PGS.TS - ĐBQH BÙI HOÀI SƠN: CẦN KẾ THỪA, HOÀN THIỆN CÁC NGUYÊN TẮC CỦA ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI TỪNG GIAI ĐOẠN
ĐBQH NGUYỄN THỊ VIỆT NGA: ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM NĂM 1943 - ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGUỒN LỰC NỘI SINH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC
Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 được ví như tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa và cách mạng, có ý nghĩa khai sáng, mở đường cho cách mạng Việt Nam, nhất là lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, chúng ta phải đặt Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 vào bối cảnh lịch sử của nó để thấy được tính cách mạng, tính dẫn dắt, dẫn đường của Đề cương văn hóa Việt Nam đối với sự phát triển không chỉ của văn hóa mà còn của sự phát triển của đất nước trong một giai đoạn hết sức khó khăn.
Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời trong bối cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, khi nước nhà còn chìm trong bóng đêm nô lệ, nhân dân chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột, nhiều văn nghệ sĩ có tâm trạng chán nản, buông xuôi... Trước bối cảnh đó, đòi hỏi văn hóa Việt Nam cần có một sự thay đổi, thức tỉnh, một cuộc cách mạng, và Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 ra đời.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
Đề cương nhấn mạnh đến 3 thành tố đặc biệt quan trọng của văn hóa là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đảng cũng đã đề ra 3 nguyên tắc vận động để xây dựng nền văn hóa mới, đó là: Dân tộc, khoa học và đại chúng. Những thành tố và những nguyên tắc này đều có mối quan hệ biện chứng, thẩm thấu và bổ sung lẫn nhau để tạo nên một nền văn hóa mà tư tưởng thấm đẫm tinh thần dân tộc; học thuật phải mang tính khoa học, chống lại những gì phản tiến bộ, những thứ lạc hậu, bảo thủ, đồng thời không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nghệ thuật phải thấm đẫm tinh thần nhân dân (đại chúng), nghệ thuật thuộc về nhân dân, phản ánh tâm tư, tình cảm và những mong ước, khát vọng của nhân dân. Và những thành tố và những nguyên tắc ấy tạo ra sự thay đổi rất lớn về cả tư tưởng, học thuật và về cả nghệ thuật. Góp phần nâng cao tinh thần yêu nước, sức mạnh đoàn kết, từ đó để giúp cho chúng ta có được vũ khí tinh thần vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi.
Rõ ràng, tinh thần của Đề cương văn hóa Việt Nam với ba nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng đã hình thành nên một nền văn hóa mới là nền văn hóa cách mạng, thức tỉnh đội ngũ văn nghệ sĩ để họ dấn thân để tạo nên những thành tựu văn hoá, nghệ thuật là những ca khúc, bộ phim, các áng văn chương vẫn còn trường tồn với đất nước, những trang anh hùng ca đầy tự hào đến nay vẫn còn nguyên giá trị… Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là văn kiện lịch sử có giá trị quan trọng đối với cách mạng, đặt nền móng, có ý nghĩa soi đường cho sự vận động và phương hướng phát triển của nền văn hóa Việt Nam trong suốt 80 năm qua.
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ- Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Theo PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ- Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương: “Đề cương về văn hóa Việt Nam ngay từ khi ra đời đã khẳng định tư duy, tầm nhìn, trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta về cách mạng và văn hóa; như ngọn đèn soi rọi cho những người cộng sản và toàn dân nhìn thấy con đường mình đang đi và sẽ đi tới; động viên, thức tỉnh, dẫn đường giới trí thức, văn nghệ sĩ, những người nặng lòng với đất nước, dấn thân cùng Đảng Cộng sản Đông Dương để cứu nước, cứu dân; hăng hái tham gia mặt trận văn hóa, tư tưởng; không bi quan, dao động, không bị ru ngủ bởi luận điệu và luận thuyết sai trái, lừa gạt của chế độ phát xít, thực dân. Đề cương khẳng định: Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ (ngày 3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá, đó là diệt giặc dốt và giáo dục tinh thần cho nhân dân(4).
Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, ngày 25/11/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng; thể hiện rõ trong bức thư về “Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946.
Trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, cả dân tộc phải dồn sức chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24/11/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội với hơn 200 đại biểu tham dự. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Từ cách đặt vấn đề “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”, Người nhấn mạnh: “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ… Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình”. Người khẳng định một chân lý: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”.
Tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu “Đời sống mới” giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương về văn hoá của Đảng và Nhà nước ta. Từ ngày 16 - 20/7/1948, tại Việt Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai. Trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Người nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hoá ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân”.
Ngày 18/7/1948, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày Báo cáo quan trọng tại Hội nghị với tên gọi “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Báo cáo hệ thống hóa, cụ thể hoá và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương Văn hoá năm 1943, có giá trị như là cương lĩnh văn hoá của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Báo cáo nhấn mạnh 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa: 1) Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hoá cứu quốc; 2) Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ; 3) Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; 4) Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; 5) Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hoá thế giới; 6) Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
Ba ngày sau Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 - 25/7/1948 với hơn 80 văn nghệ sĩ từ các nẻo đường kháng chiến trong cả nước tham dự. Tại sự kiện này, Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hoá cứu quốc được thành lập năm 1943. Lãnh đạo Hội và Ban chấp hành của Hội ra mắt, với sự tham gia lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, Trưởng ban Tuyên truyền của Trung ương; đồng chí Tố Hữu được Trung ương giao trực tiếp tổ chức chỉ đạo công tác văn nghệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có những ý kiến chỉ đạo mang tính chiến lược về đường lối văn hóa, văn nghệ. Người nhấn mạnh và khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”; “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”; “Chính trị, kinh tế, văn hóa đều phải coi là quan trọng ngang nhau”. Ở thời kỳ ấy, một số hội nghị về văn hóa, văn nghệ được tổ chức để bàn thảo những vấn đề cấp bách đang đặt ra: Hội nghị văn nghệ bộ đội (4/1949), Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (9/1949), Hội nghị tranh luận sân khấu ở Việt Bắc (5/1950), Hội nghị cán bộ văn nghệ Nam Bộ (1/1951).
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, đồng bào, chiến sỹ miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, nhiều bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về văn hóa, văn nghệ được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, trong đó có Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi các Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (1957), lần thứ III (1962). Văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định đường lối xây dựng nền văn hoá có nội dung XHCN và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng CNXH, Đảng xác định văn hoá, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời và gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá, tư tưởng, xây dựng nền văn hoá XHCN mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên CNXH.
Sau ngày thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng (12/1976) xác định xây dựng con người mới, nền văn hoá mới; tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hoá phản động, độc hại. Đại hội V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung XHCN và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V nêu rõ nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá”. Trong giai đoạn 1986-1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc, toàn diện hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6/1991) xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) lần đầu đưa ra khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”, “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đó không chỉ là những văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.
Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị (khóa X) ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16/6/2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ...”.
Đại hội X của Đảng (4/2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X và XI của Đảng, đặc biệt, được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (sửa đổi, bổ sung năm 2011): “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã thảo luận và ra Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”. Nghị quyết này tiếp tục thể hiện sự phát triển tư duy lý luận và sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người; việc xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học… Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới...”; “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Sau Đại hội XIII của Đảng, nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021) và các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng của đất nước năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đề cập đến vấn đề văn hóa và con người trong bài viết, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao...”; “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới...”.
PGS. TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, qua những thăng trầm của lịch sử và trong từng bối cảnh cụ thể của quá trình phát triển đất nước, chúng ta đã kế thừa và bổ sung thêm các nội hàm mới. Ví dụ như, với giai đoạn chiến tranh thì chủ nghĩa yêu nước là vô cùng quan trọng và thể hiện bằng tinh thần đoàn kết một lòng, quyết tâm giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đến nay, tinh thần yêu nước đó thể hiện đa dạng ở rất nhiều những hình thức khác nhau như quyết tâm xây dựng thương hiệu cho quốc gia, quyết tâm tỏa sáng những giá trị của đất nước bằng những bài hát, bằng những nỗ lực trong phát triển kinh tế, khoa học – công nghệ, giáo dục hay nỗ lực trong nhiều hoạt động khác nhau trong đời sống xã hội…
Bên cạnh những nguyên tắc hay là những giá trị về dân tộc, khoa học, đại chúng, chúng ta cần bổ sung những giá trị mới như, dân chủ, sáng tạo, hạnh phúc… Tất cả những yếu tố được bổ sung ấy giúp Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 thêm sức sống, thích nghi hơn với cuộc sống xã hội mới và biến văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh của dân tộc, giúp cho văn hóa lan tỏa tinh thần của đất nước và tạo ra sự tự tin, bản lĩnh về văn hóa. Điều này giúp chúng ta hội nhập quốc tế tốt hơn, khuyếch trương văn hóa Việt Nam và bồi đắp khát vọng xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh và hạnh phúc…/.