Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình dự án Luật
Trình bày Tờ trình dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nêu rõ, qua hơn 6 năm triển khai thực hiện, Luật đã góp phần quan trọng trong huy động vốn cho bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước; tạo điều kiện cho địa phương huy động vốn vay phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Thứ nhất, về mặt pháp luật còn có quan điểm khác nhau về phạm vi nợ công, cần có thống nhất; yêu cầu đặt ra đối với việc có khuôn khổ pháp lý đầy đủ, phù hợp cho việc lập, thực hiện, giám sát thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch về nợ công để tương thích với các Luật mới ban hành như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công và tiệm cận với thông lệ tốt của quốc tế. Thứ hai, công tác quản lý nợ công cũng đã bộc lộ một số bất cập chủ yếu; nợ công, nợ Chính phủ tăng nhanh gây áp lực lớn lên nghĩa vụ trả nợ; việc phân bổ, sử dụng vốn vay cho đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao; còn thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư với cân đối trả nợ.
Vì vậy, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công để cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội thành chính sách, pháp luật của Nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới là hết sức cần thiết. Theo đó, Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) gồm 10 Chương, 67 Điều so với 7 Chương, 49 Điều của Luật Quản lý nợ công năm 2009. Về bố cục, Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) bổ sung 3 chương mới, 18 Điều so với Luật hiện hành và sửa đổi 44 trong tổng số 49 Điều của Luật hiện hành. Dự thảo Luật có một số nội dung sửa đổi chủ yếu về phạm vi nợ công; Về nguyên tắc quản lý nợ công; Về chỉ tiêu an toàn, chiến lược, chương trình và kế hoạch vay trả nợ công; Về nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan; Về huy động, sử dụng vốn vay của Chính phủ; Về điều kiện cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ; Về điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ; Về quản lý rủi ro đối với nợ công; Về các loại phí.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra
Thẩm tra dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi), Ủy ban Tài chính- Ngân sách tán thành về sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt việc sửa đổi phải góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công trong tình hình mới.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Khoản 4 Điều 15 Dự thảo luật quy định Quốc hội có thẩm quyền quyết định phương án bổ sung dự toán Ngân sách nhà nước trong trường hợp Quỹ tích lũy trả nợ không đủ nguồn dự phòng để xử lý rủi ro đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và vay về cho vay lại.
Đa số ý kiến trong Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị Chính phủ rà soát, cân nhắc kỹ đối với quy định này vì Quỹ tích lũy trả nợ được thành lập, xác định cụ thể nguồn thu theo quy định tại Điều 59 Dự thảo luật và việc thành lập Quỹ là nhằm bảo đảm khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản vay về cho vay lại, dự phòng rủi ro phát sinh từ việc cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ. Do đó, Chính phủ có trách nhiệm quản lý, điều hành chi chặt chẽ theo đúng quy định và trong phạm vi nguồn thu của Quỹ, bảo đảm an toàn Quỹ, không bổ sung nguồn từ Ngân sách nhà nước cho Quỹ để xử lý rủi ro đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và vay về cho vay lại.
Về trách nhiệm trong quản lý vay nợ, các điều tại Chương III của Dự thảo luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ, cơ quan ngang bộ,... song mới chỉ dừng ở những quy định liên quan đến nội dung công việc các cơ quan này thực hiện mà chưa phân định rõ chế độ trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Để bảo đảm quyền hạn gắn liền với trách nhiệm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, đề nghị bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền quyết định và các đối tượng có liên quan trong toàn bộ quy trình huy động, thẩm định, phân bổ, quản lý, sử dụng nợ công, đặc biệt trong trường hợp sử dụng vốn vay không hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của một số bộ, ngành, Điều 19 Dự thảo luật quy định theo hướng Bộ Tài chính là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công; Điều 20 giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà nước đối với nguồn vốn ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, làm đầu mối vận động, ký kết hiệp định khung; Điều 21 giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế,...
Nhiều ý kiến trong Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị quy định theo hướng chỉ giao một cơ quan là đầu mối thống nhất theo sự phân công của Chính phủ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nợ công, trong đó bao gồm cả chức năng quản lý nhà nước đối với nguồn vốn ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài, làm đầu mối thống nhất vận động, đàm phán hiệp định khung, hiệp định vay, phân bổ, sử dụng vốn, trả nợ vay,... vì quy định như Dự thảo luật chưa phù hợp với yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững là phải bảo đảm tập trung thống nhất trong quản lý về nợ công nhằm sớm khắc phục tình trạng “quản lý đầu tư công, nợ công còn chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm cân đối ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn”.
Bên cạnh đó, việc quy định nhiều cơ quan cùng là đầu mối quản lý nợ công như hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính và sẽ không khắc phục được các hạn chế đang diễn ra trên thực tế, nhiều cơ quan cùng quản lý nợ công ở các công đoạn khác nhau, dẫn đến tình trạng quản lý phân tán, việc phối hợp chưa chặt chẽ nên công tác theo dõi, tổng hợp báo cáo, quyết toán, thống kê, đặc biệt việc xác định trách nhiệm vay, trả nợ, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, bố trí vốn đối ứng còn khó khăn, bất cập. Thông lệ tốt được nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện là quy định rõ một đầu mối quản lý tập trung, thống nhất nguồn lực nợ công. Trường hợp cần thiết sẽ điều chỉnh các Luật có liên quan cho phù hợp.