CHỦ NHIỆM ỦY BAN QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH BÁO CÁO THẨM TRA SƠ BỘ DỰ ÁN LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

25/03/2020

Báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Biên phòng Việt Nam do Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An Ninh Võ Trọng Việt trình bày đề cập đến nhiều vấn đề: Phạm vi điều chỉnh, lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, chế độ, chính sách cho bộ đội biên phòng...

Thực hiện Chương trình làm việc Phiên họp thứ 43, sáng ngày 25/03, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về Dự án Luật Biên phòng Việt Nam.

Báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Biên phòng Việt Nam do Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An Ninh Võ Trọng Việt nêu rõ: Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An Ninh (UBQPAN) cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Biên phòng Việt Nam như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ, nhằm thể chế hóa đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về biên giới quốc gia, trong đó có Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính thống nhất với các luật hiện hành; khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) và các văn bản pháp luật khác có liên quan, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới và nâng cao hiệu quả hoạt động của BĐBP, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. 


Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An Ninh Võ Trọng Việt trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Biên phòng Việt Nam.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, Tờ trình chưa làm rõ được sự cần thiết ban hành luật nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia tại Nghị quyết số 33-NQ/TW.

Ý kiến khác nhau về tên gọi và phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật Biên phòng Việt Nam

Một số ý kiến cơ bản nhất trí với tên gọi “Luật Biên phòng Việt Nam” với những lý do đã được nêu tại Tờ trình của Chính phủ, phù hợp với Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.

Một số ý kiến cho rằng, phạm vi điều chỉnh như Dự án Luật rộng, chưa thật rõ ràng và logic với nội dung giải thích cụm từ “Biên phòng” tại khoản 1 Điều 2; nhiều nội dung trùng với quy định của Luật Biên giới quốc gia nên cần xác định đây là luật chuyên ngành và trên cơ sở cụ thể hóa khoản 2 Điều 31 Luật Biên giới quốc gia chỉnh lý theo hướng chỉ quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động, chế độ, chính sách đối với lực lượng BĐBP và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Theo đó đề nghị sửa tên Luật là “Luật Bộ đội Biên phòng” hoặc “Luật Bộ đội Biên phòng Việt Nam” hoặc “Luật Lực lượng Bộ đội biên phòng Việt Nam”.

Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Việt Nam” tại tên luật cho phù hợp với quy định “Bộ đội biên phòng là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng” tại Nghị quyết số 33-NQ/TW và Bộ đội biên phòng không có thẩm quyền ký Điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; có ý kiến đề nghị xây dựng “Luật Biên phòng” và “Luật Bộ đội biên phòng” và sớm sửa đổi Luật Biên giới quốc gia cho thống nhất.

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh thấy rằng, việc xác định đúng tên gọi của luật có ý nghĩa quyết định đến phạm vi điều chỉnh và bố cục, nội dung của dự thảo Luật. Nếu giữ tên luật là “Luật Biên phòng Việt Nam” thì cần phải rà soát, đánh giá kỹ các quy định pháp luật về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và khu vực biên giới, tránh chồng chéo với các quy định có liên quan của các luật khác, nhất là Luật Biên giới quốc gia năm 2003, đồng thời góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để xây dựng Bộ đội biên phòng hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Về nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng (Điều 15): Có ý kiến cho rằng, dự án Luật quy định Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý theo quy định pháp luật dễ gây hiểu lầm là kiểm soát toàn bộ cả người, phương tiện, hàng hóa dẫn đến chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Hải quan theo Luật hải quan năm 2014 và nhiều Điều ước quốc tế có liên quan, nên đề nghị quy định cụ thể về đối tượng kiểm soát. Có ý kiến đề nghị rà soát, bổ sung các nhiệm vụ khác cho phù hợp với vị trí, chức năng của Bộ đội biên phòng tại Điều 14 dự thảo Luật.

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu rà soát, chỉnh lý nội dung hai điều này để tránh chồng chéo, trùng lặp và bảo đảm tính khả thi; xác định nhiệm vụ chủ trì, phối hợp giữa Bộ đội biên phòng và Hải quan trong kiểm soát người và phương tiện qua cửa khẩu.

Bỏ khoản 1 quy định nhân dân ở khu vực biên giới là lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bỏ khoản 1 quy định nhân dân ở khu vực biên giới là lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, vì Hiến pháp và một số luật đã quy định quyền, nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Theo đó, chỉ có cơ quan, tổ chức mới là lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng; quy định cụ thể về lực lượng nòng cốt, lực lượng chuyên trách thực thi nhiệm vụ biên phòng cho phù hợp với quan điểm của Đảng và khoản 2 Điều 31 Luật Biên giới quốc gia.


Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội góp ý cho Dự án Luật Biên phòng Việt Nam.

Về phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 10): Một số ý kiến cơ bản nhất trí với dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị cân nhắc Điều này, vì khoản 1 Điều 36 Luật Biên giới quốc gia đã giao Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi trách nhiệm phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có biên giới quốc gia thực hiện quản lý nhà nước về biên giới quốc gia.

Có ý kiến đề nghị làm rõ chức trách, phạm vi phối hợp của các Bộ, ngành, đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp thực thi hoặc cần có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn; làm rõ nội dung phối hợp “xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới” tại điểm d khoản 3 cho phù hợp với điểm e khoản 2 Điều 24 Luật Quốc phòng; bổ sung nội dung phối hợp trong việc “giữ gìn trật tự, an toàn xã  hội ở khu vực biên giới” cho phù hợp với khoản 2 Điều 31 Luật Biên giới quốc gia.

Có ý kiến cho rằng, điểm a và điểm b khoản 1 mâu thuẫn về vai trò chủ trì, phối hợp; có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình” vào đầu điểm a và điểm b khoản 1 cho rõ ràng hơn.

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu theo hướng chỉ nên quy định nguyên tắc chung và những nội dung phối hợp cơ bản và giao Chính phủ quy định chi tiết; rà soát để tránh chồng chéo về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại dự thảo Luật và với các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Về quyền hạn của Bộ đội biên phòng (Điều 16): Một số ý kiến cơ bản nhất trí với dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị rà soát lại Điều này cho thống nhất với Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự; Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Phòng, chống ma túy; Luật Phòng, chống mua bán người…

Có ý kiến đề nghị rà soát, quy định về các trường hợp và thẩm quyền hạn chế hoặc tạm dừng các hoạt động ở khu vực biên giới, cửa khẩu, qua lại biên giới tại khoản 3 cho phù hợp với Điều 21 Luật Biên giới quốc gia. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về huy động người và một số phương tiện như một số luật đã ban hành để dễ thực hiện, trong khi hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về việc huy động này.

Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại Điều này để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, tránh hạn chế quyền con người, quyền công dân và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Bộ đội biên phòng.

Đảm bảo chế độ, chính sách cho bộ đội biên phòng như lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam

Báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Biên phòng Việt Nam còn cho thấy, một số ý kiến cơ bản nhất trí như dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị rà soát lại Chương này để tránh chồng chéo với các quy định khác của pháp luật có liên quan, tránh làm tăng ngân sách; đề nghị nghiên cứu quy định rõ hơn về chế độ, chính sách đối với Bộ đội biên phòng như Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc Điều 22 về bảo đảm nguồn nhân lực vì cho rằng, dự thảo Luật quy định còn chung chung và chưa rõ về tiêu chí, tiêu chuẩn. Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đề nghị Ban soạn thảo rà soát, nghiên cứu để quy đầy đủ các chế độ, chính sách về biên phòng, bảo đảm tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng này./.

Bích Lan