GTVT đã có Văn bản số 876/BGTVT-QLXD trả lời cử tri tỉnh Đồng Nai về nội dung này.
Theo chỉ đạo của Bộ GTVT, ngày 10/11/2016 Tổng cục Đường bộ Việt Nam (ĐBVN) đã phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai và Nhà đầu tư tiến hành kiểm tra hiện trường và thống nhất đề nghị Bộ GTVT chấp thuận đầu tư bổ sung hệ thống thoát nước tại các vị trí nêu trên cùng với việc đầu tư mở rộng nền, mặt đường để lắp đặt dải phân cách giữa hạn chế tai nạn giao thông của đoạn tuyến. Hiện nay, các thủ tục điều chỉnh dự án còn chờ ý kiến của Bộ Tài nguyên – Môi trường về báo cáo đánh giá tác động môi trường. Sau khi có ý kiến của Bộ Tài nguyên – Môi trường, Bộ GTVT sẽ khẩn trương hoàn tất các thủ tục và chỉ đạo Nhà đầu tư sớm triển khai thi công các hạng mục nêu trên.
277. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị nhà nước đầu tư sửa chữa, mở rộng Quốc lộ 279 đoạn từ điểm nối đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu và đoạn 8km từ xã Bảo Hà đi huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai hiện xuống cấp, chưa được đầu tư đi lại rất khó khăn.
Cử tri phản ánh, Quốc lộ 279 từ xã Bảo Hà đi huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai hiện còn khoảng 8km chưa được đầu tư sửa chữa, đi lại hết sức khó khăn. Cử tri đề nghị sớm quan tâm đầu tư xây dựng đồng bộ để thuận lợi cho các phương tiện tham gia giao thông và đảm bảo an toàn cho người dân trong khu vực.
Trả lời: (Tại Công văn số 2558/BGTVT-KHĐT - ngày 14/3/2017)
278. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh quốc lộ 1A sau khi đã được cải tạo nâng cấp nhưng hiện nay nhiều tuyến đã hư hỏng, xuống cấp, ảnh hưởng đến giao thông và đời sống nhân dân. Đề nghị chính phủ chỉ đạo kiểm tra khẩn trương khắc phục và làm rõ trách nhiệm của đơn vị thi công những đoạn đường hư hỏng xuống cấp.
Trả lời: (Tại Công văn số 2558/BGTVT-KHĐT - ngày 14/3/2017)
Do các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ dự kiến bố trí cho Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế nên chưa thể triển khai được dự án này. Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục cân đối, bố trí vốn để sửa chữa, bảo trì bảo đảm giao thông êm thuận và an toàn.
279. Cử tri tỉnh Khánh hòa kiến nghị: “Cử tri phản ánh quốc lộ 1A sau khi đã được cải tạo nâng cấp nhưng hiện nay nhiều đoạn tuyến đã hư hỏng, xuống cấp, ảnh hưởng đến giao thông và đời sống nhân dân. Đề nghị chính phủ chỉ đạo kiểm tra, khẩn trương khắc phục và làm rõ trách nhiệm của đơn vị thi công những đoạn đường hư hỏng xuống cấp”.
Trả lời: (Tại Công văn số 3165/BGTVT-CQLXD - ngày 28/3/2017)
1. Quốc lộ 1A qua địa bàn tỉnh Khánh Hòa được Bộ GTVT đầu tư mở rộng trong thời gian vừa qua gồm 04 dự án (Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1374+525 - Km1392 và Km1405 - Km1425, tỉnh Khánh Hòa theo hình thức hợp đông BOT; Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1392 - Km1405 và Km1425 - Km1445, tỉnh Khánh Hòa; Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1445 - Km1488, tỉnh Khánh Hòa; Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1488 - Km1525, tỉnh Khánh Hòa theo hình thức hợp đông BOT). Các dự án bắt đầu triển khai thi công tư cuối năm 2013 và hoàn thành, bàn giao đưa vào khai thác sử dụng đầu năm 2016.
2. Sau khi các dự án hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng cũng đã xuất hiện một số hư hỏng. Trong đó, nguyên nhân dẫn đến hư hỏng bao gồm cả những nguyên nhân do chủ quan từ phía nhà thầu gây ra (thuộc trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu) và do ảnh hưởng của đợt mưa lũ trên địa bàn trong khoảng thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2016, cụ thể như sau:
2.1. Về các hư hỏng thuộc trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu: Sau khi bàn giao đưa công trình vào khai thác, đã xuất hiện một số vị trí ổ gà, hư hỏng mặt đường trên diện tích nhỏ,… đã được các Chủ đầu tư, Ban QLDA chỉ đạo các Nhà thầu bằng kinh phí của mình sửa chữa, khắc phục kịp thời. Cụ thể như sau:
- Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1374+525 - Km1392 và Km1405 - Km1425, tỉnh Khánh Hòa theo hình thức hợp đông BOT: Tổng diện tích hư hỏng khoảng 916,75m2; sạt lở mái ta luy dương bên phải tuyến đoạn Km1416+100 - Km1416+150 với khối lượng khoảng 300m3. Các nội dung này thuộc trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu, đã được Nhà thầu sửa chữa, khắc phục hoàn thành trong tháng 12/2016
- Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1392 - Km1405 và Km1425 - Km1445, tỉnh Khánh Hòa: Tổng diện tích hư hỏng khoảng 350m2/588.900m2 chiếm 0,06% diện tích mặt đường, đã hoàn thành công tác sửa chữa trong tháng 12/2016.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km1445 - Km1488, tỉnh Khánh Hòa: Tổng diện tích hư hỏng khoảng 430m2/838.500m2 chiếm 0,05% diện tích mặt đường, đã hoàn thành công tác sửa chữa trong tháng 12/2016.
2.2. Về các hư hỏng không thuộc trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu: Do ảnh hưởng của mưa lũ trong khoảng thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 12/2016 (đặc biệt là khoảng thời gian từ ngày 29/11/2016 đến ngày 17/12/2016) gây ra sạt trượt mái ta luy, hư hỏng rãnh thoát nước, xói lở cầu cống, lún mặt đường do ngập nước,…cụ thể như sau:
- Hư hỏng nền, móng, mặt đường các đoạn tuyến: Km1430+060 - Km1430+200, đường đầu cầu Giăng Dây (Km1428+570 - Km1428+620), Km1443+500 - Km1443+600, Km1447+700 - Km1447+850, Km1450+690 - Km1450+800;
- Hư hỏng bê tông dải phân cách, tấm chống chói các đoạn: Km1442+1020 - Km1442+1120, Km1443+600 - Km1443+920, hư hỏng tường hộ lan mềm đầu cầu Giăng Dây (khoảng 25m dài);
- Sạt lở mái taluy, tạo hàm ếch vào nền đường, hư hỏng BTN làn xe thô sơ các đoạn tuyến: Km1442+1100 - Km1442+1150 (trái tuyến), Km1444+300 -Km1444+800 (trái tuyến), Km1445+300 - Km1445+710 (trái tuyến), Km1450+750 - Km1450+800 (bên trái tuyến);
- Sạt lở taluy, nền đường, đầu cống, sân cống tại các vị trí cống ngang: Km1442+734,62, Km1449+500 và Km1449+850.
Các hư hỏng này không thuộc trách nhiệm bảo hành của Nhà thầu. Do dự án đã hoàn thành, bàn giao đưa vào khai thác sử dụng và đang thực hiện công tác quyết toán dự án hoàn thành, Bộ GTVT đã có văn bản số 1274/BGTVT-CQLXD ngày 09/02/2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng nguồn vốn của các dự án mở rộng Quốc lộ 1 để tiến hành sửa chữa; đồng thời kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép nghiên cứu giải pháp thiết kế tăng cường kết cấu áo đường phù hợp với đặc thù khí hậu và nguồn vật liệu trong khu vực bằng nguồn vốn còn lại sau khi đã quyết toán các gói thầu (đối với các dự án vốn TPCP) và bằng nguồn kinh phí còn lại của dự án (đối với các dự án BOT). Bộ GTVT sẽ triển khai ngay các nội dung công việc nêu trên sau khi có ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
280. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các đơn vị thi công có phương án sửa chữa lại một số đoạn trên quốc lộ 1A, quốc lộ 19 (trong đó có đoạn đi qua địa phận tỉnh Bình Định) tuy mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp hư hỏng.
Trả lời: (Tại Công văn số 224/BGTVT- ngày 9/1/2017)
Đoạn tuyến QL1A từ Km1125 - Km1265 qua tỉnh Bình Định và một phần tỉnh Phú Yên có tổng chiều dài là 140 km, trong đó có khoảng 121 km được đầu tư nâng cấp, mở rộng trong thời gian vừa qua và chia thành 03 dự án (các đoạn còn lại đã đủ quy mô bề rộng mặt đường không đầu tư mở rộng). Cả 03 dự án đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015.
Từ khi thông xe đến nay, tuyến đường đã trải qua 02 mùa mưa lũ. Do ảnh hưởng của các đợt mưa lũ, một số đoạn trên tuyến QL1, bao gồm cả những đoạn không thuộc các dự án nâng cấp mở rộng đã bị hư hỏng mặt đường. Ngay khi phát hiện hư hỏng, Bộ GTVT đã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo các nhà đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phụchư hỏng theo trách nhiệm bảo hành (đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp) và bảo trì công trình (đối với các đoạn không thuộc các dự án mở rộng, nâng cấp do Tổng cục ĐBVN quản lý). Đặc biệt, đợt mưa lũ năm 2016 vừa qua, với diễn biến phức tạp của thời tiết, mưa, lũ lớn kéo dài gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng nặng nề hơn cho mặt đường. Để đảm bảo yêu cầu khai thác an toàn trên tuyến, Lãnh đạo Bộ GTVT và các cơ quan chức năng của Bộ đã thường xuyên tổ chức kiểm tra, chỉ đạo và đôn đốc các đơn vị liên quan khẩn trương kịp thời khắc phụcnhững hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông trong giai đoạn mưa lũ và tiến hành sửa chữa hoàn trả mặt đường theo tiêu chuẩn của dự án ngay sau khi điều kiện thời tiết cho phép. Để đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ khẩn trương tìm biện pháp sửa chữa phù hợp đảm bảo chất lượng.
281. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phản ánh hiện nay việc thi công đường tránh thị trấn Phù Mỹ trên tuyến quốc lộ 1A đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Tuy nhiên hệ thống kênh mương, cầu cống còn nhiều bất cập, lắp đặt không phù hợp, một số cống, mương thoát nước bị lấp gây ngập úng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân (đặc biệt tại 03 thôn Trung Bình, Trà Lương, Trực Đạo xã Mỹ Trinh). Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo ban quản lý dự án đường Hồ Chí Minh xem xét, kiểm tra có biện pháp khắc phục.
Trả lời: (Tại Công văn số 3891/BGTVT-KHĐT - ngày 12/04/2017)
- Nội dung 1:
Sau khi nhận thông tin về nội dung phản ánh của cử tri, Bộ GTVT đã yêu cầu và chỉ đạo Ban QLDA đường Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan kiểm tra, xem xét khắc phục. Ngày 03/3/2017, Ban QLDA đường Hồ Chí Minh, Ban an toàn giao thông tỉnh Bình Định, Chi cục Quản lý đường bộ III.2 cùng các bên liên quan đã đi kiểm tra hiện trường các dự án mở rộng Quốc lộ 1 qua địa bàn tỉnh Bình Định và Phú Yên từ Km1125+00 – Km1265+00, đặc biệt là hệ thống kênh mương, cầu cống trênđoạn tuyến tránh thị trấn Phù Mỹ. Các đơn vị đã kiểm tra thực tế,lập biên bản thống nhất về biện pháp và tiến hành công tác sửa chữa, khắc phục một số vị trí. Cụ thể như sau:
- Tại cống thoát nước ngang Km1172+800 trước cầu Mỹ Trinh 3: Có hiện tượng tắc cống, nước không thoát kịp gây úng ngập: Tiến hành nạo vét đảm bảo thoát nước.
- Cống thoát nước ngang tại lý trình Km1171+1005, trước nút giao ngã ba đi Hoài Ân: Một số hộ dân lấn chiếm ra phạm vi chân ta luy đường để kinh doanh (tắm heo), ngăn thoát nước dọc về vị trí cống. Làm việc với UBND huyện Phù Mỹ để giải quyết vấn đề hoàn trả phạm vi quản lý và sử dụng của công trình đường bộ đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của Dự án.
- Một số vị trí trên tuyến thuộc đoạn Km1166+200 bên trái tuyến và đoạn thị trấn Bình Dương (đoạn trạm dừng chân Chín Nghĩa): Rà soát lại về phạm vi hành lang an toàn đường bộ và bổ sung thoát nước (nếu cần thiết).
- Nội dung 2:
a) Về việc sửa chữa một số đoạn tuyến QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định:
Các dự án nâng cấp mở rộng QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015. Sau thông xe, truyến đường đã trải qua 02 mùa mưa lũ năm 2015 và 2016. Đặc biệt là đợt mưa lũ năm 2016 vừa qua, với diễn biến phức tạp của thời tiết, mưa, lũ lớn kéo dài gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng nặng nề cho mặt đường (bao gồm cả những đoạn đã đầu tư nâng cấp từ trước). Ngay khi phát hiện hư hỏng, Lãnh đạo Bộ GTVT và các cơ quan chức năng của Bộ đã thường xuyên tổ chức kiểm tra, chỉ đạo và đôn đốc các nhà đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phục hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông trong giai đoạn mưa lũ và tiến hành sửa chữa hoàn trả mặt đường theo tiêu chuẩn của dự án ngay sau khi điều kiện thời tiết cho phép. Đến nay, toàn bộ các các vị trí hư hỏng mặt đường đã được nhà thầu hoàn thành công tác sửa chữa theo trách nhiệm bảo hành (đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp) và bảo trì công trình (đối với các đoạn không thuộc các dự án mở rộng, nâng cấp do Tổng cục ĐBVN quản lý).
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017, Bộ GTVT đang tiếp tục chỉ đạo và kiểm tra công tác sửa chữa khắc phục, đồng thời khẩn trương nghiên cứu và triển khai biện pháp sửa chữa phù hợp nhằm đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình.
b) Về nội dung liên quan đến Quốc lộ 19 đoạn qua địa phận tỉnh Bình Định (Km17+054,41-Km50+00) thuộc dự án đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT do Tổng Công ty 36 là Nhà đầu tư, Công ty TNHH BOT 36.71 là doanh nghiệp thực hiện dự án. Dự án đã hoàn thành thi công, đưa vào khai thác sử dụng tháng 4/2016. Do tình hình thời tiết khu vực Bình Định năm 2016 diễn biến bất thường, trong 6 tháng cuối năm mùa mưa kéo dài, có thời điểm nước ngập dài ngày, điển hình là đợt mưa tháng 12/2016 kéo dài trên 40 ngày. Bên cạnh đó, vấn đề xe quá tải chở cát, vật liệu xây dựng trên địa bàn chưa được kiểm soát chặt chẽ, triệt để. Vì vậy, mặt đường đã phát sinh hư hỏng tại một số vị trí. Ngay sau đợt mưa lũ cuối năm 2016, Bộ GTVT đã chỉ đạo Nhà đầu tư khẩn trương kiểm tra và thực hiện công tác đảm bảo giao thông, duy trì việc lưu thông bình thường của các phương tiện, đảm bảo tuyệt đối an toàn, qua kiểm tra đến thời điểm ngày 8/3/2017 còn 04 vị trí ổ gà (01 vị trí tại Km31+050 & 03 vị trí tại Km37+200), diện tích trung bình 0,3m2, sâu 5-8cm. Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Nhà đầu tư thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, phát hiện, khắc phục kịp thời những hư hỏng để đảm bảo chất lượng công trình và đảm bảo tuyệt đối an toàn giao thông.
Để đảm bảo chất lượng khai thác trên tuyến Quốc lộ 19, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Bình Định chỉ đạo các cơ quan chức năng của Tỉnh có giải pháp quyết liệt, kịp thời ngăn chặn tình trạnh xe quá khổ, quá tải, vận chuyển cát lưu thông trên tuyến.
282. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri cho rằng từ tháng 9/2014, Tỉnh lộ 638 ( đoạn đi từ Diêu Trì huyện Tuy Phước đến huyện Vân Canh tỉnh Bình Định) được Bộ Giao thông vận tải nâng cấp thành quốc lộ 19C và bổ sung quy hoạch trên địa phận các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk và quy hoạch chung phát triển ngành giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đây là tuyến giao thông huyết mạch nối các tỉnh duyên hải miền Trung với Tây Nguyên có ý nghĩa quan trọng trong tránh trú bão, cứu hộ cứu nạn, gắn phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng với miền núi và đảm bảo an ninh- quốc phòng. Từ đó, trên tuyến quốc lộ này lưu lượng phương tiện liên tỉnh lưu thông ngày càng lớn, trong khi đường hẹp, xuống cấp, nhiều đoạn xuống dốc liên tục, góc cua gấp, đã xảy ra liên tiếp hàng chục vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng. Cử tri Bình Định bức xúc kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sẽ sớm có kế hoạch nâng cấp mở rộng tuyến đường này nhất là khắc phục những điểm đen tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 2439/BGTVT-KHĐT ngày 10/03/2017)
Quốc lộ 19C trước đây là các tuyến đường tỉnh lộ trên địa phận các tỉnh Bình Định (tỉnh lộ ĐT.638), tỉnh Phú Yên (tỉnh lộ ĐT.641, ĐT.642, ĐT.643, Đt.649) với tổng chiều dài là 151,48km, trong đó đoạn qua tỉnh Bình Định dài 39,38km. Theo đề nghị của các tỉnh, để phát triển kinh tế xã hội Bộ GTVT đã chấp thuận nâng cấp thành Quốc lộ 19C tại Quyết định số 3302/QĐ-BGTVT ngày 28/8/2014 và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung vào Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 2054/QĐ-TTg ngày 23/11/2015 với tiêu chuẩn đường cấp III, IV, quy mô 2 làn xe.
Do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 còn khó khăn nên Bộ GTVT chưa thể triển khai nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 19C phù hợp với quy mô đã được phê duyệt. Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 32,13 tỷ đồng, trước mắt bố trí vốn đầu năm 2017 là 15,2 tỷ đồng.
283. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Đề nghị chính phủ xác định đường giao thông 457 (nối từ quốc lộ 39 B đến cầu Trà Giang huyện Thái Thụy đi Hải Phòng) là quốc lộ và đầu tư kinh phí để nâng cấp, vì đây sẽ là con đường giao thông quan trọng giúp ngắn quãng đường từ các huyện Tiền Hải, Kiến Xương tỉnh Thái Bình đi Hải Phòng và sẽ giảm lưu lượng phương tiện giao thông cho quốc lộ 5, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cho tỉnh Thái Bình.
Trả lời: (Tại Công văn số 3331/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Tuyến ĐT.457 (ĐT.222 cũ) dài 20,3 km từ QL.39 (thuộc địa phận xã Đông Tân, huyện Đông Hưng) đến QL.37B (thuộc địa phận thị trấn Thanh Nê, huyện Kiến Xương) hiện do Sở GTVT Thái Bình quản lý. Tuyến đường đi qua địa phận của 3 huyện là Kiến Xương, Thái Thụy và Đông Hưng. Trong những năm qua, tuyến ĐT.457 đã được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp theo quy hoạch, cụ thể như sau:
- Năm 2015 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng giai đoạn 1 Dự án đầu tư xây dựng công trình tuyến đường từ QL.39 đi phà Cồn Nhất (ĐT.222 kéo dài) bao gồm cầu Trà Giang vượt sông Trà Lý và đường hai đầu cầu với tổng chiều dài 5,9 km từ đường huyện ĐH.91 đến xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.
- Dự kiến đến cuối năm 2017 sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng giai đoạn 2 dự án đoạn từ QL.39 (thuộc địa phận xã Đông Tân, huyện Đông Hưng) đến đường ĐH.91 dài 4,6km.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình giao Uỷ ban nhân dân huyện Kiến Xương làm chủ đầu tư thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp tuyến ĐT.457 (đường 222 cũ) đoạn từ xã Trà Giang đến QL.37B (thuộc địa phận thị trấn Thanh Nê, huyện Kiến Xương) dài 9,8 km. Hiện nay đang tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu xây lắp, dự kiến quý II/2017 sẽ được khởi công xây dựng.
2. Theo quy định tại Điều 39 Luật giao thông đường bộ: Quốc lộ là đường nối liền Thủ đô Hà Nội với trung tâm hành chính cấp tỉnh; đường nối liền trung tâm hành chính cấp tỉnh từ ba địa phương trở lên; đường nối liền từ cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế đến các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính trên đường bộ; đường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng, khu vực.
Căn cứ vào quy định nêu trên, tuyến ĐT.457 (đường ĐT.222 cũ) nằm trên địa bàn của ba huyện thuộc tỉnh Thái Bình, không đáp ứng được các tiêu chí để nâng lên thành quốc lộ.
284. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị: Cử tri được biết quốc lộ 61 B đoạn từ nút giao ngã ba Vĩnh Tường thuộc phường Vĩnh Tường thị xã Long Mỹ đến đoạn đường giao nhau với đường vào trung tâm thị xã Long Mỹ có chủ trương đầu tư nhưng tạm hoãn theo nghị quyết số 11NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, hiện nay đã xuống cấp mặt đường nhỏ hẹp quá tải do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng. kiến nghị chính phủ phân bổ vốn để tiếp tục triển khai dự án mở rộng quốc lộ 61 B đoạn qua địa bàn thị xã Long Mỹ.
Trả lời: (Tại Công văn số 2573/BGTVT-KHĐT - ngày 14/3/2017)
Dự án nâng cấp, cải tạo QL61B đoạn ngã ba Vĩnh Tường - thị trấn Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang đã được tổ chức khởi công từ tháng 8 năm 2014 bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Do nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT hạn chế nên việc cân đối vốn cho dự án hàng năm còn thấp, chưa đáp ứng được tiến độ yêu cầu của dự án. Hiện nay, Bộ GTVT đã đưa phần kinh phí còn lại để hoàn thành toàn bộ dự án vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Sau khi Quốc hội thông qua, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bố trí kế hoạch vốn để sớm hoàn thành đầu tư đoạn tuyến nêu trên.
285. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh tuyến tỉnh lộ 538 nay được nâng lên thành tuyến đường quốc lộ 7B nay đã xuống cấp trầm trọng đề nghị cấp trên quan tâm hỗ trợ, bố trí nguồn ngân sách Để tu sửa nâng cấp tuyến đường đảm bảo giao thông cho người tham gia giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 3269/BGTVT-KCHT – ngày 29/3/2017)
286. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh quốc lộ 48 hệ thống mương thoát nước kém, có nhiều điểm khi mưa lớn gây ngập úng cục bộ, mất an toàn giao thông. Đề nghị chính phủ chỉ đạo các ngành liên quan xử lý vấn đề trên.
Trả lời: (Tại Công văn số 3269/BGTVT-KCHT – ngày 29/3/2017)
1. Về đường tỉnh 538:
Đường tỉnh 538 được nâng lên QL.7B (thành một đoạn tuyến của QL.7B) có chiều dài 22,5km (tương đương với lý trình Km0+00-Km22+500 quốc lộ 7B). Năm 2016, trong quá trình xây dựng Kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2017, căn cứ vào thực tế hư hỏng của tuyến, để đảm bảo an toàn giao thông, Bộ Giao thông vận tải đã cho phép sửa chữa đoạn tuyến trên với quy mô “Sửa chữa hư hỏng nền, mặt đường và hệ thống thoát nước đoạn Km0-Km10+00; Km13+900-Km15+00; Km17+00-Km22+500; sửa chữa cục bộ đoạn Km10-Km13+900; hoàn thiện hệ thống ATGT” và giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam triển khai thực hiện (Quyết định số 2762/QĐ-BGTVT ngày 31/8/2016 của Bộ GTVT về việc Phê duyệt kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2017). Dự án đã được Tổng cục ĐBVN phê duyệt tại Quyết định số 3338/QĐ-TCĐBVN ngày 16/11/2016 với tổng kinh phí gần 40 tỷ đồng. Hiện tại, dự án đã triển khai thi công, dự kiến hoàn thành vào tháng 6 năm 2017.
2. Về quốc lộ 48:
Quốc lộ 48 có chiều dài 160km, qua rà soát, hiện tại trên tuyến có 03 vị trí bị đọng nước, ngập úng cục bộ khi xảy ra mưa lớn (bao gồm các đoạn Km17+300-Km17+450, Km26+300-Km26+600, Km89+950-Km90+100), nguyên nhân do chưa có hệ thống rãnh dọc. Rãnh dọc tại các vị trí nêu trên đã nằm trong các dự án bảo trì được phê duyệt hoặc đang triển khai chuẩn bị đầu tư, cụ thể như sau:
- Đoạn Km17+300-Km17+450 (bên trái tuyến): Tổng cục ĐBVN đang triển khai thi công dự án VRAMP sử dụng vốn vay Ngân hàng thế giới để bảo trì tuyến QL.48 (đoạn Km0-Km20 và Km38-Km64), trong đó có bổ sung rãnh dọc tại vị trí trên.
- Đoạn Km26+300-Km26+600: Bộ GTVT đang triển khai các thủ tục theo quy định để bổ sung đoạn Km20-Km38 vào dự án VRAMP, sau khi được bổ sung sẽ đầu tư xử lý dứt điểm tình trạng ngập úng tại Km26+300-Km26+600.
- Đoạn Km89+950-Km90+100: Tổng cục ĐBVN đang triển khai thi công hệ thống rãnh dọc (thuộc Dự án đầu tư xây dựng công trình sửa chữa và bổ sung hệ thống thoát nước mặt đường tại các vị trí cấp bách trên Quốc lộ được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 4944/QĐ-BGTVT ngày 26/12/2014).
Như vậy, trong điều kiện nguồn vốn còn khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu, Bộ GTVT đã quan tâm sửa chữa QL.7B và QL.48 để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông. Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường công tác bảo dưỡng thường xuyên, sớm phát hiện những hư hỏng phát sinh để khắc phục kịp thời, đảm bảo giao thông êm thuận, an toàn.
287. Cử tri tỉnh Bắc Ninh kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải, hội đồng quỹ bảo trì đường bộ trung ương bố trí nguồn vốn phí bảo trì đường bộ trung ương hỗ trợ thực hiện dự án cải tạo, sửa chữa thảm mặt đường TL 295, đoạn từ Đáp Cầu đến Cổng ô thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh vì hiện nay nhiều vị trí mặt đường đã bị hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, mặt đường bị vênh võng, bong bật, các phương tiện giao thông đi lại rất khó khăn, đã có nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra khiến dư luận xã hội bức xúc.
Trả lời: (Tại Công văn số 40/QBTTW-VB - ngày 31/3/2017)
- Theo quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008, trách nhiệm tổ chức quản lý, bảo trì đường bộ địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm. Do vậy đề nghị UBND tỉnh Bắc Ninh quan tâm bố trí vốn địa phương để sửa chữa tuyến đường, đảm bảo an toàn khai thác.
- Đối với nguồn vốn Quỹ BTĐB Trung ương phân chia về cho Quỹ BTĐB Bắc Ninh theo quy định tại Nghị định số 18/2018/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của Chính phủ thì hàng năm Quỹ BTĐB Bắc Ninh được tiếp nhận khoảng 8 tỷ đồng để thực hiện bảo trì đường địa phương; tuy nhiên kể từ năm 2013, Hội đồng Quỹ BTĐB Trung ương đã cân đối điều chỉnh tăng nguồn vốn phân chia cho các Quỹ Địa phương khó khăn (hoặc nhận nguồn phân bổ thấp), trong đó Quỹ BTĐB Bắc Ninh đã được điều chỉnh tăng từ 8 tỷ đồng lên khoảng 21 tỷ đồng (tăng 2,5 lần) để địa phương có thêm nguồn sửa chữa đường bộ. Hiện nay, Quỹ TW đang tập trung hỗ trợ cho các địa phương bị ảnh hưởng nặng nề của các đợt bão lũ trong năm 2016 nên chưa có điều kiện hỗ trợ cho tỉnh Bắc Ninh giai đoạn này. Mặt khác, Bắc Ninh là tỉnh thu Ngân sách đứng thứ 10 trên cả nước, do vậy Quỹ BTĐB Trung ương đề nghị UBND Tỉnh - Quỹ BTĐB Bắc Ninh cân đối nguồn vốn Ngân sách địa phương, vốn Quỹ TW phân bổ năm 2017 để sửa chữa Tỉnh lộ 295 đảm bảo êm thuận và an toàn, đáp ứng nguyện vọng của cử tri và nhân dân địa phương. Quỹ BTĐB Trung ương ghi nhận kiến nghị và sẽ xem xét xử lý khi có điều kiện về vốn.
288. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Thực hiện việc công bố danh mục các dự án nạo vét luồng lạch hàng năm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh do Bộ quản lý. Nghiên cứu điều chỉnh quy định về nạo vét đường thủy nội địa, vùng nước cảng bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm tại thông tư số 69/2015/TT-BGTVT, trong đó xem xét tăng cường quyền và trách nhiệm của các địa phương trong công tác quản lý.
Trả lời: (Tại Công văn số 3303/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
Thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hiệu lực thực thi chính sách pháp luật về khoáng sản (thay thế Chỉ thị 29/2008/CT-TTg ngày 02/10/2008 về tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khảo sát, khai thác, vận chuyển, tiêu thụ cát, sỏi lòng sông) và thực tế quản lý nhà nước về đường thủy nội địa, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 69/2015/TT-BGTVT ngày 9/11/2015 của Bộ Giao thông vận tải quy định về nạo vét luồng đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm (thay thế Thông tư số 37/2013/TT-BGTVT ngày 24/10/2013 của Bộ Giao thông vận tải quy định về nạo vét luồng đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm).
Theo quy định tại Thông tư số 69/2015/TT-BGTVT ngày 9/11/2015 của Bộ Giao thông vận tải thì:
- Đối với đường thủy nội địa địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định và phê duyệt danh mục các dự án nạo vét kết hợp tận thu sản phẩm trên tuyến đường thủy nội địa địa phương và vùng nước cảng, bến thủy nội địa nằm trên tuyến đường thủy nội địa địa phương và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố tham mưu tổ chức thực hiện.
- Đối với ĐTNĐ quốc gia, Bộ Giao thông vận tải thẩm định phê duyệt danh mục các dự án nạo vét kết hợp tận thu sản phẩm trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia và vùng nước cảng, bến thủy nội địa nằm trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia, trước khi phê duyệt, phải lấy ý kiến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự án đi qua; việc chủ trì tổ chức thực hiện dự án do cơ quan chuyên ngành thuộc Bộ Giao thông vận tải là Cục Đường thủy nội địa Việt Nam. Quá trình thực hiện dự án được thực hiện theo quy định và có báo cáo đánh giá tác động môi trường được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, địa phương cho phép đăng ký sản phẩm tận thu và có sự tham gia phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện án của các cơ quan chức năng của địa phương.
289. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị chính phủ sớm phê duyệt quy hoạch chi tiết để có cơ sở đầu tư vị trí cảng cạn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nằm trong hành lang kinh tế Hà Nội Lạng Sơn trong quy hoạch phát triển hệ thống cảm cảm Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 22 23/QD-TTg ngày 13/12/2011. Vị trí đầu tư có tính chất kết nối giữa hệ thống đường bộ, đường sắt và 02 cửa khẩu quốc tế hữu nghị và ra vận tải đường sắt quốc tế Đồng Đăng.
Trả lời: (Tại Công văn số 3359/BGTVT-KHĐT - ngày 31/3/2017)
- Thực hiện văn bản số 561/VPCP-KTN ngày 22/01/2016 của Văn phòng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được duyệt tại Quyết định số 2223/QĐ-TTg ngày 13/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã giao Cục Hàng hải Việt Nam là cơ quan chủ trì lập Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đến nay đã cơ bản hoàn thành, Bộ GTVT đã tiến hành lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan và chỉ đạo tiếp thu ý kiến, tổ chức thẩm định để trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4 năm 2017.
- Để có thể triển khai ngay Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT cũng đã giao Cục Hàng hải Việt Nam lập Quy hoạch chi tiết hệ thống cảng cạn Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Bộ GTVT thống nhất với cử tri tỉnh Lạng Sơn, sẽ triển khai phê duyệt Quy hoạch chi tiết hệ thống Cảng cạn Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Vị trí cảng cạn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn được cử tri đề nghị nằm trong hành lang kinh tế Hà Nội - Lạng Sơn đã được Bộ GTVT tổng hợp trong Quy hoạch chi tiết. Trường hợp có nhu cầu cấp bách để triển khai thủ tục đầu tư sớm, UBND tỉnh Lạng Sơn, chủ đầu tư có thể kiến nghị để Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để triển khai trước.
290. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông Vận tải quan tâm sớm đầu tư nâng cấp và sửa chữa tuyến đường Quốc lộ 25 qua địa bàn tỉnh, vì hiện nay nhiều đoạn đường đã xuống cấp, hư hỏng nặng, xuất hiện nhiều “ổ gà, ổ voi” gây khó khăn trong việc đi lại của nhân dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 3611/BGTVT-KHĐT- ngày 5/4/2017)
Quốc lộ 25 (QL25) đoạn qua tỉnh Phú Yên dài khoảng 70km (từ Km0 - Km70), hiện nay Bộ GTVT đang triển khai các dự án, cụ thể:
+ Đoạn Km0+000 - Km21+600: Bộ GTVT đã phê duyệt dự án mở rộng QL25 đoạn từ Km0 - Km21+600 và đoạn Km123 - Km 181 thuộc tỉnh Phú Yên và tỉnh Gia Lai tại Quyết định số 3316/QĐ-BGTVT ngày 29/10/2010, trong đó đoạn từ Km0 - Km21+600 với tổng mức đầu tư khoảng 701 tỷ đồng và giao Sở GTVT Phú Yên làm Chủ đầu tư. Tuy nhiên, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, dự án thuộc đối tượng tạm dừng, giãn tiến độ và chưa được bố trí vốn để triển khai thi công.
+ Đoạn Km21+700 - Km70+000: Bộ GTVT đã phê duyệt dự án mở rộng QL25 đoạn từ Km21+600 - Km99+432 và đoạn Km113 - Km 123 thuộc tỉnh Phú Yên và tỉnh Gia Lai tại các Quyết định: số 2563/QĐ-BGTVT ngày 04/9/2009; số 487/QĐ-BGTVT ngày 21/2/2014; số 1854/QĐ-BGTVT ngày 22/5/2015. Trong đó: hoàn thành đầu tư các đoạn Km37+774,98 - Km44+100; Km47+125 - Km58+00; Km69 - Km76 (không bao gồm cầu Tòa Lóa tại Km73+041); Km85 - Km99+432 và cầu số 5 tại Km68+700, cầu KLúi tại Km69+059 và 250m đường đầu cầu Klúi phía Phú Yên, với tổng mức đầu tư là 527.473 triệu đồng, giao Tổng cục Đường bộ Việt nam làm chủ đầu tư. Dự án đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng từ tháng 9/2015. Các đoạn còn lại sẽ đầu tư sau khi được bố trí vốn để triển khai.
Như vậy, QL25 đoạn qua tỉnh Phú Yên, dài 70km, trong đó: 17,2km đã hoàn thành nâng cấp, cải tạo từ tháng 9/2015; còn lại 52,8km chưa được triển khai đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đã tổng hợp các đoạn còn lại vào danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Để đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình khai thác và hạn chế sự xuống cấp của công trình, Bộ GTVT tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu sửa chữa trong năm 2017 bằng nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ với kinh phí khoảng 6,2 tỷ đồng. Đến nay mặt đường tuyến QL25 qua địa bàn tỉnh Phú Yên đảm bảo êm thuận, đáp ứng nhu cầu đi lại an toàn của nhân dân.
291. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị cấp kinh phí tiếp tục đầu tư xây dựng công trình đường cứu hộ, cứu nạn( đoạn từ ngã ba cảnh sát giao thông đến km16 nối vào Quốc lộ 2 tại xã Tứ quận huyện Yên Sơn), để thuận lợi cho người và phương tiện lưu thông qua tuyến đường này( cử tri huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang).
Trả lời: (Tại Công văn số 3316/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Công trình đường cứu hộ, cứu nạn (đoạn từ ngã ba cảnh sát giao thông đến Km16 nối vào QL.2 tại xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn) có điểm đầu tại Km124+600, QL.37 (phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang) và điểm cuối tại Km149+500, QL.2 (xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn), được UBND tỉnh Tuyên Quang phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 1645/QĐ-UBND ngày 27/11/2010 và phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 96/QĐ-CT ngày 30/01/2011, với quy mô gồm 02 loại: theo tiêu chuẩn đường đô thị (Bmặt=11m, Bnền=21m) và đường cấp III miền núi, tổng chiều dài tuyến 9,8 km từ nguồn vốn ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác, giao Sở GTVT Tuyên Quang làm chủ đầu tư. Hiện nay, dự án đang bị đình hoãn theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ và theo chỉ đạo của UBND tỉnh Tuyên Quang tại Công văn số 2147/UBND-TL ngày 12/9/2013. Do vậy, việc tiếp tục đầu tư xây dựng công trình cứu hộ, cứu nạn (đoạn từ ngã ba cảnh sát giao thông đến Km16 nối vào QL.2 tại xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn) không thuộc thẩm quyền của Bộ GTVT.
2. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang và các phương tiện lưu thông trên tuyến đường này, đề nghị UBND tỉnh Tuyên Quang báo cáo Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bố trí kinh phí để thi công hoàn chỉnh dự án, sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng.
292. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri đánh giá cao trong năm 2016 Chính phủ và các Bộ, ngành đã có các giải pháp tích cực trong việc hạn chế tai nạn giao thông. Tuy nhiên, cử tri phản ánh vẫn còn tình trạng xe quá khổ, quá tải lưu thông trên đường làm hư hỏng hệ thống giao thông, tình trạng mãi lộ vẫn còn diễn ra. Đề nghị chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có các giải pháp xử lý dứt điểm tình trạng trên, đồng thời có giải pháp quản lý trạm cân tải trọng đảm bảo minh bạch, hiệu quả.
Trả lời: (Tại Công văn số 3138/BGTVT-ATGT - ngày 27/3/2017)
Trong những năm vừa qua, công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 06 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; trong đó, năm 2016 tai nạn giao thông trên toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.792 người bị thương (-8,5%).
Về công tác kiểm soát tải trọng xe, thực hiện Công điện số 95/CĐ-TTg ngày 10/01/2013 và Công điện số 1966/CĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và tăng cường kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ; Ngày 21/11/2013, liên Bộ Công an – Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA về phối hợp thực hiện kiểm soát, xử lý vi phạm chở hàng vượt quá tải trọng của xe ô tô, đồng loạt thực hiện từ ngày 01/4/2014 trên phạm vi cả nước. Sau hơn 02 năm thực hiện (tính đến ngày 01/8/2016), trên cả nước tình hình vi phạm về tải trọng phương tiện đã được kiểm soát, giảm trên 92% so với thời điểm trước khi thực hiện Kế hoạch 12593/KHPH-BGTVT-BCA.
Đối với công tác kiểm soát tải trọng xe trên địa bàn tỉnh Nghệ An, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng của địa phương, công tác kiểm soát tải trọng xe trên địa bàn tỉnh Nghệ An có những chuyển biến tích cực, phần lớn các doanh nghiệp, chủ phương tiện đã chủ động cắt bỏ phần thành thùng xe cơi nới, chở đúng tải trọng. Theo báo cáo của Sở GTVT Nghệ An, trong năm 2016 và 03 tháng đầu năm 2017, các lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã xử lý 11.154 trường hợp xe vi phạm chở quá tải, quá khổ, kích thước thành thùng; xử phạt, nộp tiền vào kho bạc nhà nước gần 52 tỷ đồng, tước Giấy phép lái xe có thời hạn hơn 5.000 trường hợp.
Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri, tình hình phương tiện vận tải vi phạm về kích thước thùng xe và chở quá tải trọng cho phép tại một số tỉnh, thành phố đang có diễn biến phức tạp và có chiều hướng tái diễn trở lại; vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhưng có biểu hiện tiêu cực, dung túng, bao che các đối tượng vi phạm…
Để kịp thời chấn chỉnh tình trạng trên, nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã và đang triển khai các giải pháp như sau:
1. Bộ GTVT đã ban hành: Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 về việc tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện; văn bản số 15235/BGTVT-ATGT ngày 20/12/2016 về việc tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện để triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CTTg của Thủ tướng Chính phủ.
2. Phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, tổ chức 02 Đoàn Kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng phương tiện đường bộ tại một số địa phương (đã triển khai tại Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên và Hải Dương trong tháng 11 năm 2016).
3. Đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia để chỉ đạo và đề nghị Ban An toàn giao thông các tỉnh (trong đó có Ban an toàn giao thông tỉnh Nghệ An) triển khai các nội dung sau đây:
- Báo cáo và đề nghị Tỉnh ủy và Thành ủy các tỉnh, thành phố ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”, trong đó có nhiệm vụ về kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Tham mưu, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông, trong đó phân công và xác định trách nhiệm cụ thể của lực lượng Công an, Giao thông vận tải và Chính quyền địa phương các cấp, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
- Chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải:
+ Quản lý, vận hành các Trạm kiểm tra tải trọng xe do Bộ Giao thông vận tải trang bị; kiện toàn, tổ chức lại hoạt động của Trạm kiểm tra tải trọng xe phù hợp với tình hình của địa phương; củng cố và nâng cao năng lực của lực lượng Thanh tra giao thông;
+ Tổ chức ký lại cam kết (theo mẫu mới) về không chở hàng quá trọng tải, không xếp hàng hóa lên xe quá trọng tải cho phép của các doanh nghiệp, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cam kết đã ký và xử lý nghiêm các đơn vị vận tải, đầu mối hàng hóa vi phạm cam kết về xếp hàng hóa lên xe ô tô không vượt quá tải trọng cho phép.
- Chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố:
+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của ngành Giao thông vận tải trong việc triển khai thực hiện công tác kiểm soát tải trọng phương tiện trên địa bàn; thực hiện đối với cả các tuyến đường bộ qua địa bàn địa phương;
+ Ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng bảo kê, tiêu cực và “mãi lộ” trong công tác xử lý vi phạm các quy định pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ, đặc biệt là công tác kiểm soát tải trọng xe;
+ Chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát thực hiện trao đổi kịp thời, đầy đủ thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động vận tải, đặc biệt là hoạt động kiểm soát tải trọng phương tiện cho các cơ quan chức năng của ngành Giao thông vận tải để phục vụ công tác quản lý và xử lý vi phạm.
293. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị: Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV cử tri thị xã Ngã Bảy tỉnh Hậu Giang kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang chỉ đạo các sở ngành liên quan tiến hành khảo sát có biện pháp khắc phục các tuyến lộ giao nhau nằm trên quốc lộ 1 thuộc địa bàn thị xã Ngã Bảy ( vòng xuyến giao nhau giữa quản lộ Phụng Hiệp- quốc lộ 1 và đường vào trung tâm thị xã Ngã Bảy thuộc xã Hiệp Lợi; vòng xuyến nhà thờ và đường vào trung tâm chợ thuộc phường Ngã Bảy; vòng xuyến thuộc phường Hiệp Thành) còn rất nhiều bất cập trong phân luồng, phân làn, thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. UBND tỉnh đã có công văn số 700/UBND-NC, ngày 11/5/2016 kiến nghị Bộ Giao thông vận tải đề nghị khắc phục bất cập gây mất an toàn giao thông tại các nút giao trên tuyến lộ Quốc lộ 1, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang nhưng đến nay Bộ Giao thông vận tải chưa phản hồi kiến nghị của UBND tỉnh Hậu Giang. Để có cơ sở trả lời ý kiến kiến nghị cử tri tỉnh Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm trả lời nội dung công văn số 700/UBND-NC, ngày 11/5/2016 của UBND tỉnh Hậu Giang.
Trả lời: (Tại Công văn số 3322/BGTVT-KCHT – ngày 30/3/2017)
- Nút giao QL.1 (Km2100) - QLPH (Km0+000) và nút giao QL.1 (Km2104+100) - cầu vượt QLPH (Km5+348) là 02 nút giao đồng mức. Tại 02 nút giao này bố trí nhiều tiểu đảo để phân luồng, dẫn hướng xe chạy tương đối phức tạp khiến người dân lúng túng khi tham gia giao thông và tạo điểm xung đột dẫn đến nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra tại đây.
- Nút giao QL.1 (Km2102+200) là nút giao có bán kính R = 20m, tại đây là ngã 5 bao gồm 02 hướng thuộc QL.1; 01 hướng nối ĐT.927; 01 hướng nối đường vào Chợ thị xã Ngã Bảy; 01 hướng nối vào khu dân cư thị xã Ngã Bảy. Hiện tại, dân cư tại khu vực này phát triển, xây dựng một số công trình lấn vào diện tích mặt bằng nút giao như: cột điện, cây ATM, quán cà phê, cây xăng,… gây ùn tắc, mất ATGT dẫn đến nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra tại đây.
Theo xác nhận của Công an thị xã Ngã Bảy tại văn bản số 82/BC-CATX ngày 15/3/2017, năm 2016: Tại nút giao QL.1 (Km2100) có 03 vụ tai nạn, 03 người chết; tại nút giao QL.1 (Km2104+100) có 02 vụ tai nạn, 02 người chết; tại nút giao QL.1 (Km2102+200) có 15 vụ tai nạn, 01 người chết.
Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN, Cục QLĐB IV phối hợp với Địa phương khẩn trương hoàn thiện hồ sơ điểm đen đối với 03 nút giao nêu trên để triển khai thực hiện. Riêng đối với nút giao QL.1 (Km2102+200), đề nghị Địa phương có trách nhiệm di dời các công trình nằm trong phạm vi mặt bằng nút giao (quán cà phê, Trụ ATM, cột điện, cây xăng…) để Tổng cục ĐBVN có thể triển khai xử lý điểm đen này.
294. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định phản ánh đường dân sinh thôn Chánh Thuận, xã Mỹ Trinh đi ngang qua đường sắt, phục vụ nhu cầu sản xuất và đi lại của người dân địa phương nhưng hiện nay ngành đường sắt lập rào chắn cấm xe cơ giới vận chuyển hàng hóa đã gây rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Cục đường sắt phối hợp với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và địa phương xem xét có biện pháp giải quyết phù hợp để vừa đảm bảo an toàn giao thông đường sắt vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và phục vụ sản xuất của người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 3293/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Hiện trạng công trình: trên địa phân xã Mỹ Trinh có 02 đường dân sinh tại Km1043+100 và Km1043+290, tuyến đường sắt Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh, cách đường ngang Km1041+888 (về phía Hà Nội) là 1042 m, cách đường ngang Km1045+930 (về phía TP. Hồ Chí Minh) 2640 m, tốc độ chạy tàu 80 km/h; đường bộ đi vào đường sắt là đường cấp phối có chiều rộng 2,5m và nối vào đường gom bằng bê tông xi măng chạy song song bên trái đường sắt. Thực hiện Quy chế phối hợp số 10/QCPH-BGTVT-UBND ngày 25/3/2013 giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Bình Định, ngày 02/7/2015 Công ty CP Đường sắt Nghĩa Bình phối hợp với UBND xã Mỹ Trinh tiến hành thu hẹp 02 vị trí nêu trên nhằm mục tiêu chỉ cho người và xe thô sơ, xe hai bánh đi qua và đã bàn giao cho địa phương quản lý.
2. Các lối đi dân sinh qua đường sắt có chiều rộng nhỏ hơn 3,0 m nếu không được thu hẹp và để cho xe ô tô đi qua sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất ATGT rất cao. Vì vậy, việc thu hẹp chỉ cho người và xe thô sơ, xe hai bánh đi qua như hiện nay là hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông đi qua đường sắt; đồng thời, thực hiện đúng theo Quy chế phối hợp số 10/QCPH-BGTVT-UBND ngày 25/3/2013 đã được ký giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Bình Định.
Đề nghị UBND tỉnh Bình Định, UBND huyện Phù Mỹ và UBND xã Mỹ Trinh tổ chức tuyên truyền, vận động người dân có xe cơ giới tham gia giao thông đi qua các đường ngang lân cận để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông; đồng thời chỉ đạo các cơ quan liên quan ở địa phương phối hợp với Tổng Công ty ĐSVN tăng cường thực hiện các biện pháp đảm bảo ATGT theo nội dung ký kết tại Quy chế phối hợp số 10/QCPH-BGTVT-UBND ngày 25/3/2013.
295. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ xem xét lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông ở khu vực ngã ba Đông Hòa (Quốc lộ 1A) để nhân dân đi lại thuận tiện hơn tránh tai nạn giao thông; đồng thời, gắn biển báo giảm tốc độ trên tuyến Quốc lộ 1A (đoạn ngã ba Nhị Bình). Bởi, lưu lượng xe qua lại tại các đoạn giao thông này là rất nhiều.
Trả lời: (Tại Công văn số 3262/BGTVT-KCHT - ngày 29/3/2017)
296. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ xem xét điều chỉnh hệ thống chiếu sáng trên tuyến cao tốc Trung Lương - Thành phố Hồ Chí Minh, nhất là ở khu vực vòng xoay Thân Cửu Nghĩa. Vì hiện nay ánh sáng mờ không đảm bảo an toàn cho người dân lưu thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 3262/BGTVT-KCHT - ngày 29/3/2017)
- Do ảnh hưởng của các cơn bão cuối năm 2016, mặt đường các đoạn Km1985+400 - Km1985+600 (ngã ba Nhị Quý - bên trái tuyến, giao giữa QL.1 với ĐT.874B) và đoạn Km2007+000 - Km2007+200 (ngã ba An Cư - bên phải tuyến, giao giữa QL.1 với ĐT.869, thuộc dự án BOT Cai Lậy) bị hư hỏng cục bộ.
- Hiện nay, các đoạn khu vực ngã ba xã Nhị Quý đã được Cục QLĐB IV đã sửa chữa khắc phục bão lũ ĐBGT bước 1, hiện đoạn tuyến này đảm bảo êm thuận; đoạn khu vực ngã ba An Cư đã được nhà đầu tư BOT tuyến tránh Cai Lậy đã thảm tăng cường mặt đường đảm bảo giao thông qua khu vực êm thuận.
2. Kiến nghị Bộ lắp đặt cống thoát nước trên Quốc lộ 1A đoạn Trạm dừng chân Minh Phát 2 - 3; nạo vét 02 cống cặp Quốc lộ 1A khu vực 02 bên cầu Ông Hưng để đảm bảo an toàn giao thông và vệ sinh môi trường cho khu vực này, nhất là vào mùa mưa..
Về vấn đề này, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Đoạn Km2015+000 - Km2015+500 (đoạn trạm dừng nghỉ Minh Phát 2-3): hiện đoạn tuyến này đã được Chủ đầu tư trạm dừng nghỉ Minh Phát 2 -3 xử lý thoát nước, do vậy không còn hiện tượng ngập úng; ngoài ra, Chủ đầu tư đã lắp thêm đèn chiếu sáng, đèn chớp vàng, biển báo ATGT tại khu vực này để đảm bảo ATGT.
- Đoạn Km2015+500 - Km2015+900 (khu vực hai đường dẫn vào cầu Ông Hưng - Km2015+752): hiện đã có rãnh thoát nước dọc, mặc dù đơn vị quản lý bảo trì thường xuyên nạo vét, vệ sinh nhưng do người dân hay xả rác làm ảnh hưởng thoát nước khi mưa lớn. Cục QLĐB IV đã đề nghị địa phương tuyên truyền vận động nhân dân không xả rác vào hệ thống thoát nước. Mặt khác, Cục QLĐB IV đã chỉ đạo nhà thầu quản lý bảo trì hoàn thành công tác nạo vét, khơi thông rãnh để đảm bảo thoát nước.
3. Kiến nghị Bộ xem xét lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông ở khu vực ngã ba Đông Hòa (Quốc lộ 1A) để nhân dân đi lại thuận tiện hơn tránh tai nạn giao thông; đồng thời, gắn biển báo giảm tốc độ trên tuyến Quốc lộ 1A (đoạn ngã ba Nhị Bình). Bởi, lưu lượng xe qua lại tại các đoạn giao thông này là rất nhiều.
Về vấn đề này, Bộ GTVT trả lời như sau:
- Tại Km1978+500 QL.1 (ngã ba Đông Hòa, bên trái tuyến, giao giữa QL1 với ĐT876) hiện đã có hệ thống đèn cảnh báo chớp vàng do Ban ATGT huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang khai thác sử dụng nhưng hiện nay không hoạt động. Cục QLĐB IV đã có đề nghị địa phương khắc phục nhằm đảm bảo an toàn giao thông.
- Đoạn Km1980+500 - Km1980+600 QL 1 (khu vực ngã ba Nhị Bình, bên phải tuyến, giao giữa QL1 với ĐH37): hiện nay đã lắp đặt biển báo số hiệu 445g - "Đoạn đường hay xảy ra tai nạn giao thông" tại Km1977+500 (P), Km1980+000 (T) và Km1987+000 (P) theo đề nghị của Phòng Cảnh sát giao thông và Ban An toàn giao thông tỉnh Tiền Giang.
297. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị lắp đặt đèn cảnh báo giao thông tại ngã ba Khu di tích Tua Hai - Đồng Khởi, vì đây là vị trí giao giữa đường Quốc lộ 22B với các đường nhánh (đã kiến nghị nhiều lần, nhưng vẫn chưa thực hiện). (Cử tri xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành)
Trả lời: (Tại Công văn số 3345/BGTVT-KCHT - ngày 31/3/2017)
1. Ngày 04/02/2016, Thủ tướng Chính phủ đã có chấp thuận chủ trương giao UBND TP. Hồ Chí Minh là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức kêu gọi đầu tư và thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng toàn tuyến QL.22 qua địa phận TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh.
Đoạn từ Gò Dầu đến Mộc Bài từ Km48+900 đến Km56+950 được đầu tư và đưa vào khai thác với quy mô 02 làn xe cơ giới. Do lưu lượng xe lớn, để đảm bảo ATGT, năm 2013, Bộ GTVT đã cho lắp đặt giải phân cách giữa kết hợp với gia cố lề mở rộng phần xe chạy để tổ chức giao thông một chiều. Do kinh phí hạn hẹp, phần gia cố lề được làm với kết cấu cán đá, láng nhựa 3 lớp (không phải cấp phối). Hiện tại, phần gia cố lề sau 04 năm khai thác đã xuất hiện một số vị trí bị hư hỏng, trong khi chờ UBND TP. Hồ Chí Minh thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng QL.22, đồng Bộ GTVT tiến hành kiểm tra, rà soát và đưa vào kế hoạch bảo trì năm 2018 để sửa chữa, khôi phục như kết cấu hiện trạng đảm bảo êm thuận và ATGT.
2. Đối với các vị trí nắp cống bị sụp lún, năm 2016, Bộ GTVT đã cho thay thế một số tấm đan rãnh hư hỏng phát sinh mới để khắc phục tình trạng tắc nghẽn dòng chảy cục bộ, đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quản lý, bảo trì trên tuyến khẩn trương nạo vét, khơi thông dòng chảy trong công tác bảo dưỡng thường xuyên QL.22B.
Đối với các vị trí chưa có rãnh thoát nước gây ngập nước mặt đường, Bộ GTVT đã cho phép thực hiện Dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B từ nguồn kinh phí Bảo trì đường bộ Trung ương thực hiện trong năm 2017, trong đó cho phép xây dựng rãnh thoát nước dọc tại các vị trí qua khu dân cư, đọng nước mặt đường.
3. Hiện nay, tại khu vực đường cong trước mặt Ngân hàng nông nghiệp huyện Trảng Bàng, cơ quan chức năng của địa phương đang triển khai công tác lắp đặt cống thoát nước. Các cơ quan quản lý đường bộ trực thuộc Bộ GVTT đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của địa phương để thực hiện các công việc liên quan.
4. Tháng 9/2016, Bộ GTVT đã hoàn thành lắp đặt đèn cảnh báo tại tại ngã ba Khu di tích Tua Hai - Đồng Khởi tại Km47+150, ngoài ra còn lắp đặt thêm tại một số vị trí nguy hiểm tại Km17+500, Km22+100, Km 37+500, Km49+200, Km54+300, Km59+800.
298. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ có giải pháp tích cực hơn để đảm bảo an toàn giao thông và giảm tai nạn giao thông xảy ra. Cụ thể, nên áp dụng trong phạm vi cả nước “đường có rào chắn dành riêng cho xe mô tô, gắn máy” như đường Võ Văn Kiệt (TP Hồ Chí Minh); xem xét có quy định đối với “xe siêu trường, siêu trọng chỉ được lưu thông vào ban đêm và được đi trên các tuyến đường thích hợp”; tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát giao thông tại các điểm đen, tuyến đường, đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Đồng thời, đề nghị nâng mức xử phạt đối với trường hợp gây tai nạn giao thông gây chết người hoặc làm cho người khác bị thương tật trọn đời để tăng tính răn đe.
Trả lời: (Tại Công văn số 3375/BGTVT-KCHT - ngày 31/3/2017)
Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT) luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm (từ 2011 ÷ 2016) tai nạn giao thông (TNGT) đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; trong đó, năm 2016 tai nạn giao thông trên toàn quốc xảy ra 21.589 vụ, làm chết 8.685 người, làm bị thương 19.280 người. So với cùng kỳ năm 2015 giảm 1.261 vụ (-5,52%), giảm 43 người chết (-0,49%), giảm 1.792 người bị thương (-8,5%).
Tuy nhiên, công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông vẫn còn một số tồn tại hạn chế: số vụ tai nạn giao thông, số người chết và số người bị thương vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông còn chưa cao, nhiều vi phạm vẫn còn diễn ra phổ biến…; đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.
Để chấn chỉnh tình trạng này, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Bộ GTVT và Bộ Công an tiếp tục triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATG; trong đó, bao gồm cả các giải pháp về tăng cường công tác thanh tra, tuần tra, kiểm soát giao thông tại các khu vực điểm đen tai nạn giao thông, các đoạn tuyến đường bộ thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông; triển khai lắp đặt dải phân cách để tách dòng xe mô tô 2 bánh, xe thô sơ với dòng xe ô tô (như ý kiến kiến nghị của cử tri). Tuy nhiên, hiện nay do điều kiện nguồn lực tài chính hạn hẹp, nên việc lắp đặt dải phân cách để tách dòng xe mô tô 2 bánh, xe thô sơ với dòng xe ô tô sẽ phải thực hiện theo một lộ trình phù hợp, trước mắt mới chỉ có thể thực hiện được trên một số đoạn tuyến đường bộ có đủ điều kiện mặt cắt ngang và có mật độ phương tiện giao thông lớn để nâng cao điều kiện bảo đảm an toàn giao thông.
- Về nội dung đề nghị xem xét có quy định đối với xe siêu trường, siêu trọng chỉ được lưu thông vào ban đêm và được đi trên các tuyến đường thích hợp: Hiện nay, theo quy định của Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn Luật, việc vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng phải sử dụng xe vận tải phù hợp với loại hàng và phải có giấy phép sử dụng đường bộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Trong giấy phép sử dụng đường bộ có quy định cụ thể các điều kiện cần phải tuân thủ khi thực hiện vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng trên đường bộ (bao gồm cả thời gian và tuyến đường) để bảo đảm an toàn giao thông và đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Về nội dung đề nghị nâng mức xử phạt đối với trường hợp gây tai nạn giao thông làm chết người hoặc làm cho người khác bị thương tật trọn đời để tăng tính răn đe: đối với những trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà gây tai nạn giao thông làm chết người hoặc làm cho người khác bị thương tật thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015; các hình phạt đối với hành vi vi phạm này được quy định tại Bộ Luật hình sự cơ bản đã tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và phù hợp với thực tiễn.
299. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Sớm xem xét bố trí đèn tín hiệu giao thông tại Ngã tư Kỳ Lý – Quốc lộ 1A (huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam); đèn tín hiệu giao thông tại ngã tư Hương An (điểm giao nhau giữa Quốc lộ 1A mới với đường Quốc lộ 1A cũ và đường vào chợ Hương An, phía Bắc cầu Hương An, huyện Quế Sơn), vì đây là 2 điểm đen thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông làm chết người
Trả lời: (Tại Công văn số 3377/BGTVT - KCHT - ngày 31/3/2017)
- Việc bổ sung đèn tín hiệu giao thông đảm bảo an toàn nút giao Ngã tư
Kỳ Lý (nút giao giữa Quốc lộ 1 với đường tỉnh ĐT.615, tỉnh Quảng Nam), cùng với các nút giao trên tuyến Quốc lộ 1 với đường ĐT.610, đường tỉnh ĐT.613, đường Nguyễn Văn Linh và đường Khu công nghiệp đi cảng Tam Hiệp đã được Bộ GTVT chấp thuận chủ trương tại Thông báo số 356/TB-BGTVT ngày 22/4/2015. Bộ GTVT cũng đã có văn bản số 4109/BGTVT-ĐTCT ngày 14/4/2016 đôn đốc nhà đầu tư dự án là Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP khẩn trương triển khai thực hiện. Hiện tại, trên cơ sở kết quả thẩm định thiết kế bản vẽ thi công của Bộ GTVT, Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP đã phê duyệt Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, dự toán các công trình nêu trên và đang chuẩn bị triển khai thi công. Bộ GTVT sẽ tiếp tục đôn đốc Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP sớm hoàn thành bổ sung đèn tín hiệu giao thông đảm bảo an toàn tại các nút giao nêu trên với QL.1.
- Đối với nút giao Ngã tư Hương An - Km964+235 (nút giao giữa QL.1 với QL.1 cũ và đường vào chợ Hưng An, phía Bắc cầu Hương An): Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN phối hợp cùng với Ban ATGT tỉnh Quảng Nam, Sở GTVT tỉnh Quảng Nam và các bên liên quan tiến hành kiểm tra hiện trường và xem xét và thống nhất phương án tổ chức giao thông, bố trí đèn tín hiệu giao thông hợp lý bảo đảm an toàn giao thông đồng thời nâng cao năng lực khai thác của tuyến QL.1.
300. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị có quy định về cơ chế ký quỹ bảo trì đường bộ làm cơ sở để yêu cầu các đơn vị khai thác, vận chuyển khoáng sản có trách nhiệm sửa chữa, khắc phục hư hại kết cấu giao thông đường bộ tại các khu vực vận chuyển riêng biệt và chung với tuyến đường bộ do địa phương quản lý.
Trả lời: (Tại Công văn số 41/QBTTW-VB - ngày 31/3/2017)
- Theo quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008, trách nhiệm tổ chức quản lý, bảo trì đường bộ địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm; đường chuyên dùng, đường không do Nhà nước quản lý khai thác, đường được đầu tư xây dựng không bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước do chủ đầu tư tổ chức quản lý, bảo trì theo quy định. Do vậy đề nghị UBND tỉnh, Sở GTVT Quảng Ninh chủ động tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát các đơn vị vận tải trên địa bàn; đồng thời tích cực phối hợp với các cơ quan của Bộ GTVT (Tổng cục ĐBVN, Vụ Vận tải, Vụ An toàn giao thông) kiểm soát xe quá tải - quá khổ có hiệu quả để bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông.
- Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Quỹ BTĐB Trung ương đang chuẩn bị tổ chức tổng kết 05 năm đi vào hoạt động (dự kiến quý III/2017), nội dung này Quỹ BTĐB Trung ương xin ghi nhận và sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và sẽ xây dựng cơ chế phù hợp trong thời gian tới.
301. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Quan tâm sớm bàn giao diện tích đất thuộc quốc lộ 18 cũ không có nhu cầu sử dụng để luyện Tiên Yên lập quy hoạch, quản lý, sử dụng tránh lãng phí nguồn lực đất đai.
Trả lời: (Tại Công văn số 2725/BGTVT-TC - ngày 16/3/2017)
Bộ GTVT cám ơn sự quan tâm của cử tri tỉnh Quảng Ninh về vấn đề liên quan đến ngành GTVT. Đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Ninh nêu trên, Bộ GTVT xin được báo cáo như sau:
Trên địa bàn huyện Tiên Yên – tỉnh Quảng Ninh trước đây có cơ sở Trạm thu phí cầu Ba Chẽ. Năm 2013 Trạm thu phí này đã được xóa bỏ khi Quỹ bảo trì đường bộ đi vào hoạt động. Diện tích đất khu vực trạm thu phí có 8.612,2 m2, được giao cho Công ty TNHH MTV cầu, phà Quảng Ninh quản lý. Ngày 27/3/2016 UBND tỉnh Quảng Ninh đã có Quyết định số 1593/QĐ-UBND thu hồi diện tích đất trên, trong đó:
- Cho Công ty Quản lý cầu đường bộ II Quảng Ninh thuê (Hợp đồng số 375/HĐTĐ ngày 15/7/2016) trả tiền hàng năm để làm trụ sở đội duy tu sửa chữa cầu đường bộ: 3.601,8 m2.
- Giao 1.431,5 m2 đất hành lang ATGT cầu Ba Chẽ cho Công ty Quản lý cầu đường bộ II Quảng Ninh quản lý không thu tiền sử dụng đất.
- Giao 3.579 m2 đất cho UBND huyện Tiên Yên quản lý.
Về tài sản nhà nước trên diện tích đất do Công ty Quản lý cầu đường bộ II Quảng Ninh thuê có khu nhà cấp 4 khoảng 200 m2 (nhà lưu trú của CBCNV), hiện đã hư hỏng không sử dụng được. Dự kiến Sở GTVT Quảng Ninh sẽ đề xuất cho thanh lý tài sản và tháo dỡ để trả lại mặt bằng cho đơn vị thuê đất.
Về việc thực hiện quản lý và sắp xếp, xử lý cơ sở nhà, đất này theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ: Sở GTVT tỉnh Quảng Ninh trình UBND tỉnh Quảng Ninh để xem xét xử lý.
Như vậy việc sắp xếp, xử lý khu đất trên theo kiến nghị của cử tri huyện Tiên Yên thuộc thẩm quyền xem xét của UBND tỉnh Quảng Ninh (trừ phần diện tích đất hàng lang an toàn giao thông).
302. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Hiện nay, công trình Trạm thu phí đường tránh cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận thuộc địa bàn huyện Cai Lậy thi công không chừa lối ra vào nhà cho người dân gây khó khăn cho sinh hoạt và đi lại. Do vậy, kiến nghị Bộ xem xét, có giải pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Trả lời: (Tại Công văn số 3687/BGTVT-CQLXD - ngày 7/4/2017)
Công trình Trạm thu phí trên địa bàn huyện Cai Lậy thuộc Dự án đầu tư xây dựng công trình Quốc lộ 1 đoạn tránh thị trấn Cai Lậy và tăng cường mặt đường đoạn Km1987+560 – Km2014+000, tỉnh Tiền Giang theo hình thức hợp đồng BOT.
Trong quá trình thực hiện, do công tác bàn giao mặt bằng không đồng loạt nên việc thi công gặp nhiều khó khăn, cùng với việc tổ chức triển khai của nhà thầu chưa phù hợp với điều kiện hiện trường dẫn đến ở một số thời điểm gây khó khăn cho việc đi lại của người dân. Bộ GTVT đã có các văn bản yêu cầu Nhà đầu tư điều chỉnh biện pháp thi công để khắc phục tình trạng trên, đến nay việc thi công của nhà thầu về cơ bản không ảnh hưởng đến việc đi lại, sinh hoạt của người dân 2 bên khu vực trạm thu phí.
303. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Về vận tải hàng không đến Côn Đảo: Cử tri phản ánh hiện nay các chuyến bay thương mại chở khách đi đến Côn Đảo do một hãng hàng không Công ty Bay dịch vụ hàng không (VASCO) thực hiện và chỉ có các chuyến bay thẳng từ sân bay Cần Thơ và Tân Sơn Nhất. Việc mua vé máy bay đi Côn Đảo là hết sức khó khăn, có hay không một số hãng lữ hành găm vé, nhất là những chuyến bay vào các ngày cuối tuần. Mặt khác, rất nhiều hành khách từ thành phố Hà Nội đến Côn Đảo phải chuyển máy bay qua chặng thành phố Hồ Chí Minh.
Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu cho phép các hãng hàng không khác được khai thác các chuyến bay đến Côn Đảo; đồng thời cho phép có tuyến bay thẳng từ Hà Nội đến Côn Đảo để phá vỡ thế độc quyền của hãng hàng không VASCO; tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch cũng như các hành khách đến làm ăn, sinh sống tại Côn Đảo.
Trả lời: (Tại Công văn số 2224/BGTVT-VT - ngày 6/3/2017)
- Chính sách quản lý vận tải hàng không
Trên cơ sở Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng năm 2014, ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã triển khai thực hiện chính sách tự do cạnh tranh trong vận tải hàng không. Chính sách này đã tạo điều kiện bình đẳng cho các hãng hàng không Việt Nam tiếp cận, gia nhập thị trường, dần nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển hàng không, góp phần để hành khách có cơ hội mua và sử dụng dịch vụ đa dạng của vận chuyển hàng không với giá cạnh tranh.
Việc cấp quyền vận chuyển hàng không cho các hãng hàng không được thực hiện bình đẳng dựa trên các điều kiện về hạ tầng cảng hàng không, sân bay và năng lực khai thác của các hãng hàng không. Các hãng hàng không Việt Nam đều được cấp phép khai thác các đường bay nội địa nói chung và đường bay đến Côn Đảo nói riêng trong điều kiện kế hoạch khai thác đường bay phải phù hợp với khả năng đáp ứng của cảng hàng không. Hãng hàng không Việt Nam đã được cấp quyền khai thác thường lệ đến Côn Đảo là Vietnam Airlines/VASCO và Air Mekong (đã dừng khai thác từ 01/03/2013).
Với kích cỡ đường hạ cất cánh là 1.830m x 30m, Côn Đảo hiện chỉ tiếp nhận được các tàu bay nhỏ như ATR72 và tương đương. Sau khi Air Mekong dừng khai thác, hiện chỉ có VASCO với đội tàu bay ATR72 là phù hợp với khả năng đáp ứng của Côn Đảo. Các hãng hàng không khác như VietJet và Jetstar Pacific Airlines hiện chỉ khai thác loại tàu bay A320/A321 nên chưa thể khai thác đến Côn Đảo. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại, Côn Đảo chưa thể có hoạt động khai thác đến của hai hãng hàng không chi phí thấp.
Đối với chủng loại tàu bay cánh quạt ATR72, tầm bay hiệu quả chỉ là dưới 500km (dưới 1 giờ bay) như từ Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ như hiện tại. Việc khai thác đường bay liên vùng nói chung và từ Hà Nội nói riêng đến Côn Đảo với khoảng cách trên 1.200km sẽ có hiệu quả rất thấp như thời gian bay lâu (trên 4 giờ bay), lượng xăng lớn nên phải giảm tải thương mại (không thể mở bán toàn bộ 68 ghế theo thiết kế). Trong điều kiện số lượng chuyến bay giữa Tp. Hồ Chí Minh – Côn Đảo lên tới 6 chuyến/ngày/chiều, việc nối chuyến của hành khách từ Hà Nội cũng như nhiều điểm khác tại Việt Nam như Hải Phòng, Vinh Huế, Đà Nẵng, Nha Trang,… cũng như các điểm quốc tế qua cửa ngõ Tp. Hồ Chí Minh là rất thuận lợi, hiệu quả về khai thác hàng không. Việc xem xét mở đường bay trực tiếp từ Hà Nội đến Côn Đảo trong điều kiện hiện tại là không hiệu quả cả về yếu tố kỹ thuật lẫn kinh tế.
- Cơ chế xây dựng giá vé và quản lý giá vé máy bay
- Bộ Tài chính quy định mức trần khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa theo đơn giá cước đồng/hành khách.km (đ/hk.km). Do tính chất đặc thù của ngành vận tải, vận chuyển càng xa thì đơn giá cước đ/hk.km càng giảm. Bộ Tài chính đã quy định mức trần khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa là 4.250đ/hk.km (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng).
Việc quy định khung giá đối với các nhóm đường bay khác nhau đã được các cơ quan liên quan của Bộ Tài chính và Bộ GTVT thẩm định cụ thể trên cơ sở chi phí hợp lý, phù hợp với chất lượng dịch vụ, tình hình cung cầu, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và phù hợp với mức giá trung bình của cùng loại dịch vụ trong Khu vực ASEAN. Căn cứ khung giá, các hãng hàng không Việt Nam thực hiện việc kê khai giá; tự quy định giá theo chi phí thực tế và có lợi nhuận; chủ động xây dựng và thực hiện các phương án kinh doanh ngắn, trung và dài hạn; thực hiện đa dạng hóa giá vé theo chất lượng dịch vụ trên tất cả các đường bay nội địa; chủ động “phản ứng giá” với sự biến động của các yếu tố chi phí đầu vào một cách hợp lý, bù đắp được chi phí, tăng doanh thu, tránh thua lỗ. Như vậy, giá dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa hạng phổ thông hàng không tại Việt Nam đã được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các hãng hàng không; đồng thời tạo môi trường cạnh tranh về giá, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và tạo điều kiện cho các hãng hàng không tổ chức và mở rộng khai thác cả các đường bay ngắn (trước đây là đường bay thường xuyên bị thua lỗ và chủ yếu bay phục vụ mục đích chính trị - xã hội).
Mức giá trần đường bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo, Cần Thơ - Côn Đảo (thuộc đường bay dưới 500km) hiện tại là 1.600.000đ (chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam). Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines), VASCO đã kê khai và thực hiện phương án giá hợp lý: (i) đối với đường bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo với mức giá cao nhất là 1.550.000đ/chiều, bằng 96% giá trần cao nhất theo quy định của Bộ Tài chính áp dụng cho nhóm đường bay dưới 500km và các mức giá 1.500.000đ, 1.450.000đ, 1.200.000đ; 1.000.000đ; 900.000đ; 700.000đ; 600.000đ (chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam); (ii) đối với đường bay Cần Thơ - Côn Đảo với mức giá cao nhất là 1.350.000đ/chiều, bằng 84% giá trần cao nhất theo quy định của Bộ Tài chính áp dụng cho nhóm đường bay dưới 500km và các mức giá 1.250.000đ, 1.150.000đ, 950.000đ, 750.000đ, 500.000đ, 400.000đ, 350.000đ (chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam).
- Ngoài ra, nhằm tiếp tục góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội đối với huyện đảo Côn Đảo, với các điều kiện giao thông tiếp cận đất liền còn nhiều khó khăn, Vietnam Airlines và VASCO đã triển khai một số chính sách ưu đãi trên chặng bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo: giảm 30% so với mức giá áp dụng (một số giá thuộc loại giá phổ thông linh hoạt/phổ thông tiêu chuẩn/phổ thông tiết kiệm) cho hành khách Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Côn Đảo, quân nhân, công nhân viên chức Nhà nước làm việc tại Côn Đảo; giảm 15% so với mức giá phổ thông cho hành khách là Việt Nam từ 60 tuổi trở lên, người khuyết tật; chính sách giảm giá cho trẻ em, trẻ nhỏ có hộ khẩu thường trú tại Côn đảo,…; đồng thời bảo đảm quyền đặt giữ chỗ và các quyền lợi khác theo hạng vé.
- Đánh giá
Từ nội dung trên, có thể thấy, không có bất kỳ sự độc quyền trong việc cấp phép khai thác đến Côn Đảo. Việc chỉ có VASCO khai thác đến Côn Đảo bằng chủng loại tàu bay ATR72 do hạn chế về năng lực tiếp nhận của cảng hàng không. Các hãng hàng không Việt Nam khai thác chủng loại tàu bay A320/A321 trở lên chưa thể khai thác đến Côn Đảo.
Đối với chủng loại tàu bay cánh quạt ATR72 như hiện tại, việc hãng hàng không chỉ khai thác 2 đường bay từ Tp. Hồ Chí Minh và Cần Thơ tới Côn Đảo là phù hợp với tính năng kỹ thuật tàu bay cũng như hiệu quả kinh tế. Việc kết nối từ Hà Nội cũng như các địa phương khác tại Việt Nam tới Côn Đảo thông qua cửa ngõ Tp. Hồ Chí Minh là phương án tối ưu trong điều kiện hạn chế về hạ tầng tại Côn Đảo cũng như kế hoạch phát triển đội tàu bay của hàng không Việt Nam.
Các mức giá áp dụng nằm trong khung giá do liên Bộ Tài chính - Bộ Giao thông vận tải thẩm định và hãng hàng không khai thác đã có chính sách giảm giá vé cho hành khách trên chặng bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo. Việc xảy ra khan hiếm vé máy bay vào các thời điểm cũng như tình trạng khách di chuyển lệch đầu do đặc thù nhu cầu đi lại của hành khách. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của cử tri, trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Vietnam Airlines và VASCO tăng cường rà soát, kiểm tra hệ thống đặt giữ chỗ, hệ thống phân phối qua đại lý và giá vé tàu bay để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động khai thác, đáp ứng nhu cầu đi lại của quân và dân tại huyện đảo Côn Đảo; đồng thời sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp quản lý đồng bộ theo quy định nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ với giá cả hợp lý trên nguyên tắc cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
304. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh, tình trạng đặt quá nhiều trạm thu phí với cự ly gần trên một tuyến đường quốc lộ, người tham gia giao thông phải chịu nộp các khoản phí chồng phí, như đi từ huyện Châu Phú (An Giang) đến tỉnh Phú Yên tốn phí qua các trạm là 680.000 đồng. Đề nghị Bộ giao thông vận tải tổ chức kiểm tra, rà soát tình hình thu phí giao thông tại các trạm thu phí trên cả nước, trong đó có dự án BOT; đồng thời xem xét giảm mức thu tại các trạm thu phí, điều giải điểm cự ly đặt các trạm thu phí cho phù hợp, nhằm giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp và người dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 2832/BGTVT-TC- ngày 28/3/2017)
I. Về việc phí chồng phí:
Trước hết, Bộ GTVT khẳng định không có hiện tượng phí chồng phí, do:
- Việc thu phí sử dụng đường bộ đã được quy định trong Pháp lệnh Phí và lệ phí của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; về nguồn chi cho công tác quản lý, bảo trì các loại đường bộ đã được quy định tại Điều 49- Luật giao thông đường bộ như sau: Nguồn tài chính để quản lý, bảo trì đường bộ do Nhà nước đầu tư được đảm bảo từ Quỹ bảo trì đường bộ; đường chuyên dùng, đường không do Nhà nước đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn từ ngân sách thì do các cá nhân, tổ chức quản lý khai thác chịu trách nhiệm chi trả.
- Thu phí sử dụng đường bộ trên đầu phương tiện tạo nguồn hình thành Quỹ bảo trì đường bộ (theo quy định tại Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ về Quỹ bảo trì đường bộ và Thông tư số 197/2012/TT-BTC ngày 15 tháng 11 năm 2012 Bộ Tài chính hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ thu trên đầu phương tiện) để chi cho công tác quản lý, bảo trì đường bộ do Nhà nước đầu tư xây dựng.
- Thu phí sử dụng đường bộ tại các trạm thu phí BOT (theo quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ) để hoàn vốn đã đầu tư và chi cho công tác quản lý, bảo trì đường bộ do các nhà đầu tư BOT đã đầu tư.
Như vậy, phí sử dụng đường bộ thu trên đầu phương tiện để hình thành Quỹ bảo trì đường bộ dùng chi cho công tác quản lý, bảo trì đường bộ do ngân sách Nhà nước đầu tư và phí sử dụng đường bộ thu trực tiếp tại các trạm thu phí BOT dùng để chi cho công tác quản lý, bảo trì và hoàn vốn đầu tư đường bộ do các nhà đầu tư BOT đã đầu tư là phù hợp với pháp luật hiện hành và không có hiện tượng phí chồng phí.
II. Về việc rà soát, giảm bớt các trạm thu phí giao thông đường bộ, trong đó có các dự án BOT:
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã quyết liệt thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã và đang triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Hình thức đầu tư BOT hiện là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vì ngoài việc khắc phục sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư công thì đây là hình thức đầu tư có sự giám sát chặt chẽ của nhiều bên (nhà đầu tư, cơ quan nhà nước, ngân hàng và người sử dụng), không làm tăng nợ công trong điều kiện nợ công đang ở mức cao như hiện nay, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của người dân thông qua các tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng. Đây cũng là giải pháp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu các lĩnh vực vận tải, nhằm năng cao năng suất, hạ giá thành vận tải, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Đến nay nhiều dự án đầu tư theo hình thức này được đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả, mang lại lợi ích trên nhiều phương diện và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Việc huy động thêm được các nguồn lực ngoài ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông dẫn đến năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Sau khi các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định. Việc huy động các nguồn lực trong nước để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là một hướng đi đúng trong việc hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần phát huy nội lực, tăng cường sử dụng sản phẩm, hàng hóa, công nghệ và dịch vụ trong nước để giảm chi phí sản xuất, giảm nhập siêu... Có thể nói rằng, việc huy động nguồn lực đầu tư tư nhân là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã mang lại hiệu quả trên mọi phương diện.
Việc thành lập các trạm thu phí BOT dựa trên cơ sở các trạm thu phí của ngân sách để không làm tăng thêm trạm thu phí. Còn lại, các trạm lập mới đều được sự thống nhất của các cấp chính quyền địa phương, Bộ Tài chính, Bộ GTVT. Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang về nội dung kiến nghị và rất mong cử chi cũng như Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang chia sẻ khó khăn chung của đất nước. Liên quan đến việc thực hiện rà soát, giảm bớt, dịch chuyển trạm thu phí BOT: ngày 31/7/2015, Bộ GTVT đã có văn bản số 10023/BGTVT-TC báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai sắp xếp các trạm thu phí BOT đường bộ trong phạm vi cả nước, trong phương án Bộ đề xuất có 02 trạm thu phí sẽ xóa bỏ, dừng thu (trạm Đèo Ngang, trạm Nam Hải Vân) và 04 trạm sẽ dịch chuyển (trạm Đức Phổ, trạm Bàn Thạch, trạm Ninh An, trạm Bảo Lộc). Đến nay, Bộ GTVT đã thực hiện xóa bỏ, dừng thu phí 03 trạm thu phí (Trạm Nam Hải Vân đã xóa bỏ đầu năm 2016; trạm thu phí Phả Lại Km 23+800 QL18 dừng thu phí hỗ trợ cho dự án BOT QL 18 đoạn Uông Bí - Hạ Long (dự án thành phần 1) từ tháng 5/2016. Sau này khi dự án BOT QL18 đoạn Bắc Ninh - Uông Bí (dự án thành phần 2) mới thu phí hoàn vốn cho dự án; trạm thu phí Đèo Ngang dừng thu phí từ tháng 12/2016) và thực hiện dịch chuyển vị trí 05 trạm thu phí (Trạm Đức Phổ, Trạm Bàn Thạch, Trạm Ninh An, Trạm Thành Hải, Trạm Bảo Lộc) về vị trí mới phù hợp hơn.
Ngoài ra, ngày 30/7/2016, Bộ GTVT đã có văn bản số 9921/BGTVT-ĐTCT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể các trạm thu phí trên hệ thống quốc lộ và cao tốc đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Sau khi xem xét, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo dừng lập quy hoạch trạm thu phí nêu trên.
III. Về việc kiểm tra, rà soát tình hình thu phí giao thông tại các trạm thu phí trên cả nước:
Để quản lý tốt, đảm bảo tính minh bạch, phòng, chống tiêu cực thất thoát doanh thu, gian lận trong hoạt động thu phí tại các trạm thu phí BOT, Bộ GTVT đã triển khai rất nhiều các giải pháp như:
1. Giao nhiệm vụ cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Tổng cục ĐBVN) thay mặt Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn kinh doanh, khai thác và chuyển giao công trình dự án chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra doanh thu thu phí; công tác tổ chức thu phí; có biện pháp chống thất thoát doanh thu; thực hiện quyền của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tạm đình chỉ, dừng thu phí khi Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án vi phạm hợp đồng dự án theo các quy định của hợp đồng dự án…;
2. Thường xuyên chỉ đạo Tổng cục ĐBVN tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra (định kỳ và đột xuất) tại các trạm thu phí BOT của các dự án do Bộ GTVT quản lý (ví dụ như: trạm thu phí Pháp Vân – Cầu Giẽ, trạm thu phí trên Quốc lộ 5, trạm thu phí Đại Yên - quốc lộ 18…) để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nếu để xảy ra vi phạm;
3. Bộ GTVT đã tổ chức họp bàn các giải pháp triển khai thực hiện với Bộ Tài chính về các nội dung này và kiến nghị Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí trong đó có phí sử dụng đường bộ hoàn vốn các dự án BOT. Ngày 28/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8737/BTC-CST chỉ đạo Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý thu phí, lệ phí; đảm bảo công khai minh bạch, công bằng trong hoạt động thu phí, lệ phí của các dự án BOT thu phí hoàn vốn, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động thu phí, lệ phí và kê khai nộp thuế, phí, lệ phí.
4. Giao Tổng cục ĐBVN chủ trì mời Cục An ninh kinh tế - Bộ Công an, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính, Cục thuế các địa phương tham gia đoàn kiểm tra, giám sát hoạt động thu phí đối với các trạm thu phí BOT trên cơ sở kiến nghị, đề xuất của Tổng cục ĐBVN;
5. Phê duyệt dự án thu phí tự động không dừng và kiểm soát tải trọng xe trên toàn quốc – giai đoạn 1 áp dụng cho Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, tiến tới triển khai áp dụng toàn bộ tại các dự án BOT do Bộ GTVT quản lý;
6. Triển khai đề án “tăng cường giám sát và công khai minh bạch doanh thu thu phí đối với các dự án đường bộ có thu phí do Bộ GTVT quản lý” qua việc giám sát lưu lượng, doanh thu các trạm thu phí BOT bằng phần mềm giám sát thu phí trực tuyến...;
7. Đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT: thông qua công tác quyết toán để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư mang lại; xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu quả, quản lý chặt chẽ công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước, hạn chế tình trạng dự án kéo dài, giải quyết tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản, tiết kiệm vốn đầu tư, chống thất thoát ngân sách nhà nước…Đối với dự án BOT ngoài các nội dung trên, giá trị quyết toán là căn cứ để tính toán, xác định lại chính thức thời gian thu phí hoàn vốn đối với các dự án, công khai, minh bạch chi phí đầu tư xây dựng công trình, thời gian thu phí hoàn vốn trước các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ và nhân dân…
8. Yêu cầu các Nhà đầu tư/Doanh nghiệp dự án:
- Xây dựng các giải pháp để chống thất thoát trong công tác thu phí. Xây dựng các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ thu phí, giám sát hậu kiểm chặt chẽ. Thường xuyên phổ biến và tập huấn các quy chế, quy định liên quan đến công tác thu phí cho các cán bộ công nhân viên...;
- Nghiên cứu xây dựng và đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định, chế tài xử phạt, bồi thường thiệt hại đủ sức răn đe để hạn chế, xử lý các cá nhân, phương tiện trốn phí;
- Rà soát, kiểm tra và lắp đặt đầy đủ trang thiết bị thu phí, giám sát, hậu kiểm đồng bộ, hiện đại (bao gồm hệ thống phần mềm, camera nhận dạng biển số xe...) để kiểm soát chặt chẽ các phương tiện qua trạm thu phí, hạn chế các tác động của con người vào quá trình thu phí, giám sát, hậu kiểm; Khắc phục ngay các sự cố, hư hỏng về hệ thống, thiết bị, phần mềm... đáp ứng yêu cầu trong quá trình thực hiện;
- Hiện đại hóa công nghệ thu phí để đáp ứng yêu cầu thu phí tự động không dừng theo chủ trương của Bộ GTVT;
- Bán kịp thời đầy đủ các loại vé (vé lượt, vé tháng, vé quý) theo quy định và yêu cầu của người mua;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các chủ phương tiện thực hiện đúng các quy định, trình tự, thủ tục thu phí...
- Tăng cường bố trí nhân lực, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định trong công tác thu phí...; thực hiện các biện pháp luân chuyển cán bộ; xử lý kỷ luật các cán bộ liên quan vi phạm, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
- Nghiêm túc tuân thủ chế độ báo cáo về tình hình thu phí và doanh thu thu phí theo nội dung quy định trong hợp đồng dự án và Quyết định số 2777/QĐ-BGTVT ngày 03/8/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT; cụ thể: Báo cáo định kỳ hàng quý (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) về tình hình thu phí và doanh thu thu phí; báo cáo định kỳ 06 tháng (trước ngày 10 của tháng tiếp theo) và cả năm (trước ngày 31/01 của năm tiếp theo) về tình hình giao thông, lưu lượng xe, doanh thu thu phí, các thông số đầu vào liên quan đến phương án tài chính của dự án và các nội dung liên quan đến quản lý, bảo trì công trình dự án theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ và hợp đồng dự án. Riêng báo cáo cả năm về doanh thu thu phí phải có kiểm toán độc lập kiểm toán hoặc xác nhận của cơ quan thuế.
Với các giải pháp nêu trên, Bộ GTVT tin tưởng rằng đã và sẽ hạn chế được các hành vi tiêu cực, gian lận tại trạm thu phí BOT đường bộ trong quá trình thu phí.
IV. Đối với nội dung xem xét giảm mức thu tại các trạm thu phí
Triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và trên cơ sở rà soát sơ bộ chi phí đầu tư, phương án tài chính của các dự án, Bộ GTVT đã có văn bản số 6678/BGTVT-ĐTCT ngày 14/6/2016 đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án giảm phí và lộ trình thực hiện việc giảm phí đường bộ.
Ngày 20/6/2016, Bộ Tài chính đã có văn bản số 8302/BTC-CST báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương giảm phí sử dụng đường bộ. Căn cứ các nội dung nêu trên, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 6370/VPCP-KTTH ngày 02/8/2016 thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: “Đồng ý phương án, giải pháp và lộ trình thực hiện giảm phí đường bộ như đề xuất của Bộ Tài chính tại văn bản số 8302/BTC-CST. Giao Bộ GTVT rà soát các dự án BOT đã ký để đàm phán, thống nhất với nhà đầu tư về việc điều chỉnh mức phí, lộ trình thực hiện đối với từng dự án BOT; trên cơ sở đó, đề nghị Bộ Tài chính kịp thời ban hành Thông tư điều chỉnh mức phí phù hợp”.
Ngoài ra, để chủ động thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ, Bộ GTVT đã có văn bản số 8299/BGTVT-TC ngày 19/7/2016 đề nghị các Nhà đầu tư BOT khẩn trương rà soát phương án tài chính của dự án, các yếu tố liên quan đến phương án tài chính để đề xuất mức giảm phí theo phương án của Bộ Tài chính tại văn bản số 8302/BTC-CST.
Từ khi thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP đến nay Bộ GTVT đã đề xuất và được Bộ Tài chính chấp thuận giảm được 29 trạm thu phí gồm:
+ Giảm được 06 trạm thu phí đã được Bộ Tài chính ban hành thông tư trước khi cho phép thu phí;
+ Chủ động điều chỉnh giảm mức thu đối với 03 trạm thu phí (theo PATC) trong quá trình ban hành thông tư;
+ Không tăng phí đối với 01 trạm thu phí theo lộ trình tăng phí tại Thông tư của Bộ Tài chính (trạm Tân Phú QL20).
+ Từ ngày 25/8 đến ngày 08/12/2016, Bộ GTVT đã thống nhất cùng các Nhà đầu tư để trình và Bộ Tài chính đã giảm phí đối với 19 trạm thu phí đang thu.
+ Từ năm 2017, “phí đường bộ” đã chuyển thành “giá dịch vụ sử dụng đường bộ” theo quy định tại Luật phí và lệ phí năm 2015. Theo quy định tại Thông tư số 35/2016/TT-BGTVT ngày 15/11/2016 của Bộ GTVT, mức giá cụ thể cho dịch vụ sử dụng đường bộ đối với từng dự án được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án thống nhất tại Hợp đồng dự án... Do vậy, một số trạm thu giá còn lại, ngay sau khi rà soát và thống nhất cụ thể với từng Nhà đầu tư, trong trường hợp giảm được giá Bộ GTVT và Nhà đầu tư sẽ thống nhất các thủ tục giảm theo quy định.
305. Cử tri tỉnh An Giang, TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri cho rằng, tình trạng tai nạn giao thông vẫn còn xảy ra nhiều, phần lớn là do người tham gia giao thông chưa chấp hành nghiêm pháp luật như: uống rượu bia, chạy quá tốc độ, đánh võng, đi bộ qua đường không quan sát…. . Đề nghị pháp luật nên tăng mức xử phạt và xử nghiêm nhưng hành vi vi phạm này, các ngành chức năng tăng cường công tác tuần tra, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhằm nâng cao ý thức người tham gia giao thông, nên có quy định số giờ lái xe trong một ngày.
Trả lời: (Tại Công văn số 2440/BGTVT-ATGT - ngày 10/3/2017)
Trước hết, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) xin trân trọng cảm ơn Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri thành phố Hồ Chí Minh, An Giang đã góp ý về công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải. Đối với nội dung cử tri kiến nghị, Bộ GTVT xin tiếp thu và làm rõ như sau:
Đúng như cử tri đã phản ánh, trong thời gian qua vẫn còn tình trạng người điều khiển phương tiện cơ giới tham gia giao thông trên đường bộ vi phạm các quy định về nồng độ cồn, chạy quá tốc độ, thiếu quan sát khi tham gia giao thông... tiềm ẩn nguy cơ cao gây ra tai nạn giao thông. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, các Bộ, ngành địa phương đã tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để bảo đảm trật tự an toàn giao thông:
- Trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh khó khăn, vướng mắc trong việc thi hành các quy định về xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có bất cập về mức phạt, đối tượng vi phạm và thẩm quyền xử lý vi phạm của một số lực lượng thực thi nhiệm vụ. Do đó, Bộ GTVT đã phối hợp Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các Bộ ngành, địa phương kịp thời tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (có hiệu lực từ ngày 01/8/2016) thay thế Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP. Nghị định mới đã bổ sung, sửa đổi một số nội dung cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và khắc phục triệt để những tồn tại, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP cụ thể là nâng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông như sử dụng rượu bia, chạy quá tốc độ, thiếu quan sát khi tham gia giao thông... như cử tri đã phản ánh để nâng cao ý thức của người tham gia giao thông;
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; trong đó, đẩy mạnh tuyên truyền các quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ để người dân, cán bộ, doanh nghiệp…kịp thời nắm bắt các quy định mới và triển khai thực hiện. Tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện, tập trung các giải pháp ngăn chặn vi phạm từ gốc; tăng cường sử dụng dữ liệu thiết bị giám sát hành trình xe ô tô, kiểm soát tải trọng phương tiện từ khâu xếp hàng lên xe; kiểm soát chặt việc thực hiện quy định về kích thước thành, thùng xe; giám sát, xử phạt nghiêm việc sử dụng phương tiện không bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định.
- Tăng cường kiểm tra xe kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; chỉ đạo các Trung tâm đăng kiểm tăng cường phối hợp với lực lượng Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông tại địa phương trong việc kiểm soát xử lý xe hết niên hạn sử dụng, xe quá hạn kiểm định.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ, nhiệm vụ về bảo đảm TTATGT; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.
306. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Cử tri đồng tình với việc thực hiện các dự án BOT nhằm cải tạo, nâng cao chất lượng giao thông. Tuy nhiên, thời gian qua, liên quan đến các dự án BOT giao thông còn tồn tại nhiều vấn đề cử tri phản ánh, như: các yếu tố về chi phí nhà đầu tư, lợi nhuận, mức phí, thời gian thu phí… không mang tính chất minh bạch; vị trí đặt trạm thu phí tùy tiện, chỉ nhằm mục đích doanh nghiệp được tận thu mà chưa tính đến lợi ích cộng đồng, xã hội đã gây nhiều bức xúc cho Nhân dân. Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải tăng cường thanh tra, kiểm toán, giám sát các dự án BOT giao thông, khắc phục các hạn chế và có cơ chế công khai, minh bạch các thông tin trên để Nhân dân, cơ quan chức năng biết và giám sát.
Trả lời: (Tại Công văn số 3683/BGTVT-ĐTCT - ngày 7/4/2017)
Phản ánh của các Cử tri trong thời gian qua liên quan đến chi phí đầu tư, lợi nhuận, mức phí, thời gian thu phí, vị trí trạm thu phí...tại các dự án BOT đã được Bộ GTVT giải trình, làm rõ tại rất nhiều báo cáo, giải trình Quốc hội, Chính phủ, ý kiến Cử tri các tỉnh, các đoàn thanh tra, kiểm toán, các cơ quan báo chí và truyền hình. Một lần nữa, Bộ GTVT khẳng định với Cử tri tỉnh Quảng Ngãi quá trình lập, thẩm định, thực hiện đầu tư, vận hành khai thác các dự án BOT đều được thực hiện đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tính công khai minh bạch. Bộ GTVT xin cung cấp thêm một số thông tin để các Cử tri, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi được hiểu rõ hơn:
1. Về quản lý chi phí đầu tư các dự án BOT, BT:
- Về Tổng mức đầu tư dự án: Trong bước chuẩn bị đầu tư, cơ bản các dự án đều do Bộ GTVT (Cơ quan nhà nước có thẩm quyền) chủ trì tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt. Bộ GTVT luôn nhất quán quan điểm chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu tư và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo hiệu quả. Bên cạnh đó, từ giữa năm 2014, Bộ GTVT đã tiến hành rà soát dự toán, suất vốn đầu tư, giá xây dựng tổng hợp của tất cả các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT. Theo kết quả rà soát, suất vốn đầu tư các dự án BOT (sau khi tách riêng chi phí lãi vay trong quá trình xây dựng) tương tự như các dự án sử dụng vốn Nhà nước và phù hợp với suất vốn đầu tư theo công bố của Bộ Xây dựng. Thời gian vừa qua, trên một số phương tiện thông tin, kết luận của các đoàn thanh tra kiểm toán có đề cập đến việc sai số làm tăng TMĐT dự án gây bức xúc trong dự luận. Nguyên nhân chính của việc này do chi phí dự phòng được tính đúng theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng tại Thông tư số 04/2010/TT-BXD, bao gồm dự phòng cho yếu tố khối lượng (bằng 10% trên tổng chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng và chi phí khác) và dự phòng cho yếu tố trượt giá được tính theo thời gian thực hiện dự án. Đối với công trình giao thông, thời gian thực hiện dự án thường kéo dài (trên 2 năm), đặc biệt chỉ số giá xây dựng giai đoạn 2008 ÷ 2012 ở mức cao (trung bình từ 10 ÷ 13%) nên khi phê duyệt dự án ở giai đoạn 2012÷2015, chi phí dự phòng thông thường bằng khoảng 25 ÷ 35%. Thực tế, khi triển khai dự án, nhờ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ thực hiện các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên chỉ số giá xây dựng tương đối ổn định ở mức thấp, lãi suất giảm; đặc biệt là ở các năm 2013 ÷ 2015, các dự án đều rút ngắn thời gian thi công nên chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng, chi phí bù giá đều giảm. Đồng thời, Bộ GTVT chỉ đạo phân kỳ đầu tư một số đoạn qua đô thị phù hợp với nhu cầu, điều chỉnh các giải pháp kỹ thuật hợp lý nên khối lượng đầu tư giảm, kiểm soát việc sử dụng chi phí dự phòng của NĐT... nên nhiều dự án đã không sử dụng đến nguồn dự phòng dẫn đến TMĐT giảm như kết luận của Thanh tra, Kiểm toán và phản ánh của một số phương tiện thông tin đại chúng.
- Về thời gian thu phí các Dự án BOT: Theo các Hợp đồng BOT đã ký giữa Bộ GTVT và các Nhà đầu tư thì thời gian thu phí của dự án là tạm tính trên cơ sở các thông số đầu vào lúc lập dự án đầu tư (TMĐT, lãi suất ngân hàng, lợi nhuận nhà đầu tư, lưu lượng xe...). Trong quá trình thực hiện dự án, trên cơ sở giá trị quyết toán dự án, lưu lượng xe thực tế qua trạm, số liệu thực tế về lãi vay..., định kỳ hàng năm Bộ GTVT và Nhà đầu tư sẽ tính toán lại phương án tài chính để xác định lại thời gian thu phí của dự án cho phù hợp với thực tế.
2. Về mức phí, vị trí trạm thu phí:
- Về mức phí: Trong các hợp đồng dự án, mức thu phí đã phù hợp với khung mức phí quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính; riêng lộ trình tăng phí chỉ là dự kiến, sẽ được Bộ GTVT và Bộ Tài chính xem xét quyết định chính thức phù hợp với điều kiện thực tế. Mức phí chính thức áp dụng sẽ được Bộ Tài chính ban hành Thông tư riêng cho từng trạm thu phí và trước khi ban hành Thông tư, Bộ Tài chính có lấy ý kiến của địa phương, lấy ý kiến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể khẳng định, trình tự thủ tục xác định mức phí, ban hành Thông tư và triển khai thu phí đều thực hiện chặt chẽ, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
- Về vị trí trạm thu phí: Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì ban hành các Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu phí, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí đảm bảo tối thiểu 70 km thì do cơ quan có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70 km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ Giao thông vận tải thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định.
Trong quá trình thực hiện, trình tự, thủ tục liên quan đến việc xác định vị trí trạm thu phí được Bộ Giao thông vận tải thực hiện đúng quy định pháp luật: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu phí và thỏa thuận với địa phương; Bộ Giao thông vận tải lấy ý kiến của các địa phương (có nhiều trạm thu phí nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội) và Bộ Tài chính. Quá trình ban hành thông tư thu phí của Bộ Tài chính cũng đã thực hiện quy trình lấy ý kiến địa phương về vị trí đặt trạm thu phí trước khi ban hành Thông tư thu phí.
Tuy nhiên, khi đưa vào vận hành khai thác vẫn còn có một số ý kiến khác nhau về vị trí trạm và tính công bằng của người sử dụng. Nguyên nhân một phần là do quá trình địa phương tham gia ý kiến về vị trí đặt trạm thu phí chủ yếu giao cho các cơ quan chuyên môn chủ trì thỏa thuận; chưa tham vấn, lấy ý kiến các tổ chức xã hội nghề nghiệp, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đối tượng sử dụng đường mặc dù pháp luật không quy định việc này; một số vị trí trạm thu phí lựa chọn chưa thực sự phù hợp; người sử dụng có xu hướng không ủng hộ khi chuyển từ sử dụng miễn phí sang đóng phí sử dụng đường bộ; việc phối hợp tuyên truyền chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, trên thế giới chỉ có 2 hình thức thu phí là thu phí lượt và thu phí kín theo chiều dài đường sử dụng. Đối với hình thức thu phí kín, người dân trả phí trên số km thực đi và đảm bảo công bằng nhưng chỉ áp dụng đối với đường cao tốc vì kiểm soát được sự ra, vào của các phương tiện. Đối với các quốc lộ, chỉ áp dụng được hình thức thu phí lượt và hình thức này có hạn chế là chỉ đáp ứng được tính công bằng một cách tương đối (người dân ở gần trạm thu phí đi quãng đường ngắn nhưng vẫn phải trả phí trong khi đó những người đi quãng đường dài 50÷60 km ở khoảng cách giữa hai trạm thu phí thì vẫn không phải trả phí). Thực tế có một bộ phận nhỏ người dân sống khu vực trạm thu phí có sử dụng xe ô tô bị ảnh hưởng bất lợi, để hạn chế tối đa ảnh hưởng đối với người dân trong khu vực trạm thu phí, trong quá trình xây dựng cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện, Bộ Tài chính và Bộ Giao thông vận tải đã có chính sách miễn phí đối với xe thô sơ, xe máy nông nghiệp, xe máy (là phương tiện chủ yếu của đại bộ phận người dân đi lại trong cự ly ngắn với thống kê chưa đầy đủ khoảng 37 triệu phương tiên so với tổng số ô tô đang lưu hành trên cả nước khoảng 2.211.414 xe); đồng thời, yêu cầu nhà đầu tư phải bán vé quý, vé tháng để các phương tiện cơ giới có quyền đi lại nhiều lần nhưng chỉ trả phí một lần trong ngày.
4. Về lợi nhuận nhà đầu tư: Lợi nhuận của Nhà đầu tư được xác định tuân thủ đúng quy định của Bộ Tài chính tại Thông tư số 166/2011/TT-BTC và Thông tư số 55/2016/TT-BTC. Lợi nhuận của nhà đầu tư được tính trên cơ sở phần vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án với tỷ suất lợi nhuận trung bình khoảng 11÷12%/năm. Toàn bộ phần vốn chủ sở hữu nhà đầu tư góp vào dự án không được tính trong giai đoạn xây dựng mà chỉ được tính bắt đầu từ khi công trình hoàn thành, đưa vào khai thác; phần vốn vay hoàn toàn không được hưởng lợi nhuận.
Trong thời gian tới, để tăng cường tính công khai, minh bạch, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất một số giải pháp:
- Về chủ trương đầu tư: Chỉ kêu gọi đầu tư các công trình xây dựng mới. Đối với các tuyến đường hiện hữu trường hợp thực sự cấp bách, cần triển khai quy trình tham vấn lấy ý kiến của Đoàn Đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân, Hiệp hội vận tải và chỉ triển khai khi có sự đồng thuận của tất cả các bên liên quan.
- Về quản lý chi phí đầu tư, đảm bảo hiệu quả: Tất cả các dự án đều phải đấu thầu và chỉ đấu thầu sau khi cơ quan nhà nước phê duyệt thiết kế và dự toán thay vì tổng mức đầu tư như hiện nay.
- Về quản lý doanh thu: Tăng cường vai trò giám sát của Tổng cục Đường bộ Việt nam, triển khai áp dụng hệ thống thu phí điện tử tự động không dừng tại các trạm thu phí BOT.
- Về công khai thông tin: Thực hiện công khai, minh bạch thông tin về các dự án đầu tư theo hình thức PPP (mức phí, vị trí trạm thu phí, doanh thu thu phí...). Hiện nay, Bộ GTVT đã xây dựng và công khai trang thông tin điện tử (http://ppp.mt.gov.vn) để công bố các thông tin liên quan đến các dự án PPP do Bộ GTVT là Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân quan tâm dễ dang tiếp cận, giám sát.
- Tăng cường công tác truyền thông nhằm tạo ra sự đồng thuận, thống nhất về các dự án PPP.
- Thanh kiểm tra: Tăng cường phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm toán để thanh tra, kiểm toán các dự án BOT. Từ năm 2014, để quản lý có hiệu quả chi phí đầu tư các dự án BOT, Bộ GTVT đã chủ động mời Kiểm toán Nhà nước vào kiểm toán các dự án BOT. Đến thời điểm này, có 42 dự án đã và đang được kiểm toán, trong thời tới sẽ tiếp tục thanh tra, kiểm toán toàn bộ các dự án còn lại. Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ đã và đang thanh tra 8 dự án; Thanh tra Bộ KH&ĐT đã thanh tra xong 17 dự án; Thanh tra Bộ GTVT đã và đang thanh tra 37 dự án.
307. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Cử tri phản ánh theo quy định từ 70 km trở lên mới có 01 trạm thu phí, nhưng hiện nay, từ Bạc Liêu đến Cần Thơ có tới 03 trạm thu phí, đề nghị xem xét lại như vậy có đúng không?
Trả lời: (Tại Công văn số 3592/BGTVT-ĐTCT - ngày 5/4/2017)
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ phí, Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 90/2004/TT-BTC và Thông tư số 159/2013/TT-BTC, trong đó có quy định việc đặt trạm thu phí, cụ thể: (1) Đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí đảm bảo tối thiểu 70km thì do Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định; (2) Trường hợp đường bộ đặt trạm thu phí khoảng cách giữa các trạm thu phí không đảm bảo tối thiểu 70km trên cùng tuyến đường thì trước khi xây dựng trạm thu phí, Bộ GTVT thống nhất ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính quyết định. Vị trí đặt trạm thu phí có điều kiện về địa hình thuận lợi để giảm chi phí đầu tư, đảm bảo an toàn và thông suốt khi vận hành khai thác, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân và doanh nghiệp.
Hiện nay, từ Bạc Liêu đi đến Cần Thơ, có 03 trạm thu phí, gồm: Trạm thu phí tại Km2171+200 QL1, tỉnh Bạc Liêu; Trạm thu phí tại Km2123+250 QL1, tỉnh Sóc Trăng (cách trạm Bạc Liêu 49,95 km); Trạm thu phí tại Km2079+535 QL1 thành phố Cần Thơ (cách trạm Sóc Trăng 43,71 km). Trong quá trình thực hiện, thủ tục liên quan đến việc xác định vị trí trạm thu phí, Bộ GTVT thực hiện đúng quy định pháp luật như Bộ Tài chính yêu cầu trong các thông tư nêu trên: Tư vấn khảo sát hiện trường dự kiến vị trí trạm thu phí và thỏa thuận với địa phương; Bộ Tài chính đã chấp thuận và ban hành thong tư thu phí cho 3 trạm sau khi có ý kiến thống nhất của các địa phương nơi đặt trạm:
+ Trạm thu phí tại Km2079+535 QL1 thành phố Cần Thơ có ý kiến thống nhất của UBND thành phố Cần Thơ tại văn bản số 2940/UBND-KT ngày 01/7/2013;
+ Trạm thu phí tại Km2171+200 QL1, tỉnh Bạc Liêu: các văn bản số 2192/UBND-KT ngày 7/7/2014 và số 2626/UBND-KT ngày 8/8/2014 của UBND tỉnh Bạc Liêu; số 39/HĐND ngày 04/7/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu; số 28/ĐĐBQH ngày 04/7/2014 của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu.
+ Trạm thu phí tại Km2123+250 QL1, tỉnh Sóc Trăng: các văn bản số 688/CTUBND-HC ngày 16/6/2014 và 899/VTUBND-HC ngày 01/8/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Tăng
Quá trình ban hành thông tư thu phí cũng đã thực hiện theo đúng quy định pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan (lấy ý kiến các cơ quan liên quan, đăng tải trên trang thông tin điện tử để lấy ý kiến góp ý, có chính sách miễn giảm đối với người dân có nhu cầu qua lại gần trạm thu phí thông qua yêu cầu nhà đầu tư phải bán vé quý, vé tháng, miễn phí toàn bộ cho mô tô, xe thô sơ…). Trong quá trình thực hiện, trên cơ sở cân đối khả năng chi trả và tính toán đến tính hoàn vốn của dự án mức giá tại hai trạm (tại Sóc Trăng và Bạc Liêu) đã giảm xuống còn 25.000đ/xe con/lượt (giảm hơn so với các dự án QL1 đang thu theo mức giá 35.000đ/xe con/lượt).
308. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng Thông tư 69/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 của Bộ Giao thông Vận tải để tự nạo vét dòng sông, hút cát kinh doanh kiếm lời gây sụt lở 2 bên bờ sông. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải kiểm tra và có biện pháp khắc phục tình trạng này.
Trả lời: (Tại Công văn số 3305/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
Các tuyến luồng đường thủy nội địa quốc gia là tuyến giao thông thủy quan trọng trong vận chuyển hành khách, hàng hóa, tránh, trú bão cho tàu thuyền. Các tuyến này nằm trên khu vực cửa sông, qua các cửa sông, nơi diễn ra các hoạt động hàng hải, đường thủy nội địa... phục vụ phát triển kinh tế của đất nước cũng như tại khu vực. Do vậy, hàng năm nhà nước phải đầu tư kinh phí để nạo vét, duy tu đảm bảo chuẩn tắc luồng và đảm bảo an toàn giao thông thủy, góp phần tiêu thoát lũ cũng như đáp ứng nhu cầu vận tải thủy. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách nhà nước còn hạn chế không đủ kinh phí thực hiện nạo vét duy tu, duy trì chuẩn tắc thiết kế của luồng; do đó chủ trương thực hiện xã hội hóa theo hình thức nạo vét thông luồng, kết hợp tận thu sản phẩm nạo vét, không sử dụng ngân sách nhà nước là cần thiết.
Thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hiệu lực thực thi chính sách pháp luật về khoáng sản (thay thế Chỉ thị 29/2008/CT-TTg ngày 02/10/2008 về tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khảo sát, khai thác, vận chuyển, tiêu thụ cát, sỏi lòng sông) và thực tế quản lý, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 69/2015/TT-BGTVT ngày 9/11/2015 của Bộ Giao thông vận tải quy định về nạo vét luồng đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm (thay thế Thông tư số 37/2013/TT-BGTVT ngày 24/10/2013 của Bộ Giao thông vận tải quy định về nạo vét luồng đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm). Để dự án triển khai thực hiện cần có ý kiến chấp thuận chủ trương của địa phương, lập dự án theo quy định, có báo cáo đánh giá tác động môi trường được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và địa phương cho phép đăng ký sản phẩm tận thu.
Hiện nay, trên các tuyến sông đường thủy nội địa quốc gia nói chung và các tuyến trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng, cùng với một số dự án xã hội hóa nạo vét duy tu luồng đường thủy nội địa quốc gia còn có một số hoạt động liên quan đến khai thác cát sỏi lòng sông như khai thác mỏ do UBND cấp tỉnh/thành phố cấp phép, bên cạnh đó vẫn còn hiện tượng lợi dụng chủ trương trên để khai thác cát sỏi lòng sông trái phép gây hậu quả xấu đối với đất đai, môi trường, tài sản, bức xúc đối với người dân và dư luận.
Thực tế khi triển khai dự án xã hội hóa nạo vét luồng ĐTNĐ, gặp khó khăn nhất định trong kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án vì nạo vét luồng ở dưới nước, ranh giới khó xác định về phạm vi, bề rộng, chiều sâu nạo vét; việc giám sát của tư vấn giám sát ở một số dự án còn hạn chế; nhân lực giám sát của cơ quan quản lý dự án và lực lượng Thanh tra đường thủy còn mỏng, địa bàn rộng, khó khăn về kinh phí, trang thiết bị nên gặp khó khăn trong kiểm tra, giám sát; sự phối hợp giữa cơ quan, đơn vị của địa phương và cơ quan quản lý dự án trong việc quản lý, giám sát thực hiện tại một số dự án chưa chặt chẽ, hiệu quả đạt được chưa cao.
Đối với dự án xã hội hóa nạo vét duy tu kết hợp tận thu sản phẩm trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 1861/BGTVT-KCHT ngày 27/2/2017 gửi UBND Thành phố Hà Nội; trong đó yêu cầu Cục Đường thủy nội địa Việt Nam kết thúc hợp đồng thực hiện dự án đối với 06 dự án đã hết hạn hợp đồng đang dừng thi công và giao Cục Đường thủy nội địa Việt Nam làm việc với Sở Giao thông vận tải Hà Nội để hoàn thiện quy chế phối hợp về quản lý nhà nước các dự án nạo vét duy tu luồng đường thủy nội địa quốc gia trên địa bàn Thành phố để Bộ Giao thông vận tải ký kết quy chế phối hợp với UBND Thành phố.
Theo quy định tại Thông tư số 69/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015, thì trước khi triển khai thi công phải có biên bản kiểm tra, xác nhận hiện trạng khu vực thực hiện dự án, hiện trạng hai bên bờ sông giữa nhà đầu tư với chính quyền địa phương và Cục Đường thủy nội địa Việt Nam.
Trong điều khoản hợp đồng thực hiện dự án cũng quy định nhà đầu tư phải chịu mọi chi phí khắc phục, sửa chữa nếu thi công không đúng hồ sơ thiết kế được phê duyệt và làm ảnh hưởng đến các công trình ngoài phạm vi của dự án theo quy định của pháp luật; trường hợp nếu có thông tin phản ánh của địa phương, người dân cũng như cơ quan báo chí, truyền thông liên quan đến nội dung trên, Bộ GTVT chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ kiểm tra, xác minh kiên quyết xử lý theo quy định.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án, Bộ Giao thông vận tải cũng yêu cầu Cục Đường thủy nội địa Việt Nam:
- Rà soát các dự án nạo vét luồng đường thủy nội địa, vùng nước cảng, bến thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm. Xử lý nghiêm các vi phạm (nếu có) trong quá trình thực hiện theo quy định;
- Tăng cường công tác kiểm tra định kỳ, đột xuất, giám sát các dự án đang thi công, xử lý nghiêm các vi phạm; hàng tháng họp rà soát các dự án xã hội hóa nạo vét duy tu kết hợp tận thu sản phẩm, kiểm soát chặt chẽ việc thi công dự án của nhà đầu tư; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, chấn chỉnh, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt là thi công không đúng phạm vi chuẩn tắc đã được phê duyệt; sử dụng phương tiện thiết bị không đúng số lượng, chủng loại đã đăng ký. Nâng cao vai trò của tư vấn giám sát dự án, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chức năng của địa phương nơi có dự án đi qua trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện dự án của nhà đầu tư.
- Xử lý nghiêm, kể cả chấm dứt dự án đối với những nhà đầu tư cố tình trì hoãn tiến độ, thi công không đúng phạm vi, chuẩn tắc được phê duyệt, những nhà đầu tư lợi dụng chủ trương xã hội hóa của nhà nước.
- Tiếp tục tạm dừng cấp mới dự án xã hội hóa nạo vét tận thu tới khi hoàn thiện các thể chế, chính sách.
309. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Cử tri và nhân dân tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, các ngành hữu quan và chính quyền các địa phương cần tiếp tục thực hiện các giải pháp quyết liệt, cụ thể, thường xuyên nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự, an toàn giao thông; xử lý nghiêm cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhưng có tiêu cực, dung túng, bao che cho các đối tượng vi phạm; siết chặt hơn nữa công tác quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; đồng thời tiếp tục kiên quyết xử lý nghiêm những đơn vị xây dựng, thi công không bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 2443/BGTVT-ATGT - ngày 10/3/2017)
1. Các kết quả đã đạt được trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, kiểm soát tải trọng phương tiện, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm, tiêu cực, xử lý đơn vị thi công không đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình giao thông
a) Về thực hiện các giải pháp nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự, an toàn giao thông
Trong những năm 2015, 2016 và đầu năm 2017 với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các Bộ, ngành và chính quyền địa phương triển khai quyết liệt, thực hiện đồng bộ các giải pháp để xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật gây mất trật tự, an toàn giao thông, nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông. Trong quá trình triển khai thực hiện đã có nhiều phát sinh khó khăn vướng mắc, trong đó có bất cập về mức phạt, đối tượng vi phạm và thẩm quyền xử lý vi phạm của một số lực lượng thực thi nhiệm vụ. Do đó, Bộ GTVT đã phối hợp Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các Bộ ngành, địa phương kịp thời tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (có hiệu lực từ ngày 01/8/2016) thay thế Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP. Nghị định mới đã bổ sung, sửa đổi một số nội dung cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và khắc phục triệt để những tồn tại, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP.
b) Về hoạt động kiểm tra, chấn chỉnh cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nhằm kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, dung túng, bao che cho các đối tượng vi phạm
- Trong năm 2015, 2016, Bộ Giao thông vận tải đã thành lập các Đoàn kiểm tra tại một số địa phương về hoạt động nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Qua kết quả kiểm tra, Bộ GTVT đã yêu cầu các Sở GTVT tăng cường chỉ đạo lực lượng Thanh tra khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực chuyên ngành và công tác quản lý nội bộ, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố kiện toàn lại cơ cấu tổ chức của lực lượng Thanh tra theo quy định tại Nghị định số 57/2013/NĐ-CP nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của lực lượng Thanh tra GTVT;
- Đã yêu cầu các lực lượng Thanh tra ngành GTVT xây dựng và thực hiện quy định về quy trình quản lý nội bộ, phân công, phân cấp trách nhiệm cụ thể trong việc quản lý nội bộ, trong đó tập trung triển khai thực hiện các biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực có thể xảy ra trong hoạt động nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành. Mặt khác qua công tác kiểm tra, Bộ GTVT đã chấn chỉnh kịp thời lực lượng thanh tra, công chức thanh tra chuyên ngành chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, không sách nhiễu phiền hà; thực hiện các quy định về phòng chống tiêu cực trong thực thi công vụ. Cụ thể, đã yêu cầu Thanh tra Bộ ban hành quy chế, quy định tổ chức kiểm tra công tác nội bộ, mở sổ sách theo dõi, quản lý ấn chỉ, biên bản vi phạm hành chính, biên lai xử phạt vi phạm hành chính; lập sổ tiếp nhận thông tin, sổ theo dõi cuộc thanh tra, kiểm tra, sổ theo dõi xử lý vi phạm hành chính theo quy định.
- Đã thực hiện luân chuyển cán bộ, công chức để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính theo chức năng nhiệm vụ được giao nhằm chống việc bảo kê, bao che cho các đối tượng vi phạm; tăng cường các biện pháp kiểm tra trong nội bộ đơn vị, thiết lập nhiều hình thức tiếp nhận thông tin để kịp thời phát hiện, xử phạt nghiêm đối với hành vi vi phạm nội bộ cũng như đối với các đối tượng có vi phạm về lĩnh vực chuyên ngành; thực hiện đúng trình tự, thủ tục, quy trình xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Thông tư số 02/2014/TT-BGTVT và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Thanh tra Bộ GTVT; công khai đường dây nóng của đơn vị để người dân kịp thời phản ánh các tiêu cực của lực lượng thanh tra, kiểm tra, công chức thanh tra trong khi thi hành công vụ.
c) Xử lý nghiêm những đơn vị xây dựng, thi công không bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình giao thông
- Trong những năm gần đây, Bộ GTVT đã chỉ đạo Thanh tra Bộ triển khai công tác thanh tra, kiểm tra tại một số công trình, dự án trọng điểm trong ngành GTVT. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra lực lượng Thanh tra Bộ GTVT đã phát hiện và xử lý nghiêm những đơn vị xây dựng, thi công không đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình cụ thể: Bộ GTVT đã yêu cầu Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông ra thông báo tới các Chủ đầu tư rà soát, hạ thang điểm đánh giá, thận trọng xem xét đánh giá năng lực hoặc yêu cầu không xem xét chỉ định thầu một số đơn vị do yếu kém về năng lực, thi công không đảm bảo tiến độ, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện hợp đồng hoặc tham gia dự án để ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngoài ra, Bộ GTVT đã có Quyết định cấm không cho một số đơn vị tham gia đấu thầu các dự án trong ngành GTVT trong thời gian 2 năm do vi phạm trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng theo quy định;
- Ngoài ra, Bộ GTVT đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đơn vị do thi công công trình trên đường bộ đang khai thác không bố trí đầy đủ biển báo theo quy định; yêu cầu Ban QLDA thay thế các Tư vấn giám sát do thực hiện công tác Tư vấn giám sát không đúng chuyên môn theo chứng chỉ hành nghề giám sát thi công được cấp. Đối với các dự án có gói thầu có nguy cơ không đảm bảo tiến độ quy định theo hợp đồng, Bộ GTVT đã yêu cầu các Ban QLDA, nhà đầu tư, nhà thầu thi công, tư vấn rà soát, kiểm tra, lập tiến độ thi công chi tiết, có kế hoạch tài chính, huy động máy móc thiết bị để đảm bảo tiến độ dự án theo yêu cầu.
d) Kết quả triển khai thực hiện Siết chặt công tác quản lý hoạt động vận tải
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Bộ Giao thông vận tải ban hành nhiều văn bản để:
- Siết chặt hoạt động kinh doanh vận tải như: Công văn số 15391/BGTVT-VT ngày 18/11/2015 về việc triển khai thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tại Văn bản số 469/UBATGTQG ngày 11/11/2015 của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia; Công văn số 1853/BGTVT-VT ngày 23/02/2016 về việc đôn đốc thực hiện nhiệm vụ sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Bính Thân 2016; Văn bản chỉ đạo tăng cường tuyên truyền và triển khai thực hiện các quy định đối với xe ô tô kinh doanh vận tải hàng hóa có trọng tải thiết kế từ 07 tấn đến dưới 10 tấn...Trong đó đã yêu cầu Sở Giao thông vận tải các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường tuyên truyền, chỉ đạo lực lượng Thanh tra phối hợp với Cảnh sát giao thông và lực lượng chức năng tại địa phương kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Giao thông đường bộ; đặc biệt là việc chở quá số người quy định, tình trạng “xe dù, bến cóc”. Cho đến nay, hầu hết các Sở Giao thông vận tải tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo lực lượng Thanh tra phối hợp với Cảnh sát giao thông và lực lượng chức năng tại địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật Giao thông đường bộ; đặc biệt là việc chở quá số người quy định, tình trạng “xe dù, bến cóc” và đạt được kết quả ban đầu.
e) Về kết quả kiểm soát tải trọng xe
Sau gần 02 năm đồng loạt và bằng nhiều biện pháp thực hiện công tác kiểm soát tải trọng xe, đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp vận tải, chủ xe, lái xe, chủ hàng chấp hành quy định về vận tải đường bộ; tình trạng xe ô tô chở hàng quá tải đã giảm nhiều, góp phần bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, giảm tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông:
- Bộ GTVT tham mưu cho Chính phủ hoặc trực tiếp ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành để triển khai công tác kiểm soát tải trọng phương tiện:
+ Tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt;
+ Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1885/QĐ-TTg ngày 30/9/2016 phê duyệt Quy hoạch tổng thể Trạm kiểm tra tải trọng xe trên đường bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
+ Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện;
+ Ban hành Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 của Bộ Giao thông vận tải về việc tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tải trọng trong thời gian tới;
- Tổng cục Đường bộ Việt Nam, các cục chuyên ngành, các địa phương đã tích cực vào cuộc triển khai Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 của Bộ Giao thông vận tải nhằm tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tải trọng; thường xuyên báo cáo kết quả triển khai công tác kiểm soát tải trọng về Bộ Giao thông vận tải; kiến nghị, đề xuất các biện pháp tăng cường công tác kiểm soát tải trọng trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, Thanh tra Bộ GTVT trực tiếp kiểm tra về tải trọng phương tiện và thực hiện các quy định về xếp hàng hóa lên phương tiện đường bộ tại đầu mối bốc xếp hàng hóa trọng điểm (cảng, bến, nhà ga và các đầu mối xếp hàng) trên địa bàn một số tỉnh, thành phố; phối hợp với Thanh tra Bộ Công an, Cục Cảnh sát Giao thông thành lập các Đoàn liên ngành kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng phương tiện đường bộ tại các Sở Giao thông vận tải và lực lượng liên ngành tại Trạm kiểm tra tải trọng; kịp thời có văn bản chấn chỉnh các Sở GTVT và kiến nghị UBND các địa phương để phối hợp chỉ đạo tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện;
- Kết quả theo thống kê từ hệ thống quản lý Trạm kiểm tra tải trọng xe, cho thấy:
Từ ngày 21/12/2015 đến hết 20/11/2016 các Trạm KTTTX trên cả nước và lực lượng Thanh tra các Sở Giao thông vận tải, Thanh tra giao thông của các Cục quản lý đường bộ khu vực sử dụng cân xách tay đã tiến hành kiểm tra 605.055 xe, phát hiện 42.327 xe vi phạm (39.168 xe vi phạm về tải trọng, 3159 xe vi phạm kích thước thùng hàng) chiếm tỷ lệ 7% trên tổng số xe kiểm tra và 28.906 xe vi phạm khác; đã xử lý 750 xe cắt thùng thành trực tiếp, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 334.533 triệu đồng, tước 14.048 Giấy phép lái xe.
Tuy nhiên, hiện nay một số địa phương vẫn còn tình trạng xe chở hàng quá tải, xe có kích thước thùng hàng vượt quá quy định lưu thông trên đường bộ, có tình trạng lực lượng kiểm soát tải trọng xe để xe quá tải lọt qua chốt, trạm kiểm soát tải trọng xe.
2. Các giải pháp triển khai thực hiện trong thời gian tới để bảo đảm trật tự an toàn giao thông, siết chặt hơn nữa công tác quản lý hoạt động kinh doanh vận tải, kiểm soát tải trọng phương tiện, kiểm tra xử lý vi phạm, xử lý đơn vị thi công không đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình giao thông
Tiếp tục thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ được giao tại Công điện số 1966/CĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ; Công điện số 16/CĐ-TTg ngày 07/01/2015 về việc tiếp tục chấn chỉnh và xử lý triệt để tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng cho phép; Công điện số 18/CĐ-UBATGTQG ngày 14 tháng 05 năm 2016 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp siết chặt quản lý kinh doanh vận tải, kiểm soát tải trọng phương tiện trên đường bộ đặc biệt triển khai quyết liệt các giải pháp đã đề ra tại Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện và các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo có liên quan của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
- Tiếp tục tổ chức triển khai xây dựng các Trạm kiểm soát tải trọng xe cố định trên hệ thống đường bộ giai đoạn đến năm 2020 theo Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1885/QĐ-TTg ngày 30/9/2016; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ chính sách đặc thù đối với lực lượng làm công tác kiểm soát tải trọng xe;
- Tích cực tuyên truyền về công tác tăng cường quản lý kinh doanh vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện; Chú trọng các giải pháp ngăn chặn vi phạm từ gốc; tăng cường sử dụng dữ liệu thiết bị giám sát hành trình xe ô tô, kiểm soát tải trọng phương tiện từ khâu xếp hàng lên xe; kiểm soát chặt việc thực hiện quy định về kích thước thành, thùng xe; giám sát, xử phạt nghiêm việc sử dụng phương tiện không bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định.
- Chỉ đạo lực lượng Thanh tra giao thông chủ trì, phối hợp với lực lượng Cảnh sát trật tự và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan tập trung kiểm soát tải trọng xe chặt chẽ ngay từ các cơ sở đầu nguồn hàng; tiếp tục thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các đơn vị xây dựng, thi công không đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; thông báo tới các Chủ đầu tư rà soát, hạ thang điểm đánh giá, thận trọng năng lực hoặc yêu cầu không xem xét chỉ định thầu một số đơn vị do yếu kém về năng lực, thi công không đảm bảo tiến độ, chất lượng; cấm không cho đơn vị tham gia đấu thầu các dự án trong ngành GTVT trong thời gian nhất định do vi phạm trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng theo quy định...
- Đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục chỉ đạo Sở Giao thông vận tải, Công an địa phương và các Sở, ban, ngành liên quan thực hiện công tác kiểm tra tải trọng xe trên các tuyến đường thuộc địa bàn địa phương; kiểm soát tải trọng xe chặt chẽ ngay từ cơ sở đầu nguồn hàng; bố trí kinh phí và các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho các lực lượng làm công tác kiểm soát tải trọng xe trên địa bàn.
- Tăng cường kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức trực tiếp làm nhiệm vụ kiểm soát tải trọng xe trên tuyến để nâng cao hiệu quả công tác, phòng ngừa sai phạm.
310. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Cử tri đề nghị việc thi công các tuyến đường, thực hiện các dự án, cần tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân trước khi thực hiện dự án để không làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 2226/BGTVT-CQLXD - ngày 6/3/2017)
Quá trình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng giao thông gồm nhiều bước, được chia thành các giai đoạn chính gồm: (i) Giai đoạn chuẩn bị dự án: nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư; xác định vị trí, địa điểm, quy mô, mục tiêu đầu tư; phương án huy động vốn; thời hạn, tiến độ triển khai; nhu cầu về lao động; đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án; lập, thẩm định, phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình...; (ii) Giai đoạn thực hiện dự án gồm các công việc giải phóng, bàn giao mặt bằng; chuẩn bị mặt bằng, rà phá bom mìn; khảo sát xây dựng; lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán; lựa chọn nhà thầu; thi công xây dựng công trình; vận hành, thử nghiệm... và (iii) Giai đoạn kết thúc đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Ở mỗi giai đoạn của dự án, việc liên hệ và lấy ý kiến của địa phương để thống nhất triển khai thực hiện là không thể thiếu, cụ thể trong giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng là việc xác định hướng tuyến, lấy ý kiến về thiết kế cơ sở, phương án triển khai thi công....; trong giai đoạn thực hiện dự án đầu tư, Bộ Giao thông vận tải luôn chỉ đạo các đơn vị thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của địa phương và người dân khu vực phạm vi dự án trong quá trình thực hiện các nội dung công tác như khảo sát địa hình, địa chất; khảo sát công trình hạ tầng kỹ thuật, điều tra thủy văn, giải phóng mặt bằng, hệ thống thoát nước và thủy lợi tưới tiêu phục vụ sản xuất, đảm bảo giao thông trong quá trình thi công... để hạn chế tối đa ảnh hưởng của việc xây dựng công trình đến công tác sản xuất, sinh hoạt, đi lại của nhân dân nơi dự án đi qua. Thời gian qua, các dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông đã thực hiện tốt việc lấy ý kiến và phối hợp với chính quyền nhân dân địa phương để triển khai thực hiện đảm bảo đồng bộ, chất lượng của dự án và không ảnh hưởng đến dân sinh.
Tuy nhiên, do đặc thù các dự án xây dựng công trình giao thông trải qua nhiều địa phương, phạm vi ảnh hưởng rộng hơn rất nhiều so với phạm vi thực hiện dự án nên việc lấy ý kiến của nhân dân trên toàn khu vực đôi khi chưa được toàn diện. Thời gian tới Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục chỉ đạo Chủ đầu tư các dự án xây dựng công trình giao thông làm tốt hơn nữa công tác phối hợp với địa phương để đảm bảo hạn chế tối đa ảnh hưởng của quá trình triển khai dự án tới đời sống sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trong khu vực phạm vi dự án.
311. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Để thực hiện Đề án phát triển bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định số 1166/QĐ-TTg ngày 14/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ). Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm, tạo cơ chế ưu đãi huy động nguồn vốn từ các nguồn viện trợ, vốn vay ODA, sử dụng nguồn thu phí bảo đảm hàng hải còn dư... để đầu tư nâng cấp, hoàn thiện hệ thống báo hiệu hiện có, thiết lập mới hệ thống báo hiệu ở các vùng biển và các tuyến luồng hàng hải phù hợp với yêu cầu của hệ thống cảng biển; thiết lập hệ thống báo hiệu hàng hải vô tuyến; đầu tư đồng bộ các cơ sở sản xuất phụ trợ, các cơ sở điều hành quản lý, trang thiết bị, phương tiện phục vụ quản lý và sản xuất... nhằm hiện đại hóa lĩnh vực bảo đảm an toàn hàng hải, sớm thiết lập được một môi trường hàng hải điện tử để đảm bảo an toàn tuyệt đối và thuận lợi cho tàu thuyền hoạt động trên biển.
Trả lời: (Tại Công văn số 3893/BGTVT-KHĐT - ngày 13/4/2017)
- Thời gian qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, sự phối hợp, hỗ trợ của các Bộ, ngành, địa phương, kết cấu hạ tầng ngành hàng hải đã được đầu tư, phát triển những bước cơ bản, đã và đang triển khai những công trình trọng điểm bao gồm hai cảng cửa ngõ quốc tế, phía Bắc tại Lạch Huyện, phía Nam tại Cái Mép - Thị Vải, phát triển các cảng biển, luồng hàng hải tại các vùng kinh tế trọng điểm như cảng Quảng Ninh, cảng Đà Nẵng, cảng Dung Quất, luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu, luồng tàu vào cảng Cửa Lò… Các công trình đều đã phát huy hiệu quả, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hàng hải nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
- Với mục tiêu nâng cấp, hoàn thiện hệ thống báo hiệu hiện có, thiết lập mới hệ thống báo hiệu ở các vùng biển và các tuyến luồng hàng hải phù hợp với yêu cầu của hệ thống cảng biển; thiết lập hệ thống báo hiệu hàng hải vô tuyến; đầu tư đồng bộ các cơ sở sản xuất phụ trợ…, Bộ GTVT đã xây dựng đề án Phát triển bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 1166/QĐ-TTg ngày 14/07/2011, kinh phí thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn viện trợ, tài trợ của các tổ chức nước ngoài thông qua hợp tác quốc tế, vốn ODA (nếu có), vốn phát triển doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Thời gian qua, Bộ GTVT đã chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án và đã đạt được một số kết quả, cụ thể như từng bước đầu tư xây dựng mới và cải tạo nâng cấp được một số công trình đèn biển, báo hiệu dẫn luồng; cơ sở quản lý sản xuất của các đơn vị thành viên, trạm đèn trạm luồng; hoàn thành việc xây dựng hệ thống bình đồ luồng hàng hải điện tử ENC cho tất cả các tuyến luồng hàng hải được giao quản lý; lắp đặt thử nghiệm hệ thống nhận dạng tự động AIS trên các báo hiệu hàng hải trên luồng Hải Phòng, Đà Nẵng; thiết lập và vận hành thử nghiệm hệ thống quan trắc và cung cấp số liệu khí tượng thủy văn tự động trên luồng Hải Phòng; đầu tư thiết bị và phần mềm cho lĩnh vực khảo sát thủy đạc như máy đo sâu đa chùm tia (multi-beam), máy định vị vệ tinh thời gian thực RTK; đầu tư hệ thống quản lý hành hải tàu biển (VTS) trên một số tuyến luồng quan trọng: Hải Phòng, Sài Gòn – Vũng Tàu, Vũng Tàu – Thị Vải, Đà Nẵng; thực hiện các công tác chuẩn bị cho việc đầu tư bổ sung, cải tạo nâng cấp các phương tiện, thiết bị như tàu quản lý luồng, tàu tiếp tế kiểm tra các đảo xa bờ...
- Khó khăn lớn nhất trong quá trình triển khai thực hiện Đề án là nguồn vốn ngân sách nhà nước hạn hẹp, trần nợ công tăng cao nên khó có thể dùng vốn vay ODA, nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp còn hạn chế. Do nguồn vốn ngân sách khó khăn, vừa qua, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất sử dụng nguồn phí bảo đảm hàng hải vượt thu để thực hiện một số dự án quan trọng, cấp bách của ngành hàng hải. Trên cơ sở được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đang triển khai công tác rà soát để xây dựng danh mục cụ thể các dự án quan trọng, cấp bách để thực hiện.
- Thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo Cục Hàng hải Việt Nam và các Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Bắc, miền Nam căn cứ điều kiện thực tế của sản xuất của doanh nghiệp để lựa chọn các chương trình, dự án quan trọng, cấp bách để tập trung bố trí vốn đầu tư, từng bước hiện đại hóa trang, thiết bị bảo đảm an toàn hàng hải nhằm phát huy hơn nữa công tác đảm bảo an toàn hàng hải, công tác tìm kiếm cứu nạn, đáp ứng trách nhiệm của quốc gia thành viên của tổ chức hàng hải quốc tế, yêu cầu phát triển bền vững cũng như đảm bảo yêu cầu quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển; tiếp tục rà soát các cơ chế chính sách về thuế, phí, các thủ tục hành chính tại các cảng biển, nâng cao hiệu quả khai thác các tuyến luồng hàng hải để thu hút lượt tàu, chủng loại tàu và cỡ tàu lớn hơn nữa cập cảng; huy động thêm các nguồn lực khác trong đầu tư phát triển hạ tầng bảo đảm an toàn hàng hải.
312. Cử tri tỉnh Hải Phòng kiến nghị: Từ năm 2015, Bộ Giao thông vận tải đã triển khai thực hiện thí điểm cơ chế nạo vét duy tu tuyến luồng hàng hải Hải Phòng theo hình thức khoán gọn (theo Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thực hiện cơ chế nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải do Bộ Giao thông vận tải quản lý). Việc thí điểm cơ chế nạo vét khoán gọn trên tuyến luồng hàng hải Hải Phòng đang thực hiện rất hiệu quả, tiết kiệm nhiều chi phí, giảm bớt thủ tục và thời gian thực hiện... Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục được thực hiện việc nạo vét khoán gọn tuyến luồng Hải Phòng trong những năm tới và triển khai mở rộng cho các tuyến luồng trọng điểm khác để đạt được hiệu quả cao trong việc khai thác luồng và tiết kiệm kinh phí của Nhà nước (việc thí điểm sẽ kết thúc vào cuối năm 2016).
Trả lời: (Tại Công văn số 3337/BGTVT-KCHT - ngày 30/3/2017)
1. Qua thời gian thực hiện Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc cơ chế thí điểm thực hiện cơ chế nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải do Bộ Giao thông vận tải quản lý, Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức sơ kết đánh giá kết quả thực hiện và có văn bản số 14130/BGTVT-KCHT ngày 28/11/2016 gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013; trong đó, đề nghị Thủ tướng Chính phủ kết thúc thí điểm và cho áp dụng chính thức trình tự thủ tục thực hiện duy tu nạo vét các tuyến luồng hàng hải theo quy định tại Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 221/TTg-CN ngày 14/02/2017 chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải và các cơ quan liên quan tổ chức xây dựng dự thảo Nghị định ban hành Quy chế quản lý hoạt động nạo vét duy tu các tuyến luồng hành hải và vùng nước cảng biển, trình Chính phủ; trong khi chờ ban hành Nghị định thì năm 2017, tiếp tục thực hiện cơ chế nạo vét duy tu các tuyến luồng hàng hải theo quy định tại Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Để đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn, Bộ Giao thông vận tải đã có Tờ trình số 2587/TTr -BGTVT ngày 14/3/2017 gửi Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 73/2013/QĐ-TTg ngày 27/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thực hiện cơ chế nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải do Bộ Giao thông vận tải quản lý. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang tổ chức xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định quy định hoạt động nạo vét duy tu luồng hàng hải, khu nước, vùng nước hàng hải, trong đó sẽ đề xuất cơ chế khoán gọn duy tu nạo vét đối với những tuyến luồng hàng hải quan trọng như luồng Hải Phòng, luồng Sài Gòn - Vũng Tàu.
313. Cử tri tỉnh Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh, từ đầu năm 2016 đến nay, hoạt động vận chuyển hàng hóa quá tải trọng tái diễn với mức độ thường xuyên, nghiêm trọng hơn, để tránh các chốt trạm kiểm tra, phương tiện quá tải chạy vào các tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ, đường giao thông nông thôn và các tuyến đê điều ven sông dẫn đến các tuyến đường này bị xuống cấp nghiêm trọng; bên cạnh đó, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp ngày càng phức tạp, giá cước vận tải xuống quá thấp, đẩy doanh nghiệp vận tải quay trở lại chở quá tải để cạnh tranh. Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy định về tải trọng; ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng bảo kê, tiêu cực trong công tác xử lý vi phạm quy định pháp luật về giao thông đường bộ.
Trả lời: (Tại Công văn số 3140/BGTVT-ATGT - ngày 27/3/2017)
Thực hiện Công điện số 95/CĐ-TTg ngày 10/01/2013 và Công điện số 1966/CĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và tăng cường kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ; Ngày 21/11/2013, liên Bộ Công an – Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA về phối hợp thực hiện kiểm soát, xử lý vi phạm chở hàng vượt quá tải trọng của xe ô tô, đồng loạt thực hiện từ ngày 01/4/2014 trên phạm vi cả nước. Sau hơn 02 năm thực hiện (tính đến ngày 01/8/2016), trên cả nước tình hình vi phạm về tải trọng phương tiện đã được kiểm soát, giảm trên 92% so với thời điểm trước khi thực hiện Kế hoạch 12593/KHPH-BGTVT-BCA. Tuy nhiên, từ ngày 01/9/2016 đến nay, sau khi kết thúc Kế hoạch liên Bộ, tình hình phương tiện vận tải vi phạm về kích thước thùng xe và chở quá tải trọng cho phép tại một số tỉnh, thành phố đang có diễn biến phức tạp và có chiều hướng tái diễn trở lại.
Theo báo cáo của Sở GTVT Hải Phòng, trong năm 2016, Trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động trên các tuyến quốc lộ đã kiểm tra 35.939 xe, phát hiện 196 xe vi phạm, phạt tiền 2.053.700.000 đồng; trên các tuyến đường tỉnh và đường huyện, xử phạt 291 trường hợp xe quá tải, phạt tiền 1.814.700.000 đồng…
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe, kịp thời ngăn chặn tái diễn và tiến tới chấm dứt tình trạng xe ô tô vi phạm tải trọng, cơi nới kích thước thùng xe tại các địa phương. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã và đang triển khai các giải pháp như sau:
1. Bộ GTVT đã ban hành: Kế hoạch số 12885/KH-BGTVT ngày 01/11/2016 về việc tiếp tục tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện; văn bản số 15235/BGTVT-ATGT ngày 20/12/2016 về việc tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện để triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CTTg của Thủ tướng Chính phủ.
2. Phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, tổ chức 02 Đoàn Kiểm tra công tác kiểm soát tải trọng phương tiện đường bộ tại một số địa phương (đã triển khai tại Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên và Hải Dương trong tháng 11 năm 2016).
3. Đã phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia để chỉ đạo và đề nghị Ban An toàn giao thông các tỉnh (trong đó có Ban an toàn giao thông thành phố Hải Phòng) triển khai các nội dung sau đây:
- Báo cáo và đề nghị Tỉnh ủy và Thành ủy các tỉnh, thành phố ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”, trong đó có nhiệm vụ về kiểm soát tải trọng phương tiện.
- Tham mưu, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố triển khai thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng phương tiện giao thông, trong đó phân công và xác định trách nhiệm cụ thể của lực lượng Công an, Giao thông vận tải và Chính quyền địa phương các cấp, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
- Chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải:
+ Quản lý, vận hành các Trạm kiểm tra tải trọng xe do Bộ Giao thông vận tải trang bị; kiện toàn, tổ chức lại hoạt động của Trạm kiểm tra tải trọng xe phù hợp với tình hình của địa phương; củng cố và nâng cao năng lực của lực lượng Thanh tra giao thông;
+ Tổ chức ký lại cam kết (theo mẫu mới) về không chở hàng quá trọng tải, không xếp hàng hóa lên xe quá trọng tải cho phép của các doanh nghiệp, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cam kết đã ký và xử lý nghiêm các đơn vị vận tải, đầu mối hàng hóa vi phạm cam kết về xếp hàng hóa lên xe ô tô không vượt quá tải trọng cho phép.
- Chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố:
+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của ngành Giao thông vận tải trong việc triển khai thực hiện công tác kiểm soát tải trọng phương tiện trên địa bàn; thực hiện đối với cả các tuyến đường bộ (đường quốc lộ, đường tỉnh và đường huyện) qua địa bàn địa phương;
+ Ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng bảo kê, tiêu cực trong công tác xử lý vi phạm các quy định pháp luật về giao thông đường bộ;
+ Chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát thực hiện trao đổi kịp thời, đầy đủ thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động vận tải, đặc biệt là hoạt động kiểm soát tải trọng phương tiện cho các cơ quan chức năng của ngành Giao thông vận tải để phục vụ công tác quản lý và xử lý vi phạm.
314. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh, tháng 7/2014 khi triển khai kiểm soát tải trọng phương tiện, Chính phủ đã cho phép chưa xử lý vi phạm tải trọng đầu trục. Theo quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, kể từ 01/01/2017 sẽ tiếp tục xử phạt vi phạm tải trọng đầu trục. Cử tri cho rằng, với thực trạng hoạt động kinh doanh vận tải của các doanh nghiệp và việc kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua các cảng, bốc xếp hàng hóa lên xe như hiện nay, các doanh nghiệp vận tải không thể kiểm soát được hàng hóa bốc xếp trên xe có đúng tải trọng hay không. Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tiếp tục chưa xử lý vi phạm tải trọng đầu trục; hoặc chỉ xử lý vi phạm tải trọng trục khi vượt quá trên 20% tải trọng trục cho phép khi xe chở đúng tải trọng theo quy định tại Giấy Chứng nhận kiểm định và tải trọng cầu đường (hiện này Nghị định số 46/2016/NĐ-CP cho phép vượt đến 20%).
Trả lời: (Tại Công văn số 3119/BGTVT-ATGT - ngày 27/3/2017)
1. Về sự cần thiết phải kiểm soát tải trọng trục xe:
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, mạng lưới đường bộ nước ta đã được đầu tư, phát triển vượt bậc, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng của quốc gia; khi các công trình đường bộ hoàn thành đưa vào khai thác, công tác bảo đảm an toàn giao thông, duy trì tuổi thọ công trình đường bộ là một yêu cầu cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn rất khó khăn.
Theo các quy chuẩn và tiêu chuẩn hiện hành, kết cấu áo đường được thiết kế theo tải trọng trục xe tính toán tiêu chuẩn; do đó, khi tuyến đường bị khai thác với tải trọng trục xe thực tế cao hơn tải trọng trục xe tính toán tiêu chuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây ra hư hỏng kết cấu áo đường và gây mất an toàn giao thông; vì vậy, để bảo đảm an toàn giao thông trong khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông và duy trì tuổi thọ công trình đường bộ, việc triển khai kiểm soát tải trọng trục xe là cần thiết, phù hợp với các cơ sở khoa học và quy định hiện hành.
2. Các quy định của pháp luật liên quan đến kiểm soát tải trọng trục xe:
Hiện nay, các quy định về quản lý, kiểm soát tải trọng trục xe đã được các cơ quan chức năng ban hành đầy đủ, cụ thể:
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã quy định: người điều khiển phương tiện phải tuân thủ các quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ và chịu sự kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ và công bố về tải trọng, khổ giới hạn của quốc lộ (tại khoản 1 và khoản 3 Điều 28);
Thực hiện Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành các quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ và công bố về tải trọng, khổ giới hạn của quốc lộ tại các Thông tư trước đây và hiện nay là Thông tư số 46/2015/TT-BGTVT ngày 07 tháng 09 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ; lưu hành xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn, xe bánh xích trên đường bộ; vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng; giới hạn xếp hàng hóa trên phương tiện giao thông đường bộ khi tham gia giao thông trên đường bộ.
Liên quan đến các quy định xử lý hành vi vi phạm về tải trọng trục xe, tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trước đây và hiện nay là Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt đã mô tả chi tiết và quy định cụ thể mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về tải trọng trục xe (tại điểm d khoản 3, khoản 4, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 33 của Nghị định). Trong quá trình xây dựng Dự thảo Nghị định, các quy định này cũng đã được Bộ Giao thông vận tải xin ý kiến các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời nhận được sự thống nhất về phương án triển khai thực hiện như trong Nghị định đã quy định.
Ngoài ra, để chỉ dẫn cho người tham gia giao thông biết và thực hiện các quy định về tải trọng trục xe khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ (QCVN41:2016/BGTVT) đã có mã biển số P.116 “hạn chế tải trọng trên trục xe” và hướng dẫn vị trí cắm cụ thể biển này trên hệ thống đường bộ.
3. Công tác tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vận tải:
Trong thời gian vừa qua để tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện tốt mục tiêu về kiểm soát tải trọng xe, Bộ Giao thông vận tải đã báo cáo và kiến nghị Chính phủ sửa đổi nội dung quy định về xử phạt đối với hành vi “điều khiển xe ô tô mà tải trọng trục xe (bao gồm cả hàng hóa xếp trên xe, người được chở trên xe) vượt quá tải trọng cho phép của cầu đường” từ mức quá 10% đã bị xử phạt (quy định tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP) nâng lên mức vượt quá trên 20% mới bị xử phạt và cho phép kéo dài lộ trình bắt đầu thực hiện việc xử phạt đối với hành vi vi phạm này kể từ ngày 01/01/2017 (quy định tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP); đồng thời, Bộ Giao thông vận tải cũng đã có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cho phép cải tạo điều chỉnh vị trí chốt kéo, trục, cụm trục của sơ mi rơ moóc để tăng khối lượng toàn bộ, khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông mà vẫn bảo đảm quy định về tải trọng trục xe (tại văn bản số 16360/BGTVT-VT ngày 22/12/2014 và văn bản số 2066/BGTVT-KHCN ngày 29/02/2016).
315. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị ban hành văn bản quy định về hàng rào kỹ thuật đối với việc sản xuất và nhập khẩu ô tô để hạn chế việc nhập khẩu các phương tiện giá rẻ, chất lượng thấp nhằm giảm mật độ giao thông đối với phương tiện chất lượng thấp, trong khi hạ tầng giao thông không đáp ứng kịp việc tăng của phương tiện giao thông.
Trả lời: (Tại Công văn số 3504/BGTVT-KHCN - ngày 4/4/2017)
Căn cứ Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa thì việc xây dựng quy định, Quy chuẩn kỹ thuật và tổ chức thực hiện quản lý chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ, trong đó có ô tô vận tải là trách nhiệm của Bộ Giao thông vận tải. Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với phương tiện cơ giới đường bộ và các Thông tư quy định đối với việc kiểm soát chất lượng ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu, cụ thể là:
1. Hệ thống các Tiêu chuẩn và Quy chuẩn:
- QCVN 09:2015/BGTVT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với ô tô (thay thế QCVN 09:2011/BGTVT);
- QCVN 11:2015/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với rơ moóc và sơ mi rơ moóc (thay thế QCVN 11:2011/BGTVT);
- QCVN 86:2015/BGTVT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải mức 4 đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới
- Và các QCVN về phụ tùng xe ô tô.
Hệ thống các Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được Bộ Giao thông vận tải xây dựng trên cơ sở các Quy định, Tiêu chuẩn của Châu Âu (ECE, EEC), có tham khảo tiêu chuẩn của các nước có nền công nghiệp ô tô tiên tiến như Nhật Bản, Hàn quốc và các nước ASEAN đảm bảo phù hợp với trình độ công nghệ chế tạo ô tô tại Việt Nam và phù hợp với kết cấu hạ tầng giao thông. Hiện nay Bộ GTVT đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật làm căn cứ kiểm tra, chứng nhận chất lượng chung cho cả xe sản xuất, lắp ráp và xe nhập khẩu.
2. Hệ thống các Thông tư quy định việc kiểm tra ô tô:
- Thông tư số 30/2011/TT-BGTVT ngày 15/4/2011 của Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới sản xuất, lắp;
- Thông tư số 54/2014/TT-BGTVT ngày 20/10/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2011/TT-BGTVT.
- Thông tư số 31/2011/TT-BGTVT ngày 15/4/2011 của Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu;
- Thông tư số 55/2014/TT-BGTVT ngày 20/10/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 31/2011/TT-BGTVT
Hiện nay Bộ GTVT đang trong quá trình hoàn thiện để ban hành Thông tư thay thế thông tư về kiểm tra chất lượng xe nhập khẩu đã ban hành.
Với hệ thống các văn bản hiện thời đã đáp ứng được yêu cầu quản lý về chất lượng ô tô và là hàng rào kỹ thuật đối với việc sản xuất và nhập khẩu ô tô để hạn chế việc nhập khẩu các phương tiện giá rẻ, chất lượng thấp nhằm giảm mật độ giao thông, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và hài hòa với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
316. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Chính phủ điều chỉnh, bổ sung Nghị định 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô và Nghị đinh 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về điều kiện kinh doanh vận tải đường thuỷ nội địa cho phù hợp với thực tế.
Trả lời: (Tại Công văn số 2450/BGTVT-VT - ngày 25/4/2017)
1. Về nội dung kiến nghị điều chỉnh, bổ sung Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô cho phù hợp với thực tế.
Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô (Tờ trình số 11101/TTr-BGTVT ngày 22 /9/2016; số 15686/BC-BGTVT ngày 29/12/2016). Văn phòng Chính phủ đã lấy ý kiến của các Bộ, cơ quan liên quan; các Bộ, cơ quan đã có ý kiến gửi Văn phòng Chính phủ, bao gồm: Tư pháp (văn bản số 4001/BTP-PLDSKT ngày 9/11/2016; số 286/BTP-PLDSKT ngày 20/9/2016), Công an (văn bản số 2757/BCA-C67 ngày 11/11/2016), Kế hoạch và Đầu tư (văn bản số 9694/BKHĐT-KCHTĐT ngày 18/11/2016), Công Thương (văn bản số 10734/BCT-KH ngày 10/11/2016), Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (văn bản số 6950/UBND-ĐT ngày 05/12/2016), Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản số 7063//UBND-ĐT ngày 06/12/2016), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (văn bản số 3020/PTM-TC ngày 04/11/2016), Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam (văn bản số 094/HHVT-TV ngày 03/11/2016) về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.
Trên cơ sở ý kiến góp ý của các Bộ, cơ quan và địa phương nêu trên, tại Văn bản số 1826/VPCP-CN ngày 01/03/2017 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã giao nhiệm vụ: “giao Bộ GTVT nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp tại văn bản nêu trên; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, trình Chính phủ trong quý II năm 2017.”
Hiện tại, Bộ GTVT đang thực hiện xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô để trình Chính phủ trong tháng 06/2017.
2. Về nội dung đề nghị điều chỉnh, bổ sung Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh vận tải đường thủy nội địa cho phù hợp với thực tế.
Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 được xây dựng căn cứ vào Luật Giao thông đường thủy nội địa ngày 15 tháng 6 năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy nội địa ngày 17 tháng 6 năm 2014 và quy định của pháp luật có liên quan. Trong quá trình xây dựng Nghị định nêu trên, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải đường thủy nội địa và giảm thiểu thủ tục hành chính, các cơ quan đã thống nhất không quy định việc cấp giấy phép kinh doanh vận tải đường thủy nội địa; đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị liên quan đẩy mạnh công tác hậu kiểm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm đối với các trường hợp không đủ các điều kiện kinh doanh vận tải đường thủy nội địa.
Quá trình triển khai Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 cho đến nay, cơ bản các địa phương đều thực hiện thuận lợi. Các kiến nghị liên quan đến thực hiện Nghị định số 110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh vận tải đường thủy nội địa đang được Bộ GTVT tiếp tục tổng hợp.
317. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Sớm xem xét bố trí đèn tín hiệu giao thông tại Ngã tư Kỳ Lý – Quốc lộ 1A (huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam); đèn tín hiệu giao thông tại ngã tư Hương An (điểm giao nhau giữa Quốc lộ 1A mới với đường Quốc lộ 1A cũ và đường vào chợ Hương An, phía Bắc cầu Hương An, huyện Quế Sơn), vì đây là 2 điểm đen thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông làm chết người;
Trả lời: (Tại Công văn số 3377/BGTVT - KCHT - ngày 31/3/2017)
- Việc bổ sung đèn tín hiệu giao thông đảm bảo an toàn nút giao Ngã tư
Kỳ Lý tại Km989+35.91, QL.1 (nút giao giữa Quốc lộ 1 với đường tỉnh ĐT.615, tỉnh Quảng Nam), cùng với các nút giao trên tuyến Quốc lộ 1 với đường ĐT.610, đường tỉnh ĐT.613, đường Nguyễn Văn Linh và đường Khu công nghiệp đi cảng Tam Hiệp đã được Bộ GTVT chấp thuận chủ trương tại Thông báo số 356/TB-BGTVT ngày 22/4/2015. Bộ GTVT cũng đã có văn bản số 4109/BGTVT-ĐTCT ngày 14/4/2016 đôn đốc nhà đầu tư dự án là Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP khẩn trương triển khai thực hiện. Hiện tại, trên cơ sở kết quả thẩm định thiết kế bản vẽ thi công của Bộ GTVT, Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP đã phê duyệt Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, dự toán các công trình nêu trên và đang chuẩn bị triển khai thi công. Bộ GTVT sẽ tiếp tục đôn đốc Tổng công ty XDCT giao thông 5-CTCP sớm hoàn thành bổ sung đèn tín hiệu giao thông đảm bảo an toàn tại các nút giao nêu trên với QL.1.
- Đối với nút giao Ngã tư Hương An - Km964+235 (nút giao giữa QL.1 với QL.1 cũ và đường vào chợ Hưng An, phía Bắc cầu Hương An): Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục ĐBVN phối hợp cùng với Ban ATGT tỉnh Quảng Nam, Sở GTVT tỉnh Quảng Nam và các bên liên quan tiến hành kiểm tra hiện trường và xem xét và thống nhất phương án tổ chức giao thông, bố trí đèn tín hiệu giao thông hợp lý bảo đảm an toàn giao thông đồng thời nâng cao năng lực khai thác của tuyến QL.1.
318. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Ý kiến cử tri kiến nghị về việc thực hiện thu phí bảo trì đường bộ đối với xe gắn máy theo Nghị định số 18/2012/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều địa phương của tỉnh Quảng Trị đã triển khai thực hiện nghiêm túc việc thu phí bảo trì đường bộ đối với xe gắn máy. Tuy nhiên, ngày 20/4/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/2016/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 56/2014/NĐ-CP ngày 30/5/2014 và Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 về Quỹ bảo trì đường bộ. Theo đó, môtô hai bánh, môtô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự (gọi chung là xe máy) đã không còn là đối tượng thu phí sử dụng đường bộ như quy định trong Nghị định 56 và Nghị định 18. Việc quy định trên là không công bằng đối với các địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện, đề nghị rút kinh nghiệm trong việc ban hành các quy định nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ tạo thuận lợi trong thực thi nhiệm vụ của địa phương.
Trả lời: (Tại Công văn số 2721/BGTVT-TC - ngày 16/3/2017)
Bộ GTVT cám ơn sự quan tâm của cử tri tỉnh Quảng Trị về vấn đề liên quan đến ngành GTVT và ghi nhận về đề nghị rút kinh nghiệm trong việc nghiên cứu ban hành hoặc tham mưu trình các cấp có thẩm quyền ban hành các quy định nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, tạo thuận lợi trong thực thi nhiệm vụ của địa phương. Đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Trị nêu trên, Bộ GTVT xin được báo cáo như sau:
Việc tham mưu trình Chính phủ ban hành quy định về thu phí bảo trì đường bộ đối với xe gắn máy tại Nghị định số 18/2012/NĐ-CP đã được triển khai nghiên cứu, lấy ý kiến tham gia đầy đủ của các Bộ, ngành có liên quan và địa phương với mục tiêu đảm bảo việc thu phí bảo trì đường bộ công bằng đối với các phương tiện có tham gia giao thông.
Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện, qua công tác rà soát và đánh giá thực hiện thu phí bảo trì đường bộ, Bộ GTVT đã báo cáo, đề nghị Chính phủ cho phép tạm dừng thu phí sử dụng đường bộ đối với xe môtô và đã được Chính phủ đã chấp thuận ban hành quy định không thực hiện thu phí sử dụng đường bộ đối với các loại xe tương tự (gọi chung là xe máy) để phù hợp và giảm khó khăn trong việc thực hiện cho tất cả các địa phương nói chung với các lý do như sau:
- Chế tài xử phạt đối với các trường hợp không kê khai, nộp phí còn chưa khả thi, khó kiểm soát, vì thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực phí, lệ phí do các cơ quan thuế, thanh tra Sở chuyên ngành, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện, không phải do cơ quan công an.
- Việc triển khai công tác thu của một số quận, huyện, thị xã chưa thực sự tích cực, chưa đồng bộ, chưa thống nhất từ khâu quản lý số lượng xe mô tô, đến khâu tổ chức thu phí, chưa có giải pháp triệt để khắc phục tình trạng không nộp thuế.
- Công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện nghĩa vụ của các địa phương còn hạn chế, chưa quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân thực hiện công tác thu phí.
- Việc thu phí phụ thuộc chủ yếu cào ý thức tự giác của người dân, trong khi đó ý thức tự giác của một bộ phận người dân còn chưa cao, việc triển khai thu phí tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa còn khó khăn.
- Tính đặc thù của phương tiện là xe mô tô, môtô là tài sản di động, không bắt buộc phải đăng kiểm lưu hành, người sử dụng xe không bắt buộc là chủ sở hữu nên rất khó kiểm soát và thu phí, đặc biệt trường hợp chủ xe (sinh viên, lao động tự do...) đăng ký ở địa phương này nhưng mang xe đến địa phương khác sử dụng. Mặt khác, có sự di chuyển số lượng lớn các xe mô tô giữa các địa phương với nhau, dẫn đến công tác lập và tổ chức thu phí đối với số lượng xe mô tô này rất khó khăn.
319. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Việc thu phí giao thông đường bộ đoạn đường BOT của tập đoàn Trường Thịnh tại địa bàn thôn Phước Mỹ xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong đã gây bất bình trong nhân dân: đến mùa bà con thu hoạch lúa vận chuyển bằng xe bán tải chở lúa từ đồng ngoài vào xóm trong cách 500m nhưng xe đi qua trạm vé phải trả phí; gia đình có người bệnh đi xe taxi vào bệnh viện ngoài trả tiền cước xe người dân phải trả thêm khoản tiền mua vé lượt qua và về ; việc vận chuyển vật liệu để xây dựng nhà ở phải trả tiền phí vé… kiến nghị Bộ Giao thông và Vận tải có chính sách quy định việc thu phí giao thông đường bộ nên xem xét cho các phương tiện của người dân trong huyện có đặt trạm thu phí được miễn hoặc giảm tiền mua vé khi qua trạm thu phí để nhân dân bớt phải gánh chịu thêm phần kinh phí này.
Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Nhiều cử tri kiến nghị về việc xử phạt xe không chính chủ tại Nghị định 171/2013/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 71 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Theo Nghị định này, bắt đầu từ ngày 01/01/2017 sẽ tiến hành xử phạt người sở hữu phương tiện xe máy không chính chủ. Quy định đó gây rất nhiều khó khăn cho người đang sử dụng xe không chính chủ, vì nhiều trường hợp mua lại xe đã lâu nay không thể tìm được chủ cũ; đặc biệt là đối với các hộ nghèo, cả gia đình phải dùng chung một chiếc xe máy để đi lại. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng nghiên cứu, xem xét lại tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, nhất là người nghèo.
Trả lời: (Tại Công văn số 3417/BGTVT-TC- ngày 31/3/2017)
Trong những năm vừa qua, nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn hẹp, nhiều dự án phải tạm dừng, giãn tiến độ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nhằm thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Nhiều dự án quan trọng, cấp bách đều không thể cân đối được nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư. Trong bối cảnh đó, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngành GTVT cùng các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã tập trung, nỗ lực thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, bước đầu thành công trong việc huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển những dự án quan trọng, cấp bách này.
Cho đến nay, ngành GTVT đã và đang triển khai thực hiện hoàn thành nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT. Hình thức đầu tư BOT hiện là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vì ngoài việc khắc phục sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư công thì đây là hình thức đầu tư có sự giám sát chặt chẽ của nhiều bên (nhà đầu tư, cơ quan nhà nước, ngân hàng và người sử dụng), không làm tăng nợ công trong điều kiện nợ công đang ở mức cao như hiện nay, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của người dân thông qua các tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng. Đây cũng là giải pháp góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu các lĩnh vực vận tải, nhằm năng cao năng suất, hạ giá thành vận tải, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu ùn tắc, tai nạn giao thông... Việc huy động thêm được các nguồn lực ngoài ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông dẫn đến năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông đã được cải thiện đáng kể. Sau khi các dự án hoàn thành đã được Bộ GTVT chấp thuận cho phép triển khai thu phí hoàn vốn cho dự án theo quy định. Việc huy động các nguồn lực trong nước để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là một hướng đi đúng trong việc hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần phát huy nội lực, tăng cường sử dụng sản phẩm, hàng hóa, công nghệ và dịch vụ trong nước để giảm chi phí sản xuất, giảm nhập siêu... có thể nói rằng, việc huy động nguồn lực đầu tư tư nhân là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã mang lại hiệu quả trên mọi phương diện.
Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị về nội dung kiến nghị và rất mong cử chi cũng như Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị chia sẻ khó khăn chung của đất nước. Về đề nghị cho các phương tiện của người dân trong huyện có trạm thu phí được miễn hoặc giảm tiền mua vé khi qua trạm:
- Trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại Km763+800, Quốc lộ 1 trước đây thu hoàn vốn cho Dự án BOT mở rộng Quốc lộ 1 đoạn TP.Đồng Hà - TX.Quảng Trị. Thực hiện đề án mở rộng Quốc lộ 1, Thủ tướng Chính phủ và Bộ, UBND tỉnh thống nhất đầu tư Dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km741+170 - Km756+705, tỉnh Quảng Trị và sử dụng Trạm thu phí Km763+800 Quốc lộ 1 với mức giá cơ bản thống nhất với các trạm thu phí trên Quốc lộ 1.
- Triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Bộ GTVT đã chủ động với Bộ Tài chính thống nhất đề xuất với Thủ tướng Chính phủ giảm phí đối với các trạm có thể giảm được. Tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH ngày 02/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất của 02 Bộ và giao Bộ GTVT rà soát các dự án BOT đã ký để đàm phán, thống nhất với nhà đầu tư về việc điều chỉnh mức phí, lộ trình thực hiện đối với từng dự án BOT. Đến thời điểm này, Bộ GTVT và Nhà đầu tư đã thống nhất và đề xuất và được Bộ Tài chính chấp thuận giảm mức phí đối với Nhóm 4 và 5 mỗi loại 20.000 đồng/lượt theo đúng phương án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số 6370/VPCP-KTTH.
- Hiện nay, Dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km741+170 - Km756+705, tỉnh Quảng Trị đang được Bộ GTVT xem xét thỏa thuận quyết toán. Trên cơ sở số liệu quyết toán, lưu lượng thực tế của Dự án, Bộ GTVT rà soát lại phương án tài chính, trong trường hợp giảm giá vẫn đảm bảo khả năng hoàn vốn đầu tư của 02 dự án, Bộ GTVT sẽ đàm phán với Nhà đầu tư rà soát, cập nhật tính toán lại phương án tài chính để xem xét, quyết định việc giảm giá theo đề xuất của UBND tỉnh Quảng Trị.
320. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Một số hộ dân tại xã Tân An huyện Tánh Linh tỉnh Bình Thuận có đất bị thu hồi để làm đường quốc lộ 55 đến nay chưa nhận được tiền đền bù. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải tiếp tục chi trả tiền đền bù cho các hộ dân này.
Trả lời: (Tại Công văn số 3498/BGTVT-CQLXD - ngày 4/4/2017)
Về các nội dung kiến nghị của cử tri nêu trên, Bộ GTVT trả lời như sau:
1. Dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 55 nối dài tỉnh Bình Thuận từ Km96+300 - Km205+140 được Bộ GTVT quyết định đầu tư, Sở GTVT Bình Thuận làm chủ đầu tư dự án, dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng cuối năm 2015.
Trong đó, đoạn tuyến qua địa bàn huyện Tánh Linh có tổng chiều dài khoảng 44 km, đi qua các xã: Đức Thuận, Đức Bình, La Ngâu, Đồng Kho và thị trấn Lạc Tánh, với tổng số 888 trường hợp hộ gia đình, cá nhân và tổ chức nằm trong phạm vi giải tỏa mặt bằng. Huyện Tánh Linh đã hoàn thành công tác giải tỏa mặt bằng, chi trả tiền cho dân, bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công kịp tiến độ thi công công trình. Các hộ dân trên toàn tuyến đi qua địa bàn huyện Tánh Linh không có khiếu nại, khiếu kiện gì về việc chưa chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng.
2. Theo thông tin do Sở GTVT Bình Thuận cung cấp, huyện Tánh Linh không có xã Tân An; tuyến Quốc lộ 55 qua địa bàn tỉnh Bình Thuận có đi qua địa bàn phường Tân An thuộc thị xã La Gi, đoạn tuyến này không nằm trong dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 55 nêu trên mà chỉ sửa chữa cục bộ, gia cố lề trong phạm vi nền, mặt đường hiện hữu, không ảnh hưởng đến đất của người dân.
321. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay các buồng vệ sinh của tàu hỏa đều xả thải trực tiếp xuống đường ray do không có bồn chứa tạm hoặc tự hủy; gây ô nhiễm môi trường, nhất là đối với các khu dân cư hai bên tuyến đường sắt Bắc Nam. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Tổng cục đường sắt Việt Nam có giải pháp khắc phục.
Trả lời: (Tại Công văn số 3203/BGTVT-MT - ngày 28/3/2017)
Trước đây, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã lắp đặt thiết bị vệ sinh tự hoại trên 93 toa xe khách. Đến hết tháng 10/2015, thực hiện chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải về việc chấm dứt xả trực tiếp chất thải sinh hoạt trên các tuyến đường sắt, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã lắp đặt thêm 821 thiết bị vệ sinh tự hoại cho toàn bộ các toa xe khách trên tuyến đường sắt Thống nhất. Qua đó, chất lượng phục vụ hành khách trên các tuyến tàu đã được nâng cao đồng thời giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đối với các khu vực dân cư dọc tuyến đường sắt.
Tiếp thu ý kiến phản ánh của cử tri, Bộ Giao thông vận tải đã tiếp tục chỉ đạo Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam và các cơ quan, đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện các nội dung sau đây:
1. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác vệ sinh môi trường và khử mùi trên các toa xe khách trong đó lưu ý hơn tại các toa ngồi, nơi có số lượng hành khách tập trung nhiều và những dịp cao điểm (ngày lễ, tết, nghỉ hè…).
2. Nghiên cứu trang bị đầy đủ thiết bị vệ sinh tự hoại trên các đoàn tàu khách trên tất cả các tuyến đường sắt quốc gia và phương án xử lý đối với các toa xe có buồng vệ sinh quá chật hẹp.
3. Rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết bị vệ sinh tự hoại trên các toa xe khách để xây dựng kế hoạch lắp đặt, cải tạo, bố trí cho phù hợp.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn hành khách sử dụng các trang thiết bị trên tàu để đảm bảo vệ sinh chung.
5. Định kỳ báo cáo tình hình khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị vệ sinh tự hoại đã được lắp đặt.
6. Rà soát các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và các quy định liên quan đến phương tiện giao thông đường sắt về nội dung bảo vệ môi trường để đề xuất sửa đổi, bổ sung, bảo đảm kiểm soát chặt chẽ hoạt động của thiết bị vệ sinh tự hoại.
7. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn công tác bảo vệ môi trường cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có liên quan, bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật.
322. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện nay công tác phục vụ hành khách của ngành đường sắt Việt Nam vẫn chưa tốt, hệ thống tàu hỏa quá cũ, khổ đường ray nhỏ, nhất là việc di chuyển lên xuống cầu của người tàn tật, người già trẻ em rất khó khăn do cửa lên tàu quá cao, trong khi đó không có bục thang để hỗ trợ. Cử tri đề nghị ngành đường sắt Việt Nam xem xét nâng cao chất lượng phục vụ và có biện pháp khắc phục hạn chế nêu trên trong thời gian đến.
Trả lời: (Tại Công văn số 3050/BGTVT - VT - ngày 27/3/2017)
1. Về hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt
Đường sắt Việt Nam có lịch sử phát triển trên 130 năm, các tuyến đường chính được xây dựng theo công nghệ Pháp theo khổ đường 1.000 mm và hình thành mạng lưới cơ bản của Đường sắt Việt Nam được sử dụng cho đến ngày nay. Việc nâng cấp, cải tạo mở rộng khổ đường sắt hiện tại lên đường sắt có khổ rộng 1.435 mm đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư rất lớn và không khả thi về mặt kỹ thuật, vì vậy hiện nay vẫn duy trì khai thác vận tải chủ yếu trên các tuyến đường sắt có khổ đường 1000 mm.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, trong nhiều năm vừa qua Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã triển khai các dự án về nâng cấp cơ sở hạ tầng đường sắt, cụ thể một số dự án tiêu biểu như sau:
- Nâng cao an toàn cầu đường sắt trên tuyến Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh (44 cầu).
- Dự án lập lại trật tự hành lang an toàn giao thông đường bộ - đường sắt theo Quyết định 1856/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
- Dự án kiên cố hóa đường sắt miền Trung.
- Dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.
Kết quả: các dự án hoàn thành và đưa vào khai thác góp phần nâng cao an toàn chạy tàu, nâng cao tải trọng và tốc độ chạy tàu, rút ngắn hành trình các tàu trên tuyến, đồng thời, một số nút giao cắt đồng mức cũng được xóa bỏ, đảm bảo an toàn trong quá trình đi lại hai bên đường sắt của người dân địa phương.
2. Về phương tiện vận tải đường sắt
Trong những năm vừa qua Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã tập trung nâng cấp cải tạo đóng mới nhiều đầu máy, toa xe nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, đảm bảo cung cấp đủ sức kéo phục vụ vận tải hành khách và hàng hóa. Cụ thể trong giai đoạn từ 2005 - 2011 đã đóng mới 798 toa xe, mua và lắp ráp 61 đầu máy. Song song với việc đầu tư đóng mới đầu máy toa xe, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam cũng nghiên cứu cải tiến công nghệ nhằm nâng cao chất lượng các chủng loại đầu máy, toa xe và thay thế cải tạo các động cơ đầu máy cũ, công suất thấp lạc hậu bằng động cơ đầu máy mới.
Năm 2016 Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã nâng cấp và đóng mới 15 toa xe với vật liệu Composite đưa vào khai thác trên tuyến Sài Gòn- Nha Trang được dư luận đánh giá cao. Trong thời gian tới Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam có kế hoạch đầu tư đóng mới 02 ram xe chạy tuyến Hà Nội – Vinh và sẽ tiếp tục nghiên cứu chế tạo, đóng mới các toa xe mới hiện đại để thay thế dần các toa xe cũ không đảm bảo chất lượng phục vụ hiện có.
3. Về công tác phục vụ hành khách
Trong những năm vừa qua, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, các Công ty vận tải đường sắt đã nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, cụ thể như sau:
- Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã hợp tác với Tập đoàn FPT xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống bán vé điện tử nhằm cung cấp cho hành khách nhiều tiện ích mới bao gồm: cung cấp thông tin giờ tàu, giá vé, đặt chỗ, mua vé qua website, hợp tác với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Ngân hàng VIB cung cấp dịch vụ thu tiền vé tàu tại 2.544 bưu cục của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam và 53 điểm giao dịch của ngân hàng VIB.
- Các Công ty vận tải đã thực hiện gia tăng các dịch vụ tiện ích phục vụ hành khách như: cấp phát báo, nước uống và khăn lạnh miễn phí, phát các chương trình giải trí, chương trình truyền hình được chọn lọc, tổ chức bán quà lưu niệm, sản phẩm thiết yếu, đặc sản vùng miền phục vụ nhu cầu của hành khách, phối hợp với các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng chăm sóc khách hàng cho đội ngũ nhân viên làm công tác phục vụ.
Chất lượng phục vụ hành khách đã được nâng cao, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại trong công tác phục vụ hành khách như: thái độ phục vụ của nhân viên trên tàu, chất lượng vệ sinh trên tàu, dưới ga, giá vé kém linh hoạt, chưa có kế hoạch dài hạn để khách hàng chủ động trong công tác sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp lữ hành.Trong thời gian tới, các công ty vận tải đường sắt sẽ đưa ra nhiều phương án nhằm linh hoạt giá cước, giá vé, phù hợp với thị trường; đưa ra kế hoạch chạy tàu, bán vé dài ngày để hành khách chủ động trong công tác sản xuất kinh doanh và mua vé đi tàu. Chú trọng hơn nữa đến công tác giáo dục, đào tạo nhân viên phục vụ trên tàu, dưới ga để nâng cao hơn nữa về nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ chăm sóc khách hàng của nhân viên phục vụ hành khách.
4. Về việc di chuyển lên xuống tàu của người tàn tật, người già, trẻ em
Hiện nay, tại ga Hà Nội và ga Sài Gòn đã được đầu tư ke ga cao và các trang thiết bị để phục vụ hành khách lên, xuống tàu, đã có thang cuốn và cầu vượt để phục vụ hành khách đi lại đảm bảo an toàn, một số vị trí đã có đường dành riêng cho người tàn tật (xe lăn đi lại), đồng thời tại các ga có đông hành khách đều bố trí cửa vé ưu tiên phục vụ người tàn tật, người cao tuổi. Hành khách là người tàn tật, người cao tuổi, phụ nữ có thai, trẻ em khi lên xuống tàu đều được nhân viên trên tàu, dưới ga trợ giúp sắp xếp hành lý, chỗ ngồi thuận lợi.
Do nguồn kinh phí đầu tư có hạn, vì vậy các ga còn lại chưa được xây dựng ke cao, do đó việc lên, xuống tàu của hành khách còn bất cập, đặc biệt một số ga còn không có đủ đường ke hoặc có đường ke nhưng chiều dài ngắn làm cho hành khách lên xuống tàu rất khó khăn. Để từng bước cải thiện điều kiện phục vụ hành khách, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã triển khai lắp đặt thí điểm bục thang phục vụ hành khách tại ga Long Biên, tuy nhiên việc tổ chức sử dụng các bục thang cũng rất phức tạp và tăng nguy cơ mất an toàn chạy tàu, an toàn hành khách, vì vậy phương án lắp đặt bục thang hỗ trợ hành khách lên, xuống tàu tại các ga hiện nay chưa thực hiện được. Trong thời gian tới, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư từng bước để xây dựng tại các ga hệ thống ke cao, cầu vượt đường sắt, mái che, ke ga kết nối với phòng bán vé, chờ tàu, lối đi và các trang thiết bị phục vụ cho người tàn tật, người cao tuổi và luôn quán triệt nhân viên phục vụ hành khách phải ưu tiên hỗ trợ, giúp đỡ hành khách là người già, người tàn tật, trẻ em, phụ nữ có thai khi ra, vào ga và lên xuống tàu.
Hiện nay Bộ Giao thông vận tải đang dự thảo Bộ luật Đường sắt thay thế cho Luật Đường sắt năm 2005, dự kiến được Quốc hội thông qua và ban hành vào tháng 5/2017, trong đó có các quy định để Nhà nước tập trung nguồn vốn ngân sách dành cho phát triển đường sắt, đưa ra nhiều ưu đãi để tạo điều kiện thuận tiện cho việc thu hút các nguồn vốn từ công tác xã hội hóa đầu tư vào kết cấu hạ đường sắt, công nghiệp đường sắt, vận tải đường sắt nhằm hiện đại hóa và nâng cao năng lực khai thác tuyến đường sắt Bắc-Nam hiện có, đồng thời nghiên cứu để triển khai phương án xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao, đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa trên trục Bắc – Nam trong thời gian tới.
323. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri phản ánh tình trạng cấp bằng lái xe giả đang diễn ra, đề nghị có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
Trả lời: (Tại Công văn số 2192/BGTVT-TCCB - ngày 3/3/2017)
Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ có chất liệu bằng giấy đã được các cơ quan có thẩm quyền phát hành và cấp cho người dân sử dụng từ tháng 7 năm 2013 trở về trước. Quá trình sử dụng giấy phép lái xe bằng giấy đã bộc lộ nhiều bất cập như: lạc hậu, mức độ bảo mật không cao, dễ bị làm giả; dễ bị tẩy xóa, sửa đổi, dễ bị hư hỏng trong quá trình sử dụng; kích thước không phù hợp; không thuận tiện cho công tác quản lý, xử lý khi người lái xe vi phạm.
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao “Bộ Giao thông vận tải thực hiện việc đổi mới giấy phép lái xe; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về giấy phép lái xe thống nhất toàn quốc để phục vụ công tác quản lý, tra cứu, theo dõi vi phạm của người lái xe và trao đổi thông tin với các cơ quan chức năng” tại Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24/8/2011 và yêu cầu đổi mới để hội nhập Công ước Viên 1968 về giao thông đường bộ,Bộ Giao thông vận tải đã nghiên cứu, xây dựng đổi mới vật liệu sản xuất giấy phép lái xe bằng vật liệu PET., có độ bền cao hơn, không thấm nước, kích thước nhỏ gọn hơn trước và phù hợp Công ước Viên; tính an toàn, tính bảo mật cao.Khi chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET., các thông tin về người lái xe trong suốt quá trình từ đào tạo, sát hạch, các vi phạm khi hành nghề hoặc khi tham gia giao thông… đều được tích hợp trên cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép lái xe quốc gia, tạo thành một hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ đảm bảo việc truy cập, tra cứu nhanh chóng, tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu. Vì vậy, đã hạn chế tối đa việc làm giả giấy phép lái xe, việc phát hiện giấy phép lái xe giả được thực hiện dễ dàng thông qua một trong các phương pháp sau:
- Dễ dàng tra cứu hệ thống thông tin quản lý giấy phép lái xe thông qua trang mạng http://gplx.gov.vn hoặc nhắn tin đến số điện thoại tra cứu 0936083578 – 0936081778(có hướng dẫn tại trang mạng http://gplx.gov.vn), theo đó giấy phép lái xe thật có số giấy phép lái xe, số seri và tên người lái xe trùng nhau, kèm theo các thông tin về hạng, ngày cấp, ngày hết hạn, ngày trúng tuyển...; đối với lực lượng tuần tra, kiểm soát dễ dàng tra cứu tại chỗ thông qua phần mềm chuyên dụng được trang bị;
- Dùng kính soi phản chiếu ảnh (được trang bị cho cho lực lượng thanh tra và cảnh sát giao thông), đèn kiểm tra dùng tia cực tím hoặc thiết bị chuyên dụng;
Để khắc phục tình trạng một bộ phận người dân vẫn cố tình làm, sử dụng giấy phép lái xe giả, trong thời gian tớiBộ Giao thông vận tải tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp với ngành Công an trong việc tuần tra, kiểm soát, điều tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải cập nhật kịp thời các trường hợp vi phạm vào hệ thống thông tin quản lý giấy phép lái xe để không công nhận tính hợp pháp của giấy phép lái xe; tăng cường đào tạo kỹ năng phát hiện giấy phép lái xe giả cho các chuyên viên tại các điểm cấp đổi. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến cho người dân pháp luật về an toàn giao thông, trong đó có hành vi vi phạm và chế tài xử lý khi sử dụng giấy phép lái xe giả;phương phápphát hiện giấy phép lái xe giả để tránh bị kẻ xấu lợi dụng trục lợi do thiếu hiểu biết.
324. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Theo quy định tại Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT, ngày 20/10/2015 của Bộ Giao thông-Vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, Sở Giao thông vận tải có thẩm quyền cấp mới, cấp lại giấy phép đào tạo lái xe cho cơ sở đào tạo, gửi Tổng cục Đường bộ Việt Nam bản sao giấy phép đào tạo lái xe đã cấp kèm biên bản kiểm tra cơ sở đào tạo. Như vậy, sẽ gây khó khăn, tốn kém và mất thời gian cho người dân ở các huyện trên địa bàn tỉnh khi thực hiện cấp, đổi giấy phép lái xe, nhất là đối với xe môtô. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét có giải pháp điều chỉnh địa điểm cấp đổi giấy phép tại địa bàn huyện, sau đó sẽ tổng hợp chuyển về Sở Giao thông để thuận lợi và giảm thời gian đi lại của nhân dân.
Trả lời: (Tại Công văn số 2187/BGTVT-TCCB - ngày 3/3/2017)
1. Về quy định Sở Giao thông vận tải có thẩm quyền cấp mới, cấp lại giấy phép đào tạo lái xe cho cơ sở đào tạo lái xe, gửi Tổng cục Đường bộ Việt Nam bản sao giấy phép đào tạo lái xe đã cấp kèm biên bản kiểm tra cơ sở đào tạo
Quy định Sở Giao thông vận tải có thẩm quyền cấp mới, cấp lại giấy phép đào tạo lái xe cho cơ sở đào tạo lái xetại Thông tư 58/2015/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe là một trong các thủ tục hành chính được Bộ Giao thông vận tải thực hiện phân cấp cho địa phương để tạo thuận lợi cho người dân.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất và đáp ứng yêu cầu quản lý ngành, việc thực hiện báo cáo hoạt động cấp phép giúp cơ quan trung ương (Tổng cục Đường bộ Việt Nam được Bộ giao thông vận tải giao nhiệm vụ quản lý thống nhất về đào tạo lái xe trong phạm vi cả nước) thống kê, giám sát hoạt động cấp giấy phép đào tạo, đảm bảo ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề tiêu cực phát sinh đối với công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe tại các địa phương.
2. Về việc xem xét có giải pháp điều chỉnh địa điểm cấp đổi giấy phép lái xe cho người dân tại địa bàn huyện, sau đó sẽ tổng hợp chuyển về Sở GTVT để thuận lợi và giảm thời gian đi lại của nhân dân
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về việc cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, trong những năm qua Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe theo hướng cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính, đồng thời chỉ đạo các Sở Giao thông vận tải thực hiện nhiều biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người dân có nhu cầu đổi giấy phép lái xe gồm: Tuyên truyền, hướng dẫn bằng nhiều hình thức đa dạngđể người dân chủ động lựa chọn cách thức đổi giấy phép lái xe phù hợp nhưđến trực tiếp Sở Giao thông vận tải để làm thủ tục đổi giấy phép lái xe; sử dụng dịch vụ công đổi giấy phép lái xe mức độ 3; sử dụng dịch vụ tiếp nhận hồ sơ đổi giấy phép tạicác điểm Bưu điện.
Đến nay đã có 59/63 Bưu điện tỉnh, thành phố ký kết hợp đồng với các sở Giao thông vận tải triển khai thực hiện dịch vụ tiếp nhận hồ sơ và trả giấy phép lái xe tại các điểm phục vụ của Bưu điện. Trong đó, Sở Giao thông vận tải Long An đã phối hợp với Bưu điện tỉnh thực hiện tiếp nhận đổi giấy phép lái xe tại các điểm phục vụ của Bưu điện từ tháng 12/2015.
Trong thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn chi tiết hơn để người dân chủ động lựa chọn cách thức đổi giấy phép lái xe phù hợp.
325. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Lộ giới của đường cao tốc Long Thành – Bến Lức là 17m. Người dân trong khu vực lộ giới gặp nhiều khó khăn khi chuyển đất ở (vì diện tích đất còn lại sau khi trừ lộ giới rất ít), họ cũng không có điều kiện kinh tế để chuyển đi nơi khác. Đề nghị Nhà nước quan tâm, hỗ trợ cho đối tượng này.
Trả lời: (Tại Công văn số 2788/BGTVT-QLXD- ngày 14/3/2017)
Khi Nhà nước thu hồi đất ở vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được quy định tại Điều 79 của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013.
Trong trường hợp cử tri nêu, việc bồi thường được quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Theo đó, trường hợp phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền (địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì có thể bồi thường bằng đất ở). Còn trường hợp như trên mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư. Nếu địa phương có khó khăn về quỹ đất ở và nhà ở tái định cư, UBND tỉnh có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đề nghị hỗ trợ để giải quyết.