TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC DÂN NGUYỆN GIỮA QUỐC HỘI VIỆT NAM VÀ QUỐC HỘI CHDCND LÀO
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đại biểu tham dự cuộc làm việc với Ban Dân nguyện, ngày 17.5.2021
Khẳng định tầm quan trọng của công tác dân nguyện của Quốc hội
Phóng viên: Công tác dân nguyện có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều này thể hiện ngay từ sự quan tâm của Đảng, trực tiếp là Quốc hội với công tác này. Ông có thể chia sẻ đôi điều về những dấu mốc nổi bật của công tác dân nguyện?
Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình: Từ khi mới ra đời, Đảng ta luôn coi trọng công tác dân nguyện. Ngay từ khi mới giành được độc lập và thành lập Nhà nước, tại Điều thứ 1 của bản Hiến pháp năm 1946 đã quy định: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Cũng từ đó, công tác dân nguyện ngày càng được quan tâm và trở thành một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong hoạt động của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Đoàn ĐBQH, các cơ quan của Quốc hội.
Về quá trình tổ chức và hoạt động công tác dân nguyện của Quốc hội: ngay từ nhiệm kỳ Quốc hội Khóa I đã thành lập cơ quan chuyên trách làm công tác dân nguyện, đó là Tiểu Ban Dân nguyện do Ban Thường trực Quốc hội thành lập. Tiểu ban Dân nguyện có trách nhiệm nghiên cứu các đơn từ, nguyện vọng, các ý kiến của nhân dân đề đạt lên Quốc hội và phối hợp với các cơ quan của Chính phủ để giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Tuy nhiên, Tiểu ban này cũng chỉ tồn tại từ sau Kỳ họp thứ 6 (tháng 1.1957) đến sau Kỳ họp thứ 11 (1959). Sau đó, Ban thường trực Quốc hội đã giao cho Tiểu ban nghiên cứu tình hình các HĐND địa phương kiêm phụ trách cả công việc của Tiểu ban Dân nguyện trước đây.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội Khóa II đến Khóa VI, việc tiếp công dân, xem xét, xử lý đơn, thư của công dân được giao cho Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm nhiệm và do một Ủy viên thư ký của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phụ trách công tác này.
Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa VII và Khóa VIII, việc tiếp công dân, xử lý đơn, thư dân nguyện và khiếu nại, tố cáo được Quốc hội giao cho Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa IX và Khóa X, việc tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và đề đạt nguyện vọng của Nhân dân do Văn phòng Quốc hội đảm nhiệm. Và, Vụ Dân nguyện của Văn phòng Quốc hội thực hiện nhiệm vụ này dưới sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của một Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khóa IX là đại biểu kiêm nhiệm, Khóa X là ĐBQH chuyên trách).
Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình
Như vậy, trong thời gian này, việc tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị do Vụ Dân nguyện thực hiện dưới sự chỉ đạo của Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội phụ trách công tác dân nguyện (do Quốc hội bầu). Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Kết luận số 168/UBTVQH10 và Công văn số 169/UBTVQH10 ngày 23.1.1999 quy định về việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thì Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo Vụ Dân nguyện tiếp nhận, phân loại và chuyển đến các cơ quan của Quốc hội xử lý theo lĩnh vực phụ trách, tuy nhiên những đơn, thư liên quan đến đất đai trong lĩnh vực hành chính vẫn do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội phụ trách công tác dân nguyện xử lý, số đơn, thư này chiếm khoảng 60% tổng số đơn, thư của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Việc tập hợp, tổng hợp, chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, từ Quốc hội Khóa X trở về trước được giao cho Văn phòng Quốc hội đảm nhiệm và do Vụ Hoạt động đại biểu thực hiện dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Văn phòng Quốc hội.
Phóng viên: Được quan tâm chỉ đạo từ rất sớm và một trong những dấu mốc đáng nhớ là năm 2003 khi Ban Dân nguyện được thành lập với vị trí là một cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điều này có ý nghĩa như thế nào với công tác dân nguyện của Quốc hội, thưa ông?
Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình: Ngày 17.3.2003, Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thành lập theo Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11. Việc thành lập Ban Dân nguyện đánh dấu sự thay đổi việc đánh giá tầm quan trọng của công tác dân nguyện của Quốc hội rằng cần thiết phải có một cơ quan, có thể ở cấp độ thấp hơn Ủy ban của Quốc hội để đảm nhiệm một phần các công việc liên quan đến nguyện vọng của Nhân dân và coi đây cũng là bước chuẩn bị, thử nghiệm trên thực tế để tiến tới thành lập một cơ quan độc lập. Bởi lẽ, từ cuộc tổng tuyển cử năm 1946 để bầu ra Quốc hội đầu tiên đến năm 2003 đã có 10 khóa Quốc hội hoạt động, nhưng trước năm 2003, công tác dân nguyện được hiểu chỉ trong phạm vi tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý (chuyển) đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và lãnh đạo Quốc hội.
Từ đó đến nay, công tác dân nguyện đã từng bước được tăng cường và đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận. Đặc biệt là những năm gần đây, hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng như việc giải quyết kiến nghị của cử tri đã được quan tâm hơn. Việc làm đó đã góp phần thúc đẩy trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của Nhân dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, được dư luận xã hội và cử tri đồng tình và ủng hộ. Thông qua việc thực hiện công tác dân nguyện, đã nghiên cứu, đề xuất với Quốc hội những vấn đề liên quan đến việc hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Những thành tích đó đã góp phần quan trọng vào thành tích chung trong hoạt động của Quốc hội.
Những năm trước đây, công tác giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri tuy đã có quy định của pháp luật, nhưng trên thực tế, chúng ta chưa làm được bao nhiêu. Từ năm 2009, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết tâm thực hiện và bước đầu, chúng ta đã đạt được những kết quả có ý nghĩa thiết thực. Về nguyên tắc, Quốc hội là cơ quan dân cử, người dân ủy nhiệm việc thực hiện quyền làm chủ của mình cho ĐBQH, thì nhất thiết Quốc hội, ĐBQH phải có trách nhiệm trước ý kiến, kiến nghị của Nhân dân và cử tri. Về những vấn đề mà Nhân dân đề xuất, kiến nghị thì dù chúng ta đã làm được hay chưa làm được cũng đều phải trả lời cho dân biết. Việc làm đó, vừa thể hiện sự tôn trọng và trách nhiệm với cử tri, vừa cung cấp thêm thông tin cho chính các ĐBQH khi thảo luận thông qua các dự án luật cũng như khi quyết định những quyết sách về quốc kế dân sinh.
Từ khi thành lập vào năm 2003 đến nay, Ban Dân nguyện luôn quán triệt, triển khai thực hiện theo các nghị quyết của Đảng với những chủ trương, định hướng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phát huy dân chủ XHCN, tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động để phát huy tối đa vị trí, vai trò là cơ quan tham mưu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đã được ghi nhận tại các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Dân nguyện đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, đạt được nhiều kết quả rất đáng ghi nhận, được đánh giá cao qua các nhiệm kỳ Quốc hội.
Nhiều kiến nghị sau giám sát được tiếp thu giải quyết, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cử tri
Phóng viên: Theo chức năng, nhiệm vụ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, Ban Dân nguyện đảm trách khá nhiều công việc. Một trong những công việc như vậy liên quan đến giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri. Ông có thể chia sẻ thêm về những kết quả này?
Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình: Theo chức năng, nhiệm vụ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao qua các giai đoạn lịch sử từ khi thành lập năm 2003 đến nay, Ban Dân nguyện đảm trách khá nhiều công việc. Cụ thể, đó là những công việc liên quan đến: công tác tiếp công dân; tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn, thư của công dân; thực hiện hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo chức năng, nhiệm vụ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; tổng hợp, chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; giám sát việc giải quyết kiến nghị của của tri. Ngoài ra, Ban Dân nguyện cũng thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến công tác xây dựng pháp luật và nghiên cứu khoa học; các nhiệm vụ do Đảng Đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; hướng dẫn thực hiện công tác dân nguyện của Quốc hội và HĐND.
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XI, tại nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII, Ban Dân nguyện đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao nhiệm vụ giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết nghị cử tri tại Nghị quyết số 695/2008/NQ-UBTVQH12 ngày 15.10.2008. Ban Dân nguyện đã đề xuất và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao chuẩn bị báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri báo cáo tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII. Từ Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XII đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giao cho Ban Dân nguyện tiến hành giám sát, báo cáo kết quả giám sát với Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chuẩn bị báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri trình Quốc hội.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri, trước mỗi kỳ họp Ban Dân nguyện đã xây dựng dự thảo báo cáo; tổ chức hội nghị với đại diện các bộ, ngành, cơ quan có thẩm quyền giải quyết kiến nghị của cử tri để trao đổi về kết quả dự thảo Báo cáo giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri do Ban Dân nguyên xây dựng, hoàn thiện Báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội tại các kỳ họp. Nhiều kiến nghị sau giám sát đã được Chính phủ, bộ, ngành tiếp thu giải quyết góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cử tri.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, Ban đã nghiên cứu, lựa chọn một số nội dung bức xúc, cử tri nhiều địa phương kiến nghị, kiến nghị nhiều lần, mặc dù các cơ quan có trách nhiệm đã giải quyết, trả lời nhưng cử tri chưa đồng tình, tiếp tục kiến nghị để tiến hành giám sát. Ban Dân nguyện đã tổ chức nghiên cứu, phân loại, đánh giá toàn bộ kết quả giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri theo các tiêu chí cụ thể như đã, đang, sẽ giải quyết hoặc được các cơ quan ghi nhận giải quyết để phục vụ công tác đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết. Ban Dân nguyện đã từng bước cải tiến cách thức tiến hành giám sát, như đã tổ chức nhiều lượt làm việc với các bộ, ngành có liên quan để làm rõ thêm những vấn đề, nội dung tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tế để kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, giải quyết khó khăn cho người dân, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cử tri; yêu cầu giải trình thêm đối với những kiến nghị được trả lời còn chung chung hoặc chưa tập trung trả lời đúng trọng tâm của kiến nghị.
Thông qua công tác giám sát việc giải quyết, trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri, Ban Dân nguyện đã tham mưu, đề xuất và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, kiến nghị các cơ quan hữu quan nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới trên 870 văn bản pháp quy liên quan đến các vấn đề dân sinh bức xúc, đời sống của người dân.
Thông qua các giám sát chuyên đề, Ban đã đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, kiến nghị với Quốc hội sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan đến đời sống, dân sinh bức xúc, những vấn đề mà cử tri địa phương kiến nghị nhiều lần, nhiều địa phương cùng kiến nghị...
Phóng viên: Kể từ dấu mốc 2003 đến nay, Ban Dân nguyện kỷ niệm tròn 20 năm thành lập. Trong hành trình đó, đâu là động lực để Ban Dân nguyện hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, thưa ông?
Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình: Đạt được những thành tích trên đây, thời gian qua Ban Dân nguyện luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao, chặt chẽ của các đồng chí lãnh đạo Đảng đoàn Quốc hội, lãnh đạo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các nhiệm kỳ XI, XII, XIII, XIV và XV.
Từ những năm đầu thành lập cho đến nay, Ban Dân nguyện luôn hoạt động theo vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ được giao, bám sát và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân nguyện của Quốc hội, kế thừa những kinh nghiệm, thành tựu trong công tác dân nguyện qua các nhiệm kỳ được ghi nhận qua các văn bản quy phạm pháp luật, các kết luận, đề án, đề tài, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Ban Dân nguyện đã ghi dấu ấn với những kết quả thực tế được ghi nhận.
Trong đó, kết quả nổi bật nằm ở hai nhóm nhiệm vụ chính của công tác dân nguyện, đó là việc tham mưu, phục vụ hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri. Quá trình hoạt động cho thấy công tác tham mưu, phục vụ hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, hiệu quả, chất lượng ngày càng được nâng cao. Các báo cáo giám sát đã đánh giá tương đối toàn diện tình hình công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kết quả việc giải quyết, trả lời kiến nghị cử tri; những kết quả đạt được cũng như tồn tại, hạn chế của bộ, ngành, địa phương; đồng thời cũng chỉ rõ nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, vướng mắc cần tháo gỡ cả trong công tác quản lý, chỉ đạo, giải quyết, những bất cập của văn bản hướng dẫn thi hành luật; việc nghiên cứu, đề xuất giám sát vụ việc cụ thể đạt kết quả tốt và trên thực tế đã góp phần giải quyết dứt điểm một số vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đặc biệt, từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV đến nay, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban đã chủ động tích cực, nghiên cứu, tham mưu xây dựng báo cáo công tác dân nguyện hàng tháng của Quốc hội. Nội dung báo cáo công tác dân nguyện hàng tháng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện tính khái quát cao, tập trung, có trọng tâm, trọng điểm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đồng thời, đã có sự tổng hợp qua nắm bắt thông tin từ Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố, phản ánh qua dư luận, các cơ quan thông tin truyền thông. Năm 2022, báo cáo công tác dân nguyện hàng tháng của Quốc hội được chọn là một trong 10 sự kiện nổi bật trong hoạt động của Quốc hội năm 2022.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!