CẦN CÓ GIẢI PHÁP ĐỒNG BỘ ĐỂ BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

27/10/2023

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, chiều 27/10, tại Nhà Quốc hội, thẩm tra dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị cần bổ sung đánh giá kỹ lưỡng, đầy đủ, cụ thể hơn về tác động của các chính sách; đồng thời Chính phủ cần có giải pháp đồng bộ để bảo đảm hiệu quả của chính sách đề xuất.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 27/10: CHÍNH PHỦ TRÌNH QUỐC HỘI DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT THÍ ĐIỂM MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh

Báo cáo thẩm tra Tờ trình số 588/TTr-CP ngày 20/10/2023 của Chính phủ về Nghị quyết của Quốc hội thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành Nghị quyết thí điểm là đúng thẩm quyền. Hồ sơ dự thảo Nghị quyết thí điểm trình Quốc hội đã được chuẩn bị cơ bản đầy đủ thành phần theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Nhấn mạnh về sự cần thiết ban hành Nghị quyết, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, Chính phủ đề xuất các chính sách thí điểm đặc thù nhằm bảo đảm thực hiện thành công chủ trương của Đảng về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ hiện đại, đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thu hút tối đa nguồn lực đầu tư, đa dạng hóa các hình thức huy động nguồn lực, nhất là các nguồn lực ngoài nhà nước. Do đó, nhiều ý kiến tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết.

Tuy nhiên, có ý kiến không tán thành với các đề xuất của Chính phủ do việc triển khai các quy định này chưa rõ về kết quả tích cực nhưng có thể dẫn đến hệ lụy tiêu cực. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần bổ sung đánh giá kỹ lưỡng, đầy đủ, cụ thể hơn về tác động của các chính sách, làm rõ hơn đối với tác động đến thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) và nguồn lực bảo đảm thực hiện chính sách.

Về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) (Điều 4), Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án đề xuất thí điểm.

Bên cạnh đó, thực tế triển khai thời gian qua cho thấy các dự án giao thông PPP gặp khó khăn nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế, chính sách của Nhà nước thiếu ổn định nhưng chưa có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư một cách thỏa đáng... dẫn đến các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư quan ngại việc đầu tư các dự án giao thông PPP. Do đó, đề xuất của Chính phủ về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư sẽ chưa xử lý triệt để được những khó khăn, vướng mắc hiện nay. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần có giải pháp đồng bộ để bảo đảm hiệu quả của chính sách đề xuất.

Về thẩm quyền đầu tư dự án quốc lộ, cao tốc đi qua các địa phương (Điều 5), Ủy ban Kinh tế cho rằng, thực tế triển khai các dự án áp dụng cơ chế này thời gian qua, năng lực của các Ban quản lý điều hành dự án tại các địa phương là chưa đồng bộ, có trường hợp địa phương làm tốt, có địa phương gặp khó khăn, dễ phát sinh tình trạng không hoàn thành đồng bộ, theo tiến độ của các dự án thành phần. Để Quốc hội có thêm cơ sở xem xét, quyết định, đề nghị Chính phủ bổ sung đánh giá sơ kết việc triển khai thực hiện chính sách này trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15.

Liên quan đến các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương (Điều 6), Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất của Chính phủ về các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương nhằm cho phép sử dụng ngân sách của địa phương này hỗ trợ vốn cho các địa phương khác, tạo sự linh hoạt trong điều hành ngân sách, đáp ứng nhu cầu cấp bách của các địa phương và thuận lợi hơn cho công tác quản lý dự án…

Về cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Điều 7), Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để có các giải pháp phù hợp hơn nữa nhằm bảo đảm tiến độ cho các dự án. Bên cạnh đó, so với Nghị quyết số 43/2022/QH15, ngoài các nhà thầu, Chính phủ đề xuất bổ sung đối tượng áp dụng cơ chế này cho các nhà đầu tư, do đó đề nghị bổ sung, làm rõ sự cần thiết áp dụng cơ chế này đối với các nhà đầu tư thực hiện dự án.

Đối với nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm (Điều 3) và Danh mục các dự án đề xuất áp dụng thí điểm kèm theo dự thảo Nghị quyết, Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm, để bảo đảm các dự án được lựa chọn phải thực sự cần thiết, cấp bách và phù hợp với quy định pháp luật, tránh thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Trên cơ sở đó, rà soát lại Danh mục các dự án, lựa chọn các dự án đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí, thuyết minh sự phù hợp của từng dự án trong việc đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí. Đối với các dự án chưa đủ điều kiện, đề nghị tiếp tục hoàn thiện các thủ tục đầu tư trình Quốc hội, hoặc trình UBTVQH nếu được Quốc hội ủy quyền xem xét, quyết định trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực thi hành.

Về cơ chế đặc thù áp dụng đối với các dự án sử dụng nguồn tăng thu NSTW năm 2022 (Điều 8), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, đối với các dự án hiện đã có trong danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025: Chính phủ chỉ đạo rà soát, lựa chọn các dự án cấp thiết, đã đáp ứng đủ các điều kiện luật định, để giao kế hoạch vốn kịp thời, đúng quy định pháp luật và chịu trách nhiệm về tính tuân thủ pháp luật trong phân bổ vốn, bảo đảm tính hiệu quả kinh tế - xã hội, không dài trải, gây thất thoát, lãng phí.

Đối với những dự án mới chưa có trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 và thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội: dành nguồn và giao Chính phủ khẩn trương chuẩn bị thủ tục đầu tư, tuân thủ điều kiện theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật liên quan, trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, quyết định theo đúng thẩm quyền, trong đó, báo cáo Quốc hội việc bổ sung các dự án đủ điều kiện vào danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.

Về danh mục dự án theo Điều 8 của dự thảo Nghị quyết: hiện nay, các dự án chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư, các thông tin về dự án, tổng mức đầu tư, số vốn NSTW bố trí vốn cho các dự án chưa có cơ sở, chưa bảo đảm tính chính xác. Danh mục dự án tại các Phụ lục nêu cụ thể về mức vốn từ nguồn tăng thu NSTW, trong khi theo Kết luận về phương án phân bổ NSTW năm 2022 thì UBTVQH chưa xem xét, quyết định việc phân bổ cụ thể cho các dự án này. Vì vậy, kiến nghị Quốc hội chưa xem xét danh mục, mức vốn cụ thể đối với các dự án kèm theo Tờ trình của Chính phủ và không đính kèm theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội. Trường hợp cần có danh mục kèm theo Nghị quyết để xác định rõ đối tượng áp dụng thí điểm, đề nghị không nêu cụ thể số vốn từ nguồn tăng thu NSTW năm 2022 cho từng dự án.

Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung làm rõ sự cần thiết và rà soát, chỉnh lý rõ nội hàm của quy định tại khoản 3 Điều 9 dự thảo Nghị quyết để tránh dẫn đến cách hiểu khác nhau và vướng mắc trong triển khai thực hiện.

Để bảo đảm tính linh hoạt cho các địa phương đối với các dự án đang ở giai đoạn chuẩn bị, chưa đáp ứng đủ các điều kiện về thủ tục đầu tư, cần có thời gian cho các cơ quan đề xuất hoàn thiện các thủ tục trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, do đó Ủy ban Kinh tế tán thành với đề xuất quy định thời gian có hiệu lực của Nghị quyết đến hết năm 2025./.

Bích Ngọc

Các bài viết khác