Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày báo cáo thẩm tra
Trình bày Báo cáo thẩm tra về kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2016; dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2017, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, năm 2016 là năm nền kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: tăng trưởng kinh tế thấp hơn kế hoạch; giá dầu, khí tiếp tục giảm và thấp hơn so với dự toán; tình hình thiên tai như rét đậm, rét hại kéo dài, lũ lụt, hạn hán trên diện rộng, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng do Công ty Formosa gây ra… Bối cảnh đó đã có những tác động không thuận lợi đến kết quả thực hiện nhiệm vụ thu, chi Ngân sách nhà nước.
Tỷ lệ giải ngân quá thấp làm giảm hiệu quả trong đầu tư
Chính phủ ước thực hiện chi Ngân sách nhà nước cả năm bằng 101,9% dự toán, tăng 24.500 tỷ đồng. Ủy ban Tài chính Ngân sách cho rằng, Chính phủ đã điều hành, quản lý chi Ngân sách nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm trong phạm vi dự toán được Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, công tác phân bổ, giao dự toán còn chậm, đến thời điểm tháng 9/2016 vẫn còn một số khoản chưa phân bổ như vốn 2 Chương trình mục tiêu quốc gia chưa thực hiện phân bổ cho các bộ, địa phương thực hiện. Đến đầu tháng 10/2016 vẫn còn khoảng 16.500 tỷ đồng vốn Trái phiếu Chính phủ và khoảng 2.700 tỷ đồng vốn Ngân sách nhà nước chưa phân bổ cho các dự án cụ thể.
Tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản nguồn Ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ chậm nhất so với cùng kỳ những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân: vẫn còn phân bổ vốn cho các dự án, công trình chưa đủ thủ tục đầu tư; giao vốn chậm; giải phóng mặt bằng chậm … Ủy ban Tài chính Ngân sách cho rằng, trong bối cảnh nguồn lực đầu tư hạn hẹp, khả năng huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhiều công trình, dự án đang cần được bổ sung vốn để sớm hoàn thiện, đưa vào sử dụng thì việc nhiều bộ, ngành, địa phương đã được phân giao vốn, song lại chưa giải ngân hoặc tỷ lệ giải ngân quá thấp đã dẫn đến tình trạng lãng phí, làm giảm hiệu quả trong đầu tư. Đề nghị Chính phủ bổ sung đánh giá, làm rõ hơn lý do và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân người đứng đầu của các cơ quan hữu quan dẫn đến tình trạng giải ngân chậm.
Ngoài ra, liên quan đến kết quả giải ngân vốn vay ODA: Ngày 13/7/2016, Chính phủ có Tờ trình số 204/CP- KTTH đề nghị được điều chuyển kế hoạch 50.000 tỷ đồng vốn nước ngoài năm 2016 đã được Quốc hội phân bổ chi tiết cho các bộ, ngành, địa phương, trích lập dự phòng, nhưng đến hết tháng 5/2016 mới chỉ giải ngân đạt 36,1% kế hoạch, nhiều bộ, ngành, địa phương có tỷ lệ giải ngân rất thấp hoặc chưa giải ngân. Ủy ban Tài chính Ngân sách đề nghị Chính phủ báo cáo rõ hơn về vấn đề này và khả năng hoàn thành dự toán, các tác động đến số bội chi Ngân sách nhà nước đã được Quốc hội quyết định.
Kết quả giám sát thực tế cho thấy, nhiều chính sách, chế độ chi Ngân sách nhà nước còn nợ, chưa hỗ trợ nguồn để các địa phương thanh toán như: hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà ở cho người có công, chính sách bảo trợ xã hội, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, Bảo hiểm y tế cho các đối tượng…Việc cấp phát vốn để thực hiện các chính sách, chế độ chủ yếu là tạm ứng với số lượng hạn chế đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ ở nhiều địa phương.
Các đại biểu Quốc hội tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV Ảnh: Đình Nam
Bảo đảm tính chủ động trong điều hành Ngân sách nhà nước
Ủy ban Tài chính Ngân sách nhất trí với dự toán thu Ngân sách Nhà nước năm 2017 là 1.212.180 tỷ đồng và cho rằng Chính phủ xây dựng mức tăng 16,7% so với ước thực hiện năm 2016 là tích cực, song đề nghị lưu ý một số vấn đề.
Một là, dự toán thu nội địa 990.280 tỷ đồng, nếu loại trừ thu tiền sử dụng đất, thu từ hoạt động xổ số kiến thiết, tiền bán bớt phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thu cổ tức và lợi nhuận sau thuế và một số khoản thu mới đưa vào cân đối, thì thu nội địa tăng ở mức 14% so với ước thực hiện năm 2016. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, đây là mức tăng khá cao, có thể gây rủi ro trong cân đối; đặc biệt, đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng thu 8% là khó khăn, vì trong những năm gần đây, mức tăng bình quân của khu vực doanh nghiệp này chỉ vào khoảng 4-5%; tương tự, đối với thu ngoài quốc doanh dự toán tăng 20% là mức tăng tương đối cao. Vì vậy, một số ý kiến cho rằng Chính phủ cần tính toán kỹ, bảo đảm tính chủ động trong điều hành Ngân sách nhà nước.
Hai là, đa số ý kiến trong Ủy ban Tài chính Ngân sách tán thành với đề xuất của Chính phủ về việc thu khoảng 60.000 tỷ đồng từ bán bớt phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp để tăng chi đầu tư phát triển. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, việc bán vốn cổ phần của nhà nước phụ thuộc vào điều kiện thị trường, để đảm bảo cân đối Ngân sách nhà nước chắc chắn, đề nghị Chính phủ cân nhắc, có thể chỉ dự toán thu hoạt động này khoảng 30 nghìn tỷ đồng, bằng năm 2016 để tránh rủi ro cho cân đối Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc bán vốn nhà nước thông qua cổ phần hóa doanh nghiệp phải bảo đảm mang lại hiệu quả cao, không để thất thoát, lãng phí. Đồng thời, cân nhắc việc sử dụng nguồn thu này để chi cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế, tránh việc chuyển vốn đầu tư của nhà nước thành vốn tiêu dùng.
Ba là, đối với thu từ dầu thô: Chính phủ dự toán thu 38.300 tỷ đồng trên cơ sở sản lượng 12,28 triệu tấn, giá dầu bình quân 50 USD/thùng và tăng tỷ lệ để lại cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam từ 25% lên 28%. Ủy ban Tài chính Ngân sách tán thành với phương án Chính phủ đề xuất.
Bốn là, Ủy ban Tài chính Ngân sách đề nghị Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, phát hiện kịp thời hành vi gian lận, trốn thuế, chuyển giá… để truy thu vào Ngân sách nhà nước; tăng cường đôn đốc thu hồi nợ thuế, đảm bảo giảm tỷ lệ nợ đọng về mức quy định, tổ chức chống thất thu ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tăng thêm nguồn đáp ứng nhu cầu chi, góp phần giảm bội chi.
Bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn
Chính phủ dự toán bội chi Ngân sách nhà nước năm 2017 khoảng 3,5%GDP. Ủy ban Tài chính Ngân sách cho rằng, đây là mức bội chi tích cực, cần kiên định thực hiện mức bội chi này để bảo đảm các tỷ lệ nợ công trong giới hạn an toàn, trong trường hợp thu không đạt dự toán thì phải giảm chi, không tăng bội chi Ngân sách nhà nước. Trường hợp tăng thu Ngân sách nhà nước thì ưu tiên giảm bội chi theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Đây cần được coi là một nguyên tắc quan trọng, cần được quán triệt thống nhất trong điều hành Ngân sách nhà nước trong giai đoạn ổn định ngân sách mới 2017-2020.
Về nguyên tắc dự toán chi Ngân sách nhà nước, Ủy ban Tài chính Ngân sách cho rằng, cần cơ cấu lại các khoản chi Ngân sách nhà nước, có lộ trình thực hiện giảm dần chi thường xuyên trên tinh thần chi tiêu tiết kiệm; tập trung nguồn để bố trí tăng chi đầu tư phát triển hợp lý, tăng chi trả nợ trực tiếp của Ngân sách nhà nước.
Việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công sẽ hướng tới mục tiêu giảm dần chi thường xuyên từ Ngân sách nhà nước, tuy nhiên, dự toán năm 2017 chưa thể hiện rõ được điều này, đề nghị Chính phủ rà soát, tính toán kỹ hơn. Một số ý kiến cho rằng để quy định này có tính khả thi, Chính phủ cần công bố công khai lộ trình cắt giảm hỗ trợ của Ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực sự nghiệp công đã được xã hội hóa.
Về chi thường xuyên, Ủy ban Tài chính Ngân sách nhất trí với những giải pháp tiết kiệm tối đa chi thường xuyên, song để đảm bảo tính khả thi, đề nghị Chính phủ chỉ rõ tiết kiệm ở những lĩnh vực chi, khoản chi, mục chi nào. Tỷ trọng chi thường xuyên trong dự toán chi Ngân sách nhà nước năm 2017 vẫn cao hơn ước thực hiện năm 2016 cho thấy, chưa thực hiện được mục tiêu giảm dần chi thường xuyên để tăng chi đầu tư phát triển. Một số ý kiến đề xuất cần mở rộng thêm việc áp dụng chế độ khoán xe công và một số lĩnh vực khác để tăng cường tiết kiệm, giảm áp lực chi tiêu công.
Về bố trí điều chỉnh tiền lương cơ sở, một số ý kiến trong Ủy ban Tài chình Ngân sách cho rằng, trong điều kiện giá cả tăng cao, đời sống của cán bộ, công chức gặp không ít khó khăn, vì vậy, tán thành với đề xuất của Chính phủ về việc tăng mức lương cơ sở 7% (đạt mức 1.300.000 đồng/tháng). Tuy nhiên, việc điều chỉnh tiền lương phải đi đôi với tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả công việc, đẩy mạnh cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công.