Khoa học, công nghệ đã góp phần trong phát triển kinh tế- xã hội
Theo báo cáo của Đoàn giám sát do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa hoc, Công nghệ và Môi trường, khoa học công nghệ đã từng bước tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến khu vực, góp phần nâng cao tăng trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đảm bảo an ninh và quốc phòng. Hoạt động nghiên cứu và phát triển đã tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, các sản phẩm chủ lực và xuất khẩu, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai, khai thác tiềm năng kinh tế biển.
Khẳng định khoa học và công nghệ đã góp phần trong phát triển kinh tế- xã hội thời gian qua, báo cáo giám sát nêu rõ, theo tính toán của Bộ Khoa học và Công nghệ, tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng dần trong những năm qua như năm 2011- 12,74%, năm 2012- 17,22% và năm 2013- 18,37%.Về đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng kinh tế, theo tính toán của Viện Năng suất Việt Nam, trong giai đoạn 04 năm 2011- 2014, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP trung bình là 25,96%, và có xu hướng tăng dần đều qua các năm. Riêng năm 2014, TFP đã có đóng góp tới 39,58% tăng trưởng GDP. Điều này cho thấy dưới tác động của tổng hợp các nhân tố, trong đó có khoa học và công nghệ, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vốn và lao động) đã được sử dụng hiệu quả hơn. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam đã liên tục được cải thiện. Năm 2015, Việt Nam đứng thứ 52 trên tổng số 141 nền kinh tế. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 3, chỉ sau Singapore và Malaysia (vượt qua Thái Lan). Ngoài ra các chỉ số về mức tăng số lượng công bố quốc tế trung bình hàng năm và số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ của Việt Nam cũng đều tăng qua các năm.
Điều này cho thấy khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội và chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, kết quả giám sát cũng cho thấy nhìn chung khoa học và công nghệ Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức, chưa thực sự là động lực phát triển đất nước và có nguy cơ tụt hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo Ảnh: Đình Nam
Về công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo
Cơ khí có vị trí rất quan trọng là cơ sở, động lực và cung cấp toàn bộ trang thiết bị cho cho các ngành công nghiệp khác phát triển như công nghiệp chế biến nông sản, giao thông vận tải, các trang thiết bị cho bảo vệ an ninh quốc phòng...
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, cả nước có khoảng 3.100 doanh nghiệp cơ khí, với 53.000 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 450 doanh nghiệp quốc doanh, 1.250 cơ sở sản xuất tập thể, 156 xí nghiệp tư doanh,... Khoảng 50% cơ sở sản xuất cơ khí chuyên chế tạo, lắp ráp, còn lại chủ yếu là các cơ sở sửa chữa. Nhu cầu về máy và thiết bị giai đoạn đến năm 2020 và những năm tiếp theo là khá lớn. Con số được dự báo hàng năm, về nhu cầu máy và thiết bị trong giai đoạn 2011- 2025 xấp xỉ 250 tỷUSD. Tuy nhiên, năng lực trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, dự kiến trung bình mỗi năm Việt Nam sẽ phải chi hàng chục tỷ USD để nhập khẩu máy móc, thiết bị.
Năm 2015, Việt Nam nhập khẩu máy móc, thiết bị với tổng giá trị 27,59 tỷ USD, trong khí đó, tổng giá trị xuất khẩu máy móc, thiết bị đạt 8,17 tỷ USD. Năng lực ngành cơ khí nước nhà mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu trong nước. Tình trạng chung của hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều thiếu vốn; công nghệ, thiết bị chế tạo còn lạc hậu, sản xuất còn manh mún, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về sản phẩm công nghệ cao; vốn ít, việc tiếp cận vốn của ngân hàng với lãi suất thấp hết sức khó khăn. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước mặc dù đầy đủ nhưng doanh nghiệp chỉ được hưởng lợi trên giấy tờ.
Công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, phụ kiện, phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, chế biến, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh, là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
Hiện nay, cả nước có khoảng 1.383 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chia làm 3 nhóm ngành sản xuất chính: cơ khí, điện tử, nhựa và cao su. So với tổng số 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước thì doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chỉ chiếm 0,03%. Hầu hết, nguyên vật liệu cho công nghiệp chế tạo phụ tùng và thiết bị phụ trợ phải nhập khẩu. Thực tế, tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số ngành trọng điểm như ôtô từ 20- 30%, da giày, dệt may trên 10%.... điều này dẫn đến hệ quả là giá trị gia tăng thấp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp kém.
Đoàn giám sát đánh giá, trong những năm qua, khoa học và công nghệ thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo đã được Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương quan tâm triển khai, đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, còn nhiều cơ chế chính sách về khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo chưa phù hợp thực tế. Việc tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách còn lúng túng, thiếu sự nhất quán và thường xuyên. Ngoài ra, các tổ chức khoa học và công nghệ trong công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo hoạt động hiệu quả chưa cao; công nghiệp hỗ trợ chưa được các tổ chức khoa học và công nghệ quan tâm đầu tư nghiên cứu đúng mức. Sự phối hợp giữa các đơn vị nghiên cứu trong ngành, lĩnh vực còn yếu.
Đề xuất Chính phủ cần có phương án tái cấu trúc ngành phù hợp
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học công nghệ thời gian qua, Đoàn giám sát kiến nghị nhóm giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng vững chắc, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đặc biệt là để phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo trong giai đoạn đến 2020 thì khoa học và công nghệ phải thực sự đóng vai trò là quốc sách hàng đầu, trở thành động lực tăng trưởng kinh tế. Một trong số đó là yêu cầu Chính phủ đánh giá tổng thể hiệu quảhoạt động khoa học và công nghệ để có phương án tái cấu trúc ngành phù hợp; gắn kết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ cho tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; ứng dụng khoa học và công nghệ với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động, sản xuất. Hằng năm, Chính phủ bố trí đủ NSNN cho khoa học và công nghệ và báo cáo Quốc hội việc đầu tư phát triển khoa học và công nghệ gồm đầu tư từ NSNN và nguồn ngoài NSNN.
Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và triển khai các chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, phân bổ NSNN cho khoa học và công nghệ, nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ, đẩy mạnh truyền thông để nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của khoa học và công nghệ đối với phát triển KT- XH của đất nước.
Rà soát, sắp xếp lại hệ thống các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; tập trung các nguồn lực để triển khai các định hướng phát triển khoa học và công nghệ chủ yếu phục vụ quốc phòng, an ninh và các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia; tăng cường giao các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ sử dụng NSNN cho tổ chức khoa học và công nghệ và doanh nghiệp để đưa nhanh vào ứng dụng; đẩy mạnh việc đặt hàng trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; tăng cường việc kết nối thông tin, cơ sở dữ liệu trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế.
Đối với ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình CNH, HĐH, Đoàn giám sát cũng đề nghị Chính phủ lựa chọn và xây dựng thí điểm doanh nghiệp tiên phong có đủ năng lực, tiềm lực để hỗ trợ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có quy mô lớn, các sản phẩm quốc gia thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo. Tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.