Hội thảo Giáo dục 2023 do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội phối hợp tổ chức
Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng đã xác định Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 03 khâu đột phá chiến lược nhằm đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Rõ ràng, đây là một chủ trương lớn vô cùng đúng đắn vì thực tiễn cũng như các nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng, một trong những nguyên nhân làm nhiều quốc gia không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình chính là chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được các yêu cầu chuyển dịch của nền kinh tế. Trong đó, giáo dục đại học đóng một vai trò vô cùng quan trọng với tất cả các nước vì đây chính là “nguồn cung” lao động chất lượng cao chủ yếu.
Còn khoảng cách giữa đào tạo trong nhà trường và thực tế làm việc tại doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề bức xúc của ngành giáo dục đại học ở nước ta là đào tạo chưa gắn liền với nhu cầu của xã hội, trong đó đặc biệt là nhu cầu của các doanh nghiệp. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp khó tìm được việc làm hoặc công việc không phù hợp với chuyên môn được đào tạo.
Đại tá Dương Xuân Phượng, Phó Giám đốc Học viện Viettel
Nêu ý kiến tại Hội thảo Giáo dục 2023 do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức, Đại tá Dương Xuân Phượng, Phó Giám đốc Học viện Viettel cho biết, gần đây, qua khảo sát 100 sinh viên, lựa chọn từ 2.000 hồ sơ đăng ký tham gia chương trình thực tập sinh tài năng Viettel Digital Talent và kết quả cho thấy, 3/4 các em tự nhận xét những gì mình được học chỉ đáp ứng dưới 75% yêu cầu công việc, chỉ 2% cho rằng với những gì mình được trang bị có thể đáp ứng trên 90% yêu cầu. Tỷ lệ này là khá tương đồng với nhận định của các cán bộ được giao hướng dẫn, kèm cặp.
Dẫn chứng này cho thấy vẫn tồn tại khoảng cách giữa nội dung đào tạo trong nhà trường và thực tế làm việc tại doanh nghiệp. Mặc dù những năm gần đây, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi, xuất sắc rất cao, có khi lên đến 99% trong khi thực tế năng lực đáp ứng chưa tới 70% yêu cầu công việc. Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến quý I/2022, trong hơn 51,2 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, tỷ lệ dân số có chuyên môn kỹ thuật chỉ đạt 26,1% và tỷ lệ dân số có trình độ đại học là 11,1%.
Tạo điều kiện “bắt tay” chặt chẽ giữa đại học và doanh nghiệp
Điều này cho thấy Việt Nam đang thiếu lao động có tay nghề cũng như công nhân kỹ thuật bậc cao. Các nghiên cứu còn cho thấy, nguồn cung nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khan hiếm thời gian tới. Vì thế, các doanh nghiệp sẽ còn cần phải đào tạo lại nếu muốn có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu.
Để không chậm nhịp phát triển, mấu chốt là bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo theo “tín hiệu thị trường”, cập nhật nội dung đào tạo gắn với yêu cầu của doanh nghiệp. Theo Đại tá Dương Xuân Phượng, thay vì chỉ đặt ra câu hỏi đến trường “học được kiến thức gì” thì cần hỏi “học xong có thể làm được gì”. Khảo sát nhu cầu thị trường chính là giải pháp góp phần tránh tình trạng lệch pha cung - cầu. Để làm được điều này, các trường đại học cần xây dựng và duy trì kết nối thường xuyên với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp liên quan đến đúng ngành nghề đào tạo của nhà trường.
PGS.TS Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực
Cùng quan điểm, Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, PGS.TS Lưu Bích Ngọc cho rằng, chủ trương về “mô hình ba nhà”, gồm Nhà nước - Nhà trường và Nhà doanh nghiệp ở Việt Nam đã được thể chế hóa nhưng đến nay chủ yếu vẫn dừng lại trên văn bản. Thực tế việc cụ thể hóa chủ trương này hiện còn rất thiếu, chưa tạo được môi trường chính sách, cơ chế cần thiết để tạo dựng quan hệ hợp tác bền chặt giữa trường đại học và doanh nghiệp. Do đó, thời gian tới, hệ thống pháp luật phải khắc phục thực trạng trên, tạo điều kiện cho sự “bắt tay” chặt chẽ giữa đại học và doanh nghiệp, từ đó mang lợi ích cho cả hai khối.
Cần đặt “tự chủ đại học” làm trung tâm trong vấn đề xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách
Cho rằng tự chủ như một động lực để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, GS.TS. Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường, Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, cần bảo đảm đủ số lượng nhưng chất lượng nhân lực cũng cần được đặc biệt coi trọng. Đơn cử ở ngành y, theo lộ trình nhân lực y tế đến năm 2030 chúng ta cơ bản đạt được, không cần tăng số lượng nữa song phải tăng chất lượng. Nghĩa là trong giai đoạn tới quy định mở ngành, mở trường, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực cho ngành… phải đồng bộ, nhất quán, cốt lõi là bảo đảm chất lượng.
GS.TS. Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường, Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Theo GS.TS Trần Diệp Tuấn, nhìn rộng ra thúc đẩy tự chủ đại học đúng nghĩa chính là thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học tập trung vào chất lượng. Vấn đề là cơ chế, chính sách phải để các trường thoát khỏi “mũ” đơn vị sự nghiệp công lập theo kiểu quản lý bao cấp.
Theo Giám đốc Đại học Đà Nẵng, PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ, trong bối cảnh hiện nay, cần đặt “tự chủ đại học” làm trung tâm trong vấn đề xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách. Theo đó, hệ thống pháp luật cần đồng bộ, nhất quán, tính tới yếu tố đặc thù của các trường đại học trong số các đơn vị sự nghiệp công lập, tính đến vai trò sở hữu, vai trò bộ chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học tư thục.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ, Giám đốc Đại học Đà Nẵng
PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ cho rằng, để khắc phục hạn chế, bất cập, thúc đẩy kiến tạo, đổi mới tự chủ đại học trở thành khâu đột phá, động lực mới để phát triển, chúng ta cần một loạt nhóm giải pháp trọng tâm. Trong đó, trước hết là nâng cao nhận thức, hoàn thiện pháp lý về tự chủ đại học.
Theo đó, cần hoàn thiện pháp lý tự chủ đại học tiếp cận trên quan điểm về chủ sở hữu. Cơ chế, chính sách về đổi mới tự chủ đại học không những cần đáp ứng mục tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn của cơ sở giáo dục đại học mà phải bám sát yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đặc biệt là chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao./.