Nhiều văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em được ban hành
Nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay của nước ta về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được ban hành tương đối đầy đủ, từng bước thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển toàn diện trẻ em.
Cụ thể, Điều 61 Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.
Luật trẻ em 2016 cũng đã nêu thểquy định cụ thể 25 quyền của trẻ em và giao trách nhiệm cho các bộ, ngành về bảo đảm các điều kiện để phát triển toàn diện trẻ em; Luật Bảo hiểm Y tế quy định trẻ em dưới 6 tuổi được khám, chữa bệnh miễn phí; được nhà nước đóng hoặc hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được khám, chữa bệnh theo chế độ miễn, giảm phí. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có chính sách trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trợ cấp hằng tháng đối với cá nhân, gia đình nhận chăm sóc thay thế; hỗ trợ chi phí mai táng và chế độ trợ cấp, trợ giúp khác cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ tiền ăn, ở, đi lại cho trẻ em bị xâm hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang được bảo vệ khẩn cấp.
Bên cạnh đó, Bộ Luật Lao động quy định thời gian nghỉ thai sản là 6 tháng dành cho nữ giới, người chồng được nghỉ 15 ngày khi vợ sinh con.
Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009 đã có một số điều khoản quy định chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Luật cũng quy định phổ cập giáo dục tiểu học, trẻ em được học tiểu học hoàn toàn miễn học phí tại các trường công lập. Chính phủ có các Nghị định về chế độ, chính sách hỗ trợ cho mầm non dân tộc thiểu số rất ít người và vùng khó khăn.
Quyết định 2123/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015 cũng yêu cầu các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù cho trẻ em, học sinh, sinh viên các dân tộc rất ít người; bảo đảm trẻ mẫu giáo 3-5 tuổi dân tộc rất ít người được học 2 buổi/ngày; học sinh dân tộc rất ít người cấp tiểu học được học tại các điểm trường ở thôn, bản và ở các trường phổ thông dân tộc bán trú; hoàn thành chương trình tiểu học được vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện; hoàn thành chương trình trung học cơ sở được vào học tại trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh hoặc trường phổ thông dân tộc nội trú huyện liên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông hoặc vào học tại các trường trung cấp chuyên nghiệp...). Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ năm 2011 đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu tổng quát giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
Sau khi Luật trẻ em 2016 được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã kịp thời ban hành ban hành một số văn bản liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em bảo đảm sự phát triển toàn diện cho trẻ: Quyết định số 2085/2016/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 phê duyệt chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020;Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em;Quyết định số 856/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 về việc thành lập Ủy ban Quốc gia về trẻ em; Quyết định số 1125/2017/QĐ-TTg, ngày 31/7/2017 phê duyệt chương trình mục tiêu y tế-dân số giai đoạn 2016-2020;Nghị định 06/2018/NĐ-CP, ngày 05/01/2018 về chính sách hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo và chính sách đối với giáo viên mầm non.
Đồng thời, chính quyền địa phương các cấp cũng ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp quy nhằm cụ thểhóa các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển toàn diện trẻ em đã được quy định trong Luật trẻ em 2016 (Phụ lục số1).Các văn bản do dịa phương ban hành ban hành bảo đảm tính thống nhất theo hệ thống các văn bản Pháp luật của nhà nước, phù hợp với thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm phát triển toàn diện trẻ em và ưu tiên cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số.
Các chính sách về phát triển toàn diện trẻ em dần đi vào cuộc sống
Thực hiện chương trình công tác năm 2018,Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đã phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tại Việt Nam tổ chức khảo sát về việc phát triển toàn diện trẻ em giai đoạn từ 0 - 8 tuổi tại các tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Điện Biên. Đợt khảo sát nhằm nghiên cứu, đánh giá về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em tại các địa phương sau một năm triển khai thực hiện Luật Trẻ em 2016; trên cơ sở thực trạng phát triển toàn diện trẻ em tại các tỉnh để có kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách.
Kết quả khảo sát cho thấy, công tác giáo dục đào tạo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số những năm gần đây đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Thực tế cho thấy, các chính sách của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, đào tạo miền núi, vùng dân tộc thiểu số cả nước nói chung va ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, và Điện Biên nói riêng phát triển, góp phần tích cực cho việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài cho tỉnh và cho đất nước. Về cơ bản hoàn thành chương trình xóa nạn mù chữ, phổ cập mầm non 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Tuy nhiên, công tác giáo dục - đào tạo ở các tỉnh này cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Quy mô phát triển trường, lớp học chưa đồng đều giữa các vùng miền, cơ hội đến trường của trẻ em ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế, chưa bền vững. Cơ sở trường, lớp còn thiếu thốn, tạm bợ. Công trình vệ sinh, nước sạch, bếp ăn ở nhiều trường mầm non còn thiếu hoặc chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng thiếu giáo viên vẫn kéo dài chưa được khắc phục, tỷ lệ giáo viên/lớp còn thấp; đội ngũ vừa thiếu, vừa yếu và không ổn định. Những yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ còn thấp và chênh lệch đáng kể so với các vùng, miền trong cả nước.
Công tác y tế ở khu vực miền núi đã từng bước được hiện đại hoá, đầu tư trang thiết bị đồng bộ, chất lượng chẩn đoán, điều trị, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, trong đó có trẻ em được nâng lên. Mạng lưới y tế đã có mặt ở gần 95% thôn, xã; 100% xã, thôn, buôn, làng đều có cộng tác viên dinh dưỡng (dưới sự tài trợ của UNICEF thông qua dự án…); lồng ghép chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi với các chương trình mục tiêu quốc gia khác như tiêm chủng mở rộng, uống Vitamin A… Hệ thống mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản đã được bao phủ từ tỉnh đến huyện, xã. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, các chỉ số về làm mẹ an toàn đã được cải thiện rõ rệt, tỷ suất tử vong sơ sinh, tử vong dưới 1 tuổi (chiếm 28%), dưới 5 tuổi, tỷ số bà mẹ mang thai chết đã giảm dần qua các năm. Tuy vậy, nhìn chung công tác chăm sóc y tế cho trẻ vẫn còn khó khăn; tỷ suất tử vong của trẻ dưới 5 tuổi và tỷ suất bà mẹ mang thai chết đã giảm dần nhưng vẫn ở mức khá cao so với cả nước.
Công tác bảo vệ trẻ em cũng đã được các cấp, các ngành, các địa phương quan tâm chỉ đạo triển khai, thực hiện đồng bộ. Các địa phương đã xây dựng và vận hành hệ thống bảo vệ trẻ em từ cấp tỉnh đến cơ sở. Công tác phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp tình trạng lạm dụng, ngược đãi trẻ Trẻ có hoàn cảnh đặc biệt ngày càng được chăm sóc giúp đỡ dưới nhiều hình thức khác nhau, như hỗ trợ thường xuyên tại cộng đồng, chăm sóc tập trung tại các cơ sở bảo vệ chăm sóc trẻ em, trợ giúp về y tế, giáo dục. Tuy nhiên, hệ thống bảo vệ trẻ em hiện chưa được thành lập đồng đều tại các địa phương, Tại cấp xã, tất cả cán bộ làm công tác trẻ em đều là kiêm nhiệm; đội ngũ cộng tác viên mỏng nên khó khăn trong việc thu thập, cập nhật thông tin cũng như công tác hỗ trợ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp. Hệ thống chăm sóc thay thế dựa vào cộng đồng cho trẻ em chưa được quan tâm, chưa đủ các dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp hỗ trợ cho trẻ em được chăm sóc thay thế; các cá nhân và gia đình nhận chăm sóc trẻ em còn ít…
Các đại biểu phát biểu tại hội nghị
Các đại biểu cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là đội ngũ công chức làm công tác bảo vệ trẻ em ở các cấp còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực. Nhiều địa phương do không đủ kinh phí hỗ trợ, hoàn thiện đội ngũ cộng tác viên thôn, bản trong việc bảo vệ trẻ em. Công tác truyền thông, tuyên truyền đến cha, mẹ về bảo vệ trẻ em chưa được thường xuyên, chưa rộng khắp đến các vùng dân cư trên địa bàn. Kinh phí bảo đảm cho công tác này còn hạn hẹp; hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng còn thiếu và yếu.
Các đại biểu cho rằng, các chính sách, chương trình về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đặc biệt là chương trình về giảm nghèo đã tác động lớn đến trẻ em, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước trong nỗ lực nâng cao đời sống cho các tầng lớp dân cư, trong đó có trẻ em. Tuy nhiên, do cùng trong một lĩnh vực có nhiều chương trình, chính sách can thiệp nên còn tình trạng chồng chéo về mục tiêu, đối tượng thụ hưởng, cách thức quản lý và tổ chức thực hiện.
Cần quan tâm bố trí nguồn lực cho các chương trình bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Bày tỏ quan điểm tại hội nghị, các chuyên gia đánh giá các nội dung thể hiện trong dự thảo báo cáo của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng về đã bám sát các vấn đề liên quan đến phát triển toàn diện trẻ em hiện nay. Tuy nhiên, các đại biểu đề nghị báo cáo cần bổ sung thêm nội dung đánh giá về bảo đảm nhu cầu vui chơi, giải trí cho trẻ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng và triển khai các chương trình, đề án, chính sách cho công tác chăm sóc, bảo vệ và phát triển toàn diện trẻ em, đặc biệt là trẻ em vùng cao, trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng các chương trình dự án và các giải pháp can thiệp để cải thiện tình hình sức khỏe của trẻ em. Đặc biệt là cần phải quan tâm bố trí nguồn lực bảo đảm thực hiện các chương trình, đề án và công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Các đại biểu tại hội nghị
Cùng với đó, nghiên cứu ban hành chính sách phát triển giáo dục miền núi, tiếp tục có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, nâng cao đời sống cán bộ, giáo viên đến công tác tại miền núi, vùng khó khăn và vùng dân tộc thiểu số. Có chính sách để huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi được tiếp cận với dịch vụ giáo dục mầm non có chất lượng, bảo đảm sự công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục mầm non cho mọi trẻ em để sớm khắc phục sự chênh lệch về phát triển giáo dục mầm non giữa các vùng miền.
Một số đại biểu kiến nghị các địa phương cũng cần ưu tiên phân bổ ngân sách đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất, trang thiết bị, có giải pháp tiếp cận phát triển giáo dục mầm non thích hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn dân cư. Đề cao sự phối hợp trách nhiệm, vai trò của gia đình và cộng đồng, huy động toàn xã hội cùng chăm lo cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ.