THẢO LUẬN TẠI TỔ 9: BĂN KHOĂN VIỆC TÍCH HỢP THÔNG TIN VÀO THẺ CĂN CƯỚC

10/06/2023

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 5, sáng 10/6, Quốc hội thảo luận tại Tổ về dự án Luật Căn cước. Các ý kiến tại Tổ 9 bày tỏ băn khoăn việc tích hợp thông tin vào thẻ căn cước và đề nghị cần làm rõ giải pháp công nghệ để khai thác hiệu quả thông tin, không làm lộ, lọt bí mật thông tin, không ảnh hưởng, không vi phạm quyền công dân, quyền con người.

THẢO LUẬN TẠI TỔ 9: DỰ ÁN LUẬT QUẢN LÝ, BẢO VỆ CTQP VÀ KQS CẦN ĐẢM BẢO 2 NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC VỪA PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VỪA CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH

Toàn cảnh phiên thảo luận tại Tổ 9

Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng Trần Quang Phương - Phó Chủ tịch Quốc hội tham dự Phiên thảo luận tại Tổ 9. Tổ 9 gồm 26 đại biểu thuộc Đoàn ĐBQH các tỉnh: Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bến Tre. Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương, Tổ trưởng Tổ 9 điều hành nội dung thảo luận.

Qua thảo luận, đa số các ý kiến nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Căn cước với những cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và cho rằng, việc ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập của Luật Căn cước công dân hiện hành.

Tuy nhiên, để việc xây dựng, ban hành Luật Căn cước được chặt chẽ, phát huy có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, các đại biểu đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ, sớm hoàn thiện ứng dụng tài khoản định danh điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy tối đa hiệu quả của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước.

Phát biểu thảo luận tại Tổ 9, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, cơ sở chính trị để xây dựng luật là các Nghị quyết Trung ương về chuyển đổi số quốc gia, Chính phủ số, cải cách hành chính… Về cơ sở pháp lý, Hiến pháp cũng quy định rất rõ về quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cũng là tài sản quốc gia được Nhà nước bảo vệ theo quy định của pháp luật, liên quan đến an ninh quốc gia. Cơ sở dữ liệu quốc gia được xây dựng để đáp ứng cấp độ 4 về bảo đảm an toàn thông tin.

Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư còn là cơ sở gốc để làm căn cước công dân. Qua tổng kết, đánh giá, Chính phủ và các cơ quan cho rằng, việc cấp căn cước công dân là bước tiến mới trong chuyển đổi số quốc gia. Thực tế, chuyển đổi số quốc gia là quá trình “dò đá qua sông”, vừa làm vừa rút kinh nghiệm; vừa phải bảo đảm tiệm cận với trình độ phát triển công nghệ của thế giới, vừa đặt ra yêu cầu về quản lý.

Thượng tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương

Qua giám sát, Phó Chủ tịch Quốc hội nhận thấy, một trong những nguyên nhân khó đánh giá tình hình nhất là cơ sở dữ liệu quốc gia. Số liệu rất mênh mông, dù khoa học thống kê đã phát triển, nhưng để đánh giá nhận định tình hình thì phải bằng các “con số biết nói”. Phó Chủ tịch Quốc hội cho rằng, nếu không nhanh chóng phát triển hệ thống dữ liệu quốc gia thì sẽ không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, đối ngoại của đất nước.

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương lưu ý, nếu như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước tốt, kết nối và chia sẻ được, thì chỉ cần căn cước công dân, thay vì phải dùng đến 5 loại giấy tờ, tiết kiệm được chi phí.

“Nhưng quá trình làm, chúng ta phải chấp nhận “sự quá độ” nên trong chừng mực nào đó còn có hạn chế. Đơn cử như hiện nay chúng ta có chứng minh nhân dân 9 số, chứng minh nhân dân 12 số sau đó căn cước công dân có gắn chip và không có gắn chip và thẻ căn cước - như vậy là có 5 loại cùng song hành. Một là quy định thời hiệu hết hiệu lực như trong dự thảo Luật; hai là khi nào hết hiệu lực thì tự tiêu vong. Trong thành công chắc chắn còn có hạn chế, quan trọng là chúng ta phải làm sao có giải pháp kỹ thuật để khắc phục hạn chế này”, Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

Đối với việc tích hợp thông tin vào thẻ căn cước, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương đề nghị phải làm rõ giải pháp công nghệ như thế nào, “có đai”, “có rào” để khai thác hiệu quả thông tin, không làm lộ lọt bí mật thông tin, không vi phạm quyền công dân, quyền con người.

“Cụ thể cấp quyền khai thác ra sao, ai được truy xuất và quyền truy xuất đến đâu? Chứ không phải ai cũng có quyền khai thác. Ví dụ: tích hợp giấy hợp giấy phép lái xe, cơ quan nào cần truy xuất giấy phép lái xe thì chỉ truy xuất giấy phép lái xe; cơ quan nào cần truy xuất thẻ bảo hiểm thì chỉ được phép khai thác dữ liệu về bảo hiểm. Và cần được quy định trong luật hay văn bản dưới luật cho các cơ quan có thẩm quyền. Cũng có ý kiến đặt vấn đề tại sao không truy xuất trong cơ sở dữ liệu quốc gia mà phải truy xuất trong thẻ căn cước? Đây là vấn đề cần nghiên cứu thêm”, Phó Chủ tịch Quốc hội phân tích.

Có ý kiến băn khoăn về việc tích hợp thông tin cá nhân vào thẻ căn cước trong trường hợp mất thẻ và chờ được cấp lại thì sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng các thông tin (cũng là các giấy tờ) đã được tích hợp trong thẻ căn cước, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền công dân.

Cùng băn khoăn về nội dung này, đại biểu Lương Văn Hùng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, việc thẻ căn cước tích hợp nhiều thông tin cá nhân, nên cơ quan, tổ chức, người khai thác có thể khai thác được bí mật cá nhân của người khác thông qua thẻ căn cước. Do đó, đại biểu đề nghị cần bổ sung quy định, chỉ cấp quyền khai thác thông tin tích hợp trong căn cước phù hợp với yêu cầu quản lý, giao dịch của công dân trong từng trường hợp cụ thể. Và cần có sự đồng ý, giám sát của công dân.

Ngoài ra, đề nghị cần cân nhắc lại việc tích hợp các thông tin như: thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, giấy phép lái xe, khai sinh, chứng nhận kết hôn... vào căn cước là không phù hợp với nội hàm “căn cước” theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật. Cụ thể “Căn cước là thông tin về nhân thân, lai lịch, đặc điểm nhân dạng và sinh trắc học của một người”. Do đó, biểu đại Lương Văn Hùng nhận thấy, việc tích hợp các thông tin nêu trên vào căn cước là không phải về lai lịch, nhân dạng…của một người.

Đại biểu Lương Văn Hùng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi

Thảo luận tại Tổ về dự án Luật này, đại biểu Lương Văn Hùng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ngãi thống nhất với sự cần thiết cần sửa đổi, bổ sung Luật Căn cước công dân thành Luật Căn cước để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cư trú, thực hiện các giao dịch của công dân cũng như yêu cầu về công tác quản lý nhà nước về dân cư trong tình hình mới.

Liên quan đến quy định về việc cấp Giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam tại Điều 7, đại biểu Lương Văn Hùng cho rằng, quy định này không hợp lý và thiếu logic. Bởi vì, người gốc Việt Nam là đối tượng không được cấp Căn cước theo quy định tại Điều 20 dự thảo Luật nên không thể cấp giấy chứng nhận căn cước cho người không có căn cước. Nghĩa là nội dung quy định của Điều 7 và Điều 20 mâu thuẫn nhau.

Đồng thời, đề nghị cần có những quy định cụ thể hơn liên quan đến quy định “Người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch” để đảm bảo không xung đột với Luật Quốc tịch Việt Nam và các quy định luật pháp liên quan khác.

Đại biểu Lương Văn Hùng cũng đề nghị thay đổi thông tin “Nơi đăng ký khai sinh” thành “Nơi sinh” trên thẻ căn cước quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 19 dự thảo Luật để bảo đảm cơ sở khoa học hơn cho việc nhận diện công dân và giúp hạn chế sự trùng lặp trường thông tin công dân. Hơn nữa, đại biểu cho rằng, việc sử dụng thông tin “Nơi đăng ký khai sinh” trên thẻ căn cước là không hợp lý, vì trong thực tế và theo quy định của pháp luật hiện hành, một người mất giấy khai sinh có thể đăng ký lại ở một nơi khác và trong trường hợp này có thể dẫn đến sự thay đổi thông tin về nơi đăng ký khai sinh.

Điều 20 dự thảo Luật quy định người được cấp thẻ căn cước gồm: Công dân Việt Nam. Do vậy, để bảo đảm tính logic, chặt chẽ, đại biểu Lương Văn Hùng đề nghị thay từ “Người” thành “Công dân Việt Nam” quy định tại khoản 2 Điều 20 dự thảo Luật thành: “2. Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên phải thực hiện thủ tục cấp thẻ căn cước. Công dân Việt Nam dưới 14 tuổi thực hiện cấp thẻ căn cước theo nhu cầu”.

Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cập nhật, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu, nhất là trách nhiệm của các cá nhân trực tiếp khai thác, sử dụng thông tin để thực hiện giao dịch, thủ tục hành chính với người dân. 

Đại biểu Đỗ Thị Lan - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đề nghị cần quy định rõ hơn trách nhiệm của Bộ Công an, sự phối hợp giữa Bộ Công an với các bộ, ngành liên quan và UBND các cấp trong khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu hoặc Chính phủ phải có lộ trình để đạt được các mục tiêu đặt ra trong luật này.

Có ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định thời gian có hiệu lực thi hành của Luật bảo đảm đủ để các cơ quan, tổ chức chuẩn bị tốt, đầy đủ về trang bị cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để thực hiện hiệu quả các quy định này.

Cũng tại phiên thảo luận Tổ, các đại biểu tham gia góp ý vào dự án Luật Viễn thông (sửa đổi)./.

Một số hình ảnh thảo luận tại Tổ 9:

Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương, Tổ trưởng Tổ 9 điều hành nội dung thảo luận

Các đại biểu tại phiên họp

Đại biểu Phạm Đại Dương - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực.

Đại biểu Trần Thị Kim Nhung - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh

Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy - Đoàn ĐBQH tỉnh Bến Tre đề nghị Điều 12 của dự thảo cần ghi rõ đối tượng, quyền bảo mật như thế nào và được quy định chi tiết hơn nữa trong Luật. Đại biểu cho rằng, tất cả nội dung quy định liên quan đến thông tin cá nhân thì phải quy định rõ trong Luật, không được giao Chính phủ hay Bộ Công an quy định chi tiết.

Đại biểu Đỗ Thị Lan - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đề nghị cần quy định rõ hơn trách nhiệm của Bộ Công an, sự phối hợp giữa Bộ Công an với các bộ, ngành liên quan và UBND các cấp, hoặc Chính phủ phải có lộ trình để đạt được các mục tiêu đặt ra trong luật này.

Đại biểu Dương Bình Phú - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên góp ý vào dự án Luật Viễn thông (sửa đổi)

Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên Phạm Đại Dương, Tổ trưởng Tổ 9 phát biểu kết luận nội dung thảo luận.

Bích Ngọc - Trọng Quỳnh

Các bài viết khác