Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. Tuy nhiên qua tổng kết hàng năm về công tác quản lý, điều hành, trong đó có kết quả thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, Bộ Công an nhận thấy có nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Quy tắc giao thông đường bộ còn thiếu và chưa sát thực tế
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đồng thời điều chỉnh hai lĩnh vực khác nhau là: Trật tự, an toàn giao thông đường bộ (thuộc lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội) chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và các cá nhân để bảo đảm trạng thái giao thông có trật tự, an toàn, đúng pháp luật; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, vận tải đường bộ (thuộc lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật), chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân khi thiết kế, quy hoạch, xây dựng và chuyển giao các công trình hạ tầng giao thông, kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải. Đây là hai lĩnh vực rất lớn và khác nhau nhưng lại được điều chỉnh trong cùng một đạo luật dẫn đến không thể quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng nhiều nội dung quan trọng thuộc cả hai lĩnh vực.
Quốc hội họp trực tuyến, nghe trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ
Bên cạnh đó, một số hoạt động đã được điều chỉnh trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 như quy tắc giao thông, người và phương tiện tham gia giao thông, nhưng vẫn còn nhiều quy định thiếu cụ thể, chưa sát với thực tiễn. Trong đó, quy tắc giao thông chủ yếu là nội luật hóa Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ nhưng việc cụ thể hóa các quy định của Công ước này trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa đầy đủ và chưa sát thực tiễn tình hình giao thông tại Việt Nam, như: quy định về sử dụng làn đường, dừng, đỗ xe trên đường phố, chuyển hướng, vượt xe, nhường đường tại nơi đường giao nhau, sử dụng đèn tín hiệu…Thiếu quy định bắt buộc thắt dây an toàn đối với người điều khiển và người được chở trên xe ô tô tại những chỗ có trang bị dây an toàn; thiếu quy định phải dừng lại quan sát trước khi nhập từ đường nhánh vào đường chính; chưa quy định cụ thể, đầy đủ về quy tắc nhường đường cho trẻ em, người già, người khuyết tật, người đi bộ, quy tắc dừng, đỗ xe, chuyển hướng, vượt xe, đi theo làn, sử dụng đèn tín hiệu, mở cửa xe… dẫn đến khó khăn về nhận thức và thực thi pháp luật. Theo thống kê, lỗi vi phạm quy tắc giao thông là nguyên nhân chủ yếu trong các vụ tai nạn giao thông chiếm khoảng 80% và cũng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đi lại mất trật tự, ùn tắc giao thông.
Thiếu quy định để quản lý phương tiện giao thông, ràng buộc trách nhiệm pháp lý của chủ phương tiện
Phương tiện tham gia giao thông là một trong 3 thành tố chính của hoạt động giao thông đường bộ có liên quan trực tiếp đến trật tự, an toàn giao thông. Với số lượng phương tiện và cơ cấu vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng lớn, phương tiện khi tham gia giao thông phải được quản lý chặt chẽ để phòng ngừa tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, gắn trách nhiệm của chủ phương tiện trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi vi phạm hành chính có liên quan đến phương tiện. Theo Bộ luật Dân sự, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ vì tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến tai nạn giao thông và thường được tội phạm lợi dụng tiến hành các hành vi phạm tội. Theo thống kê của Bộ Công an hầu hết các vụ vi phạm và tai nạn giao thông đường bộ đều liên quan đến người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới.
Quản lý phương tiện là nội dung quan trọng để gắn trách nhiệm của chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện khi phương tiện tham gia giao thông, phục vụ công tác nghiệp vụ giải quyết các tình huống, sự cố, phân luồng, phân tuyến, hướng dẫn điều hành giao thông. Thông qua công tác đăng ký, quản lý phương tiện có thể nhanh chóng xác minh truy nguyên đối tượng sử dụng phương tiện để phạm tội, hợp thức hóa, sử dụng xe gian, xe lậu...Trong khi đó, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về công tác đăng ký, quản lý phương tiện, trách nhiệm của chủ phương tiện.
Mặt khác, theo thống kê, nguyên nhân do lỗi chủ quan của người tham gia giao thông chiếm gần 90% tổng số nguyên nhân các vụ tai nạn giao thông đường bộ, trong đó có nguyên nhân thiếu kỹ năng cơ bản phải được đào tạo để xử lý tình huống; có trên 50% các vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến xe kinh doanh vận tải, trong đó nhiều vụ tai nạn giao thông thảm khốc làm chết, bị thương nhiều người, nguyên nhân là do người lái xe ngủ gật, sử dụng chất ma túy, rượu, bia…Vì vậy, việc quản lý người điều khiển phương tiện giao thông là quản lý hành vi của con người, phải thực hiện đồng bộ, thường xuyên, liên tục từ khâu đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe đến quản lý quá trình chấp hành pháp luật của người lái xe sau khi được cấp giấy phép lái xe, không đơn thuần là quản lý hành chính đối với giấy phép lái xe tương tự như việc quản lý các loại giấy phép, chứng chỉ thông thường khác.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực hiện việc cấp, quản lý giấy phép lái xe còn sơ hở, bất cập. Việc quản lý giấy phép lái xe chưa gắn với quản lý vi phạm của người tham gia giao thông. Trong nhiều vụ tai nạn giao thông, trách nhiệm chủ yếu thuộc về người lái xe gây tai nạn mà chưa gắn trách nhiệm của các cơ quan đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông tồn tại nhiều bất cập, hạn chế
Trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông nói chung thì lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ đang tồn tại, nảy sinh nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này nhất là kỹ năng điều khiển phương tiện, ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông của nhiều người tham gia giao thông còn rất kém; tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm trật tự, an toàn giao thông, tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông diễn biến hết sức phức tạp.
Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2009 đến tháng 8 năm 2020: Tai nạn giao thông ở Việt Nam đã xảy ra 334.901 vụ, làm chết 101.810 người (trung bình hàng năm gần 10.000 người chết, chủ yếu trong độ tuổi lao động), bị thương 336.094 người, chiếm hơn 95% trong tổng số vụ, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông nói chung, gây thiệt hại rất lớn về tài sản; đáng chú ý nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường bộ do lỗi vi phạm của người tham gia giao thông là chủ yếu chiếm trên 90% số vụ. So với thế giới, tai nạn giao thông Việt Nam đang ở mức cao.
Thiếu quy định để giải quyết ùn tắc giao thông Ảnh minh họa:ITN
Ùn tắc giao thông xảy ra phức tạp tại các thành phố lớn do lưu lượng phương tiện tăng đột biến, trong khi quy hoạch giao thông, tổ chức giao thông, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu, gây tắc nghẽn trên diện rộng tại các đô thị lớn và trên các tuyến cao tốc, quốc lộ trọng điểm. Ùn tắc giao thông trên các trục giao thông chính, đầu mối giao thông trọng điểm, đặc biệt là trên địa bàn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên phức tạp, thường xuyên, liên tục, có xu hướng lan rộng cả không gian và thời gian; ô nhiễm môi trường từ hoạt động của phương tiện giao thông ngày càng nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đời sống của Nhân dân, tác động không tốt đến môi trường du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài và hình ảnh của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Các loại tội phạm hoạt động trên các tuyến giao thông diễn biến hết sức phức tạp, nhất là các hành vi gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, cướp, cướp giật tài sản, vận chuyển trái phép chất ma túy, hàng giả, hàng lậu…Dự báo trong thời gian tới, việc lợi dụng hoạt động giao thông để gây rối an ninh, trật tự và phạm tội có nguy cơ thường trực trên các tuyến giao thông đường bộ.
Trong khi đó, Luật hiện hành chưa quy định cụ thể và đầy đủ về các biện pháp tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc giao thông. Chưa quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng về biện pháp, trách nhiệm giải quyết tai nạn giao thông đường bộ của cơ quan Công an, Y tế, Bảo hiểm, cơ quan khai thác, bảo trì đường bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Chưa có chính sách cụ thể, rõ ràng về quản lý, sử dụng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, trung tâm chỉ huy, điều khiển giao thông và chưa xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác này, dẫn đến đầu tư ứng dụng công nghệ thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến chồng chéo khi tổ chức thực hiện.
Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đức, Nga, Australia...thì các nội dung liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được quy định trong đạo luật riêng, tách bạch với đạo luật về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và quản lý kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ. Vấn đề phát triển hạ tầng phải có cơ chế riêng để thu hút nguồn lực đầu tư, vấn đề trật tự, an toàn giao thông phải có đạo luật chuyên sâu điều chỉnh. Kinh nghiệm của các nước nêu trên hoàn toàn có thể áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Hơn nữa hiện nay xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam theo hướng chuyên sâu hóa điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể để bảo đảm sự phân công rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và nâng cao trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Theo đó, Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ có mục tiêu lớn nhất là bảo vệ quyền con người, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người tham gia giao thông; còn Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) có mục tiêu lớn nhất là đầu tư, xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý vận tải đường bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội./.