CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ CẢ VỀ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN

28/10/2022

Việc xây dựng Luật Phòng thủ dân sự là rất cần thiết dựa trên cả 3 cơ sở: chính trị, pháp lý và thực tiễn. Ở nước ta, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các biện pháp ứng phó theo cấp độ phòng thủ dân sự dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện. Phóng viên Truyền hình Quốc hội Việt Nam có cuộc phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Tân Cương - Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban soạn thảo dự án Luật Phòng thủ dân sự.

CHÍNH PHỦ TRÌNH QUỐC HỘI DỰ ÁN LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ

XÂY DỰNG LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ: ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Phóng viên Truyền hình Quốc hội Việt Nam phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Tân Cương - Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban soạn thảo dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Phóng viên: Thưa Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, khi xây dựng Luật phòng thủ dân sự thì cử tri cũng như đại biểu Quốc hội quan tâm: Phòng thủ dân sự là gì? Và vì sao lại cần thiết xây dựng Luật này vào thời điểm hiện nay?

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương: Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước, bao gồm các biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân với phương châm hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, ổn định đời sống nhân dân, đưa hoạt động KT - XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh trở lại bình thường trong thời gian sớm nhất. Quan điểm trên đã được thể chế hóa tại khoản 1 Điều 13 Luật Quốc phòng năm 2018 và tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Nghị quyết số 22 ngày 30/8/2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo.

Việc xây dựng Luật Phòng thủ dân sự ở thời điểm hiện nay là rất cần thiết, bởi vì:

Thứ nhất, để thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng tại các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phòng thủ dân sự, như:

Nghị quyết số 28 ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới.

Nghị quyết số 22 ngày 30/8/2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo đã chỉ rõ “khẩn trương xây dựng Luật Phòng thủ dân sự; rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng thủ dân sự đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ phòng thủ dân sự trong tình hình mới”.

Thứ hai, để bảo đảm thực hiện đúng quy định của Hiến pháp 2013

- Hiến pháp 2013 quy định “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Và “Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Trong khi đó, phòng thủ dân sự là một nội dung của nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc, vì vậy, cần được thể chế hóa thành pháp luật.

- Mặt khác, các quy định về phòng thủ dân sự liên quan đến quyền con người, quyền công dân cần phải được quy định bằng văn bản luật để bảo đảm nguyên tắc hiến định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

Thứ ba, những năm qua, công tác phòng thủ dân sự đã góp phần to lớn vào việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhân dân, tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các biện pháp ứng phó theo cấp độ phòng thủ dân sự dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện.

Thứ tư, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác phòng thủ dân sự, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh, an toàn cho đất nước.

Từ những lý do trên, khẳng định việc xây dựng, ban hành Luật Phòng thủ dân sự trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết.

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương - Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban soạn thảo dự án Luật Phòng thủ dân sự.

Phóng viên: Hiện nay có tới 85 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng thủ dân sự. Vậy phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật được xác định như thế nào để tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật, vừa dễ hiểu, dễ thực hiện?

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương: Quá trình xây dựng dự án Luật Phòng thủ dân sự, Cơ quan soạn thảo đã tổ chức nghiên cứu, rà soát kỹ các văn bản liên quan. Để tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật, vừa dễ hiểu, dễ thực hiện, dự thảo Luật Phòng thủ dân sự chỉ quy định những nội dung, biện pháp chung liên quan đến hoạt động phòng thủ dân sự đáp ứng tình hình thực tiễn và một số vấn đề mới mà các luật khác chưa quy định, như: Xây dựng chiến lược, kế hoạch phòng thủ dân sự; các cấp độ phòng thủ dân sự; biện pháp ứng phó trong từng cấp độ phòng thủ dân sự; hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp, phòng thủ dân sự trong tình trạng chiến tranh; hoạt động phòng thủ dân sự trên các vùng biển Việt Nam không thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời, luật hóa các biện pháp chưa được pháp luật quy định nhưng do yêu cầu cấp thiết đã được áp dụng và phát huy hiệu quả trong thực tiễn (như: Giãn cách xã hội, bắt buộc sơ tán người, tài sản để bảo đảm an toàn; chính sách an sinh xã hội, khôi phục kinh tế,...).

Phóng viên: Việc xác định cấp độ phòng thủ dân sự dựa trên những tiêu chí nào để không gây thiếu thống nhất với các cấp độ rủi ro đã quy định trong các luật như: Luật Phòng chống thiên tai, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm, Luật Bảo vệ môi trường hay Luật Năng lượng nguyên tử, thưa đồng chí?

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương: Việc xác định cấp độ phòng thủ dân sự trong dự thảo Luật Phòng thủ dân sự dựa vào những tiêu chí rất cụ thể, rõ ràng, như:

Thứ nhất, Phạm vi ảnh hưởng, khả năng lan rộng của thảm hoạ, sự cố có nguy cơ dẫn tới thảm họa;

Thứ hai, Đặc điểm địa lý tự nhiên, KT-XH của địa bàn chịu ảnh hưởng của thảm họa, sự cố;

Thứ ba, Diễn biến, khả năng gây thiệt hại và thiệt hại do thảm họa, sự cố;

Thứ tư, Khả năng ứng phó với thảm họa, sự cố của chính quyền địa phương và lực lượng tham gia phòng thủ dân sự.

Các tiêu chí thứ nhất, thứ 2 và thứ 3 là những tiêu chí khách quan, thống nhất với các cấp độ rủi ro đã được quy định tại các luật liên quan đến phòng thủ dân sự. Riêng tiêu chí thứ tư là tiêu chí hết sức quan trọng và cần thiết để xác định cấp độ rủi ro cũng như mức độ thiệt hại mà các luật khác chưa quy định.

Như vậy, dự thảo Luật Phòng thủ dân sự quy định tiêu chí xác định cấp độ phòng thủ dân sự thống nhất với pháp luật hiện hành và bổ sung nội dung mà các luật khác chưa quy định, bảo đảm thống nhất, toàn diện hơn.

Phóng viên: Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự được quy định như thế nào để vừa gọn, vừa rõ cơ quan đầu mối, cơ quan chủ trì phụ trách chuyên ngành, chuyên môn?

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương: Vấn đề cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự đã được cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật dành nhiều thời gian nghiên cứu để khi đưa vào Luật phải bảo đảm tính thống nhất chung, phát huy hiệu quả hoạt động thực tiễn. Theo đó, dự thảo Luật quy định: Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự là tổ chức phối hợp liên ngành. Trong đó:

Cơ quan chỉ đạo quốc gia phòng thủ dân sự được thành lập trên cơ sở hợp nhất Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia; Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn. Người đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, thành viên là các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý ngành, lĩnh vực liên quan đến phòng thủ dân sự.

Cơ quan chỉ huy phòng thủ dân sự cấp bộ được thành lập trên cơ sở hợp nhất Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn và Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự cấp bộ. Người đứng đầu là lãnh đạo cơ quan cấp bộ; đầu mối chủ trì tham mưu là cơ quan phụ trách chuyên ngành, chuyên môn.

Cơ quan chỉ huy phòng thủ dân sự địa phương được thành lập ở các cấp chính quyền địa phương trên cơ sở hợp nhất Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn và Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự địa phương. Người đứng đầu là Chủ tịch UBND, đầu mối chủ trì tham mưu là các cơ quan  phụ trách chuyên ngành, chuyên môn.

Như vậy, cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự vừa bảo đảm tinh gọn bộ máy, vừa rõ ràng cơ quan đầu mối và phát huy được vai trò của cơ quan chủ trì phụ trách chuyên ngành, chuyên môn.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Thượng tướng Nguyễn Tân Cương - Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban soạn thảo dự án Luật Phòng thủ dân sự!

Khắc Phục