XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH (SỬA ĐỔI) THEO HƯỚNG "LẤY NGƯỜI BỆNH LÀM TRUNG TÂM"

25/05/2022

Thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, chiều 25/5, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long trình bày Tờ trình; Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi). Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn điều hành nội dung làm việc.

 

Toàn cảnh Phiên họp

Xây dựng dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) theo hướng "lấy người bệnh làm trung tâm"

Thừa Ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình tại Kỳ họp thứ 3, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, ngày 23 tháng 11 năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009. Ngay sau khi Luật được ban hành, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành đã ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh ra đời đã tạo hành lang pháp lý vô cùng quan trọng cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh. Bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, sau hơn 11 năm triển khai thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 đã nảy sinh một số vướng mắc, bất cập, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn chưa có cơ chế pháp lý để giải quyết như: về quản lý người hành nghề; về quản lý cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; một số nội dung liên quan đến chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh; các điều kiện bảo đảm cho công tác khám bệnh, chữa bệnh; kinh nghiệm từ thực tiễn công tác phòng, chống dịch COVID-19…

Đồng thời, việc xây dựng dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) sẽ thể chế Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới; Nghị quyết số 41/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XV.

Do đó, để thể chế hóa quan điểm của Đảng, khắc phục những tồn tại, hạn chế của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và giải quyết các vấn đề về thực tiễn phát sinh chưa có cơ sở pháp lý thì việc xây dựng dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) là rất cần thiết.

Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long, Dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) gồm 12 chương và 106 điều, được xây dựng theo hướng "lấy người bệnh làm trung tâm" thông qua việc quy định đồng thời các giải pháp về: Nâng cao kỹ năng hành nghề, tăng cường quản lý hoạt động của người hành nghề; Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ của người dân với dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; Tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính trong khám bệnh, chữa bệnh; Tăng cường phát triển y học cổ truyền, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại; Đổi mới một số quy định liên quan điều kiện bảo đảm thực hiện.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long trình bày Tờ trình

Cần thể chế hóa đầy đủ hơn nữa chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân

Trình bày báo cáo thẩm tra Dự án luật này, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, Ủy ban Xã hội nhất trí về sự cần thiết của việc ban hành Luật và thấy rằng, dự án Luật đã thể chế hóa được quan điểm, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đảm bảo chính sách dân tộc và đã được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu theo quy định. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ tiếp tục tổng kết, bổ sung đánh giá tác động đối với các nội dung sửa đổi, bãi bỏ so với Luật hiện hành; rà soát, đánh giá đầy đủ về thủ tục hành chính đối với từng đối tượng chịu sự tác động; thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc, cụ thể hơn nữa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân tại dự án Luật.

Đi vào một số nội dung cụ thể, Ủy ban Xã hội nhận thấy, về nội dung sử dụng ngôn ngữ trong khám bệnh, chữa bệnh của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, Tờ trình đưa ra hai phương án quy định về việc sử dụng ngôn ngữ khi hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam. Một số ý kiến trong Ủy ban Xã hội nhất trí với phương án 1 quy định tại Điều 24 dự thảo, theo đó, người hành nghề khám chữa bệnh phải biết tiếng Việt thành thạo và không sử dụng phiên dịch khi hành nghề, trừ một số trường hợp đặc biệt, song đề nghị xác định rõ tiêu chí “biết tiếng Việt thành thạo” và “cùng ngôn ngữ mẹ đẻ”; cần nghiên cứu quy định lộ trình đáp ứng điều kiện sử dụng tiếng Việt thành thạo đối với người nước ngoài xin cấp mới Giấy phép hành nghề để đảm bảo sự bình đẳng giữa những người hành nghề. Nhiều ý kiến trong Ủy ban Xã hội đồng tình với phương án 2 là giữ quy định hiện hành, theo đó, trường hợp không biết tiếng Việt thành thạo thì phải đăng ký ngôn ngữ sử dụng và có người phiên dịch để hạn chế ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đang sử dụng người nước ngoài và cho rằng, để khắc phục các tồn tại hiện nay, cần xác định trách nhiệm pháp lý của phiên dịch, nâng cao chất lượng đội ngũ này, đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra.

Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh trình bày báo cáo thẩm tra

Về quy định chức danh nghề nghiệp phải có giấy phép hành nghề, Ủy ban Xã hội đề nghị Cơ quan soạn thảo quy định rõ vai trò, chức năng, phạm vi hành nghề của 09 chức danh phải có Giấy phép hành nghề; tiếp tục rà soát để không bỏ sót các chức danh tham gia trực tiếp hoạt động khám bệnh, chữa bệnh cần được cấp Giấy phép hành nghề. Ủy ban đề nghị Cơ quan soạn thảo tổng kết việc thực hiện quy định liên quan đến y sỹ, đánh giá rõ vị trí, vai trò, hoạt động và sự phù hợp của chức danh này trong hệ thống y tế để có quy định phù hợp. Đa số ý kiến trong trong Ủy ban cho rằng, cần tiếp tục cấp Giấy phép hành nghề đối với chức danh y sỹ ở các khu vực (chứ không chỉ đối với y sỹ thuộc lực lượng vũ trang), đề nghị Chính phủ, Bộ Y tế có định hướng và tiến hành đồng thời các giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo đối với lực lượng y sỹ để đáp ứng nguồn nhân lực y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân tại tuyến cơ sở.

Về kiểm tra đánh giá năng lực hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, đa số ý kiến trong Ủy ban thống nhất về sự cần thiết của việc kiểm tra đánh giá năng lực hành nghề và thực hiện theo lộ trình đối với từng chức danh phải có Giấy phép hành nghề, song đề nghị bổ sung lộ trình kiểm tra đánh giá năng lực đối với chức danh y sỹ thuộc lực lượng vũ trang và cấp cứu viên ngoại viện; làm rõ căn cứ xác định thời điểm tiến hành chính thức tổ chức kiểm tra đánh giá năng lực hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cách thức tổ chức kiểm tra đánh giá năng lực hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ngay trong dự thảo Luật.

Về thời hạn của giấy phép hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, Ủy ban Xã hội cơ bản nhất trí quy định Giấy phép hành nghề có thời hạn 05 năm và đề nghị quy định thời hạn Giấy phép hành nghề đối với chức danh lương y, người có bài thuốc gia truyền hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền cho phù hợp với điều kiện hành nghề của các đối tượng này. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng không cần quy định thời hạn của Giấy phép hành nghề mà chỉ cần sửa đổi các quy định hiện hành về cập nhật kiến thức chuyên môn liên tục để đảm bảo yêu cầu và nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh.

Bên cạnh đó, đề nghị Cơ quan soạn thảo cân nhắc quy định “người hành nghề được tiếp tục hành nghề theo phạm vi chuyên môn đã cấp mà không phải cấp lại, gia hạn giấy phép hành nghề nếu từ đủ 60 tuổi trở lên vào năm 2025 và năm 2030” tại Điều 104 để đảm bảo việc kiểm soát trình độ chuyên môn, năng lực hành nghề, quản lý hành nghề và sự công bằng.

Ngoài ra, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội nêu rõ, Dự án Luật quy định việc tổ chức lại hệ thống khám bệnh, chữa bệnh thành 03 cấp chuyên môn kỹ thuật: cấp khám bệnh, chữa bệnh ban đầu, cấp khám bệnh, chữa bệnh cơ bản, cấp khám bệnh, chữa bệnh chuyên sâu là cần thiết. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan soạn thảo xác định rõ việc phân cấp này được thực hiện theo chuyên môn kỹ thuật hay phân loại hệ thống tổ chức; quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của mỗi cấp, cách thức kết nối của các cấp và mối quan hệ giữa hạng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh với các cấp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong chuỗi cung ứng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh cũng như lộ trình, việc chuẩn bị cho việc tổ chức lại hệ thống./.

Hồ Hương- Phạm Thắng