XÁC ĐỊNH RÕ NHIỆM VỤ BIÊN PHÒNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

30/03/2020

Thực tế công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, xây dựng lực lượng bộ đội biên phòng trong tình hình mới và thực tiễn pháp luật đã đặt ra yêu cầu phải thể chế, quy định cho được các chủ trương, chính sách lớn về công tác, nhiệm vụ biên phòng, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và khả thi.

 

Thực tiễn đặt ra yêu cầu mới đối với nhiệm vụ biên phòng

Hiện nay, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển là xu thế chung, tuy nhiên tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực đang diễn biến khá phức tạp, khó lường. Vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm ma túy và các loại tội phạm có tính chất xuyên biên giới, di dịch cư tự do diễn biến phức tạp, các vấn đề an ninh phi truyền thống là khó khăn liên quan trực tiếp đến thực hiện nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng. Điều này đòi hỏi lực lượng bộ đội biên phòng nói riêng phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ, quyết liệt hơn để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

Thượng tướng Phan Văn Giang - Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam - đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật Biên phòng Việt Nam phát biểu tại phiên họp thẩm tra sơ bộ dự án Luật

Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ biên phòng đang được các lực lượng khác nhau phối hợp đảm nhiệm. Tuy nhiên, với vị trí là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, trên cở sở pháp luật hiện hành, bộ đội biên phòng đạt được kết quả nhất định trong công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, vùng biển; trong công tác phòng, chống xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm trật tự an toàn xã hội và xử lý hành chính; trong kiểm tra, kiểm soát xuất nhập cảnh. Quan hệ đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng với chính quyền địa phương, lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng được triển khai đồng bộ, thường xuyên, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác phối hợp công tác hiệu quả giữa Quân đội nói chung, bộ đội biên phòng nói riêng với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng, có sức lan tỏa lớn và sâu rộng. Bộ đội biên phòng cũng tích cực tham gia xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới và thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Tuy nhiên, từ năm 1997 khi Pháp lệnh Bộ đội biên phòng được ban hành đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, quan điểm mới về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng nền biên phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và bộ đội biên phòng nói riêng. Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; về quyền con người, quyền công dân... Từ đó, Pháp lệnh có một số nội dung không còn phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu luật hóa các quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 cũng như chưa luật hóa về chính sách của Nhà nước về công tác biên phòng. Do đó, chưa tạo cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho lực lượng vũ trang làm nòng cốt, lực lượng chuyên trách nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, vùng biển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, công tác biên phòng trong giai đoạn cách mạng mới.

Điều này ảnh hưởng phần nào đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của một số đơn vị lực lượng vũ trang, bộ đội biên phòng chưa vững chắc; việc xử lý, giải quyết một số vụ việc, tình huống phức tạp trên biên giới, vùng biển có lúc, có nơi còn lúng túng, bị động; phối hợp giữa bộ đội biên phòng với các cấp, các ngành, các lực lượng ở một số địa bàn, lĩnh vực hiệu quả chưa cao.

Nhiều nhiệm vụ của bộ đội biên phòng chưa được quy định trong Pháp lệnh

Nhiệm vụ biên phòng hiện đang được quy định từ Điều 5 đến Điều 10 Pháp lệnh Bộ đội biên phòng. Tuy nhiên, qua rà soát cho thấy các quy định này chưa đầy đủ, toàn diện trong điều kiện phát triển của đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ công tác quản lý, bảo vệ bộ đội biên phòng trong tình hình mới, nhất là trong tình hình Đảng đã có nhiều chủ trương mới về bảo vệ biên giới quốc gia như Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”.

Cùng với đó, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến nhiệm vụ biên phòng đã được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung. Pháp lệnh quy định nhiệm vụ của bộ đội biên phòng trong “kiểm soát việc xuất, nhập cảnh qua các cửa khẩu biên giới và qua các đường qua lại biên giới” (Điều 6) chưa được bổ sung nhiệm vụ của bộ đội biên phòng theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. 

Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 quy định một số trường hợp nổ súng không phù hợp với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của bộ đội biên phòng trong các trường hợp đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm nguy hiểm như tội phạm về ma túy, sử dụng vũ khí quân dụng, vật liệu nổ trái phép… Vì vậy, cần bổ sung để phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của bộ đội biên phòng.

Điểm c Khoản 1 Điều 22 Luật An ninh quốc gia năm 2004 quy định: “Bộ đội biên phòng là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển”, nội dung này Pháp lệnh chưa quy định.

Khoản 2 Điều 31 Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy định: “Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật”.

Ngoài ra, tại các Luật: Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Quốc phòng, Luật Phòng, chống ma túy, Luật Phòng, chống mua bán người đều có quy định về trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong việc chỉ đạo bộ đội biên phòng phối hợp với các cơ quan trong việc thực hiện một số nhiệm vụ, thực hiện quản lý nhà nước về biên giới quốc gia, duy trì an ninh trật tự khu vực biên giới.

Thể chế hóa nhiệm vụ biên phòng một cách đồng bộ và khả thi

Trước thực trạng trên, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật Biên phòng Việt Nam trên cơ sở nâng cấp Pháp lệnh Bộ đội biên phòng đồng thời mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh. Trên cơ sở 03 chính sách đã xác định và đánh giá tác động của dự án Luật Biên phòng Việt Nam được Chính phủ, Quốc hội nhất trí thông qua: Xác định rõ nhiệm vụ biên phòng; Luật hóa quy định về hình thức quản lý, bảo vệ biên giới của bộ đội biên phòng; Chuẩn hóa, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, nội dung dự thảo Luật quy định cụ thể về nhiệm vụ biên phòng đảm bảo tính khái quát, toàn diện nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới; quy định về hình thức quản lý, bảo vệ biên giới của bộ đội biên phòng.

 Phó Chủ tịch Quốc hội hội, Đại tướng Đỗ Bá Tỵ phát biểu tại phiên họp thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Quốc phòng – An ninh về dự án Luật Biên phòng Việt Nam

Phát biểu chỉ đạo tại phiên họp thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Quốc phòng – An ninh về dự án Luật Biên phòng Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội hội, Đại tướng Đỗ Bá Tỵ khẳng định việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam là cần thiết, để thi hành Hiến pháp 2013, các Nghị quyết quan trọng của Đảng về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, đồng thời tạo cơ sở, nền tảng pháp lý chặt chẽ cho công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới, xây dựng lực lượng bộ đội biên phòng ngày càng lớn, mạnh phù hợp với tình hình mới, thống nhất với các quy định trong hệ thống pháp luật mới được ban hành hoặc sửa đổi.

Phó Chủ tịch Quốc hội hội Đỗ Bá Tỵ cũng chia sẻ việc xây dựng dự án Luật có điểm thuận lợi là có các Nghị quyết, Chiến lược của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 33 của Bộ chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, có các quy định của Luật Biên giới quốc gia và pháp luật liên quan và quá trình 23 năm triển khai Pháp lệnh Bộ đội biên phòng. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra yêu cầu lớn là phải thể chế, quy định cho được các chủ trương, chính sách lớn về công tác, nhiệm vụ biên phòng, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và khả thi.

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ, việc xây dựng dự án Luật với tên gọi Luật Biên phòng Việt Nam và mở rộng phạm vi điều chỉnh (so với Pháp lệnh Bộ đội biên phòng) là phù hợp với Nghị quyết 33 của Bộ chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, phù hợp với tên gọi trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội quyết định. Với tên gọi và phạm vi điều chỉnh như đã xác định thì Luật cần quy định một cách tổng thể tất cả các vấn đề liên quan đến biên phòng. Đó là: công tác biên phòng là một bộ phận trong công tác quốc phòng, bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia, nhiệm vụ có sự tham gia của nhiều lực lượng khác nhau tại khu vực biên giới và được quy định ở nhiều đạo luật liên quan. Đặc biệt là Luật Biên giới quốc gia trong phạm vi điều chỉnh và nội dung có hẳn 1 chương quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và khu vực biên giới. Như vậy sẽ có sự trùng lắp về phạm vi điều chỉnh giữa dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam và Luật Biên giới quốc gia.

Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ đề nghị phải rà soát thật kỹ, đánh giá đầy đủ các quy định hiện hành về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và khu vực biên giới để phân định rành mạch phạm vi điều chỉnh của luật này và Luật Biên giới quốc gia và các Luật khác. Đồng thời, nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, nhất là ý kiến góp ý của các bộ, ngành (đặc biệt là các bộ có liên quan như Bộ công an, Tư pháp, Tài chính, Ngoại giao,…) để hoàn chỉnh dự thảo Luật./.

Bảo Yến