SỬA ĐỔI LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐỂ KỊP THỜI KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DO NƯỚC THẢI SINH HOẠT, CÔNG NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP

23/06/2023

Tham gia đóng góp ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước đang được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng, lĩnh vực quản lý tài nguyên nước hiện đang phải đối mặt với một số thách thức lớn do hệ thống sông hồ ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp. Việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước kỳ vọng sẽ tạo bước chuyển biến đột phá trong việc khắc phục tình trạng này.

PHÁT BIỂU ẤN TƯỢNG TẠI PHIÊN CHẤT VẤN BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

Trình Quốc hội dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được xây dựng trên quan điểm: Thể chế hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Tài nguyên nước phải là cốt lõi trong xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch dân cư, quy hoạch các ngành, lĩnh vực có khai thác sử dụng nước, hoạch định chiến lược phát triển đất nước; Các quy định của Luật phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các pháp luật chuyên ngành liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia;

Dự án luật này cũng kế thừa các quy định của Luật 2012 đang phát huy hiệu quả; bãi bỏ các quy định bất cập; cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành cho phù hợp; Thiết lập hệ thống hành lang pháp lý cho quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số và tích hợp các quy định liên quan đến quản lý nguồn nước, khai thác, sử dụng, cấp nước trong Luật Tài nguyên nước; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng xã hội hóa ngành nước; Đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh

Luật được kỳ vọng sẽ giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; luật hóa các quy định đã được thực tiễn khẳng định phù hợp; Phát triển kinh tế nước, coi sản phẩm nước là hàng hóa thiết yếu; bảo đảm công bằng trong tiếp cận nguồn nước; Tiếp cận theo xu thế của quốc tế có tính đến đặc thù của Việt Nam; sửa đổi Luật theo hướng quy định tích hợp các nội dung liên quan đến tài nguyên nước; đồng thời, giao trách nhiệm cho các bộ, ngành quản lý theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được quy định tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước như: thủy lợi, thủy điện, cấp nước, giao thông thủy...

Thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) Lê Quang Huy nêu rõ, Ủy ban KH,CN&MT tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với những lý do như đã nêu trong Tờ trình số 162/TTr-CP ngày 28/4/2023 của Chính phủ. Việc sửa đổi Luật giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.

Về Hồ sơ Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Ủy ban KH,CN&MT cho rằng, Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng sử dụng nước, các cơ quan quản lý nước; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; tiếp thu nghiêm túc đầy đủ ý kiến của UBTVQH tại Phiên họp tháng 3/2023, ý kiến thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban KH,CN&MT và của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các ủy ban khác của Quốc hội. Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy Hồ sơ dự án Luật đáp ứng các yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy

Quan tâm đến dự án luật này, PGS.TS Trần Thị Việt Nga, Trưởng Khoa Kỹ thuật Môi trường, Đại học Xây dựng Hà Nội cho biết, lĩnh vực quản lý tài nguyên nước hiện đang phải đối mặt với một số thách thức lớn do hệ thống sông hồ ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, an ninh nguồn nước bị đe dọa.

PGS.TS Trần Thị Việt Nga cho biết, quá trình đô thị hóa nhanh chóng là nguyên nhân gây gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Nước thải công nghiệp và đô thị là nguồn gây ô nhiễm nguồn nước lớn nhất; nước thải đô thị dự kiến sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 60%), nước thải công nghiệp sẽ chiếm 25–28% và nước thải nông thôn là 12-15% của tổng lượng nước thải phát sinh vào năm 2035. Tính đến cuối năm 2021, các hệ thống xử lý nước thải tập trung chỉ xử lý được khoảng 71% lượng nước thải công nghiệp và chỉ khoảng 12,5% nước thải đô thị được xử lý trước khi xả vào các nguồn nước. Ngành nông nghiệp cũng đóng góp một lượng lớn chất thải từ phân bón, mầm bệnh và dược phẩm dùng trong chăn nuôi; 80% của tổng số 84,5 triệu tấn chất thải chăn nuôi tạo ra mỗi năm được thải vào môi trường không qua xử lý. Do đó tải lượng chất ô nhiễm thực tế xả ra nguồn tiếp nhận nước mặt là rất lớn.

Các sông chính ở các đô thị tiếp nhận một lượng lớn nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý và bị ô nhiễm nặng. Theo các số liệu của Sở Tài nguyên Môi trường các thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh thì hầu hết các mẫu nước sông đều bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ (BOD5 và COD) từ nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý và chất thải từ doanh nghiệp chế biến hải sản và giao thông đường thủy. Tình trạng hệ thống nước mặt bị ô nhiễm gây lãng phí nguồn tài nguyên, rủi ro cho sức khỏe con người và các hệ sinh thái tự nhiên. Mức độ ô nhiễm cao cũng hạn chế sự phát triển đô thị, sự phát triển bền vững và tương lai của ngành công nghiệp, nông nghiệp. Việt Nam sẽ tiêu tốn khoảng 12,4 - 18,6 triệu đô la mỗi ngày cho chi phí xử lý do ô nhiễm vào năm 2030 nếu không có các biện pháp xử lý kịp thời.

PGS.TS Trần Thị Việt Nga, Trưởng Khoa Kỹ thuật Môi trường, Đại học Xây dựng Hà Nội 

Về an ninh nguồn nước, PGS.TS Trần Thị Việt Nga cho biết, tài nguyên nước phân bố không đều theo không gian và thời gian: Phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến TP. Hồ Chí Minh, nơi có 80% dân số, trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ có gần 40% lượng nước của cả nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng ĐBSCL, nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng cũng đang chịu tác động từ sử dụng nước khu vực thượng nguồn.

Nguồn nước ô nhiễm khiến nguồn nước cấp ngày càng suy giảm về chất và lượng, tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô trong khi đó nhu cầu nước ngày càng gia tăng đang là những thách thức rất lớn đến việc bảo đảm cấp nước an toàn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ngoài ra, các sự cố nước quy mô lớn do con cho thấy còn nhiều lỗ hổng trong quản lý về an ninh nguồn nước, nhất là nguồn nước mặt được sử dụng sản xuất nước sạch.

Minh Hùng