ĐẠI BIỂU DỰ KỲ HỌP BẤT THƯỜNG LẦN THỨ 2, QUỐC HỘI KHÓA XV VÀO LĂNG VIẾNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TOÀN VĂN PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VƯƠNG ĐÌNH HUỆ KHAI MẠC KỲ HỌP BẤT THƯỜNG LẦN THỨ HAI, QUỐC HỘI KHÓA XV
KHAI MẠC TRỌNG THỂ KỲ HỌP BẤT THƯỜNG LẦN THỨ NHẤT, QUỐC HỘI KHÓA XV
BẾ MẠC KỲ HỌP BẤT THƯỜNG LẦN THỨ NHẤT, QUỐC HỘI KHÓA XV: TÍCH CỰC – CHỦ ĐỘNG – TRÁCH NHIỆM CAO
NGHỊ QUYẾT SỐ 46/2022/QH15 KỲ HỌP BẤT THƯỜNG LẦN THỨ NHẤT, QUỐC HỘI KHOÁ XV
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khoá XV
Sau phát phát biểu khai mạc Kỳ họp của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ Quốc hội sẽ nghe: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi); Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và Tờ trình về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách liên quan đến công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 và việc cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược; Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo thẩm tra về Báo cáo của Chính phủ về đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV; việc tiếp tục thực hiện một số chính sách liên quan đến công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 và việc cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược; Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về một số nội dung về tài chính, ngân sách nhà nước (việc bổ sung dự toán ngân sách nhà nước nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài (nguồn chi thường xuyên) năm 2021; việc điều chỉnh dự toán kinh phí bảo đảm hoạt động chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan; việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương); Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường trình bày Báo cáo thẩm tra về một số nội dung về tài chính, ngân sách nhà nước (việc bổ sung dự toán ngân sách nhà nước nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài (nguồn chi thường xuyên) năm 2021; việc điều chỉnh dự toán kinh phí bảo đảm hoạt động chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan; việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương).
Cổng Thông tin điện tử Quốc hội sẽ cập nhật chi tiết nội dung Phiên họp:
10h52: Phó Chủ tịch Thường trực Trần Thanh Mẫn phát biểu kết thúc Phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ hai.
Phát biểu kết thúc Phiên khai mạc, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định, chương trình, nội dung Phiên khai mạc Kỳ họp bất thường thứ hai, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành.
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cảm ơn Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý đã đến dự; cảm ơn đồng bào và cử tri và Nhân dân cả nước đã theo dõi Phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khóa XV.
Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ điều hành nội dung về công tác nhân sự.
10h40: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Phú Cường trình bày Báo cáo thẩm tra về việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay năm 2022 của các địa phương, bổ sung dự toán chi thường xuyên năm 2021 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan
Trình bày Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Nguyễn Phú Cường cho biết, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí với sự cần thiết về việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay năm 2022 của các địa phương, bổ sung dự toán chi thường xuyên năm 2021 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan nhằm xử lý những vướng mắc trong thực tiễn, phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Về điều chỉnh dự toán kinh phí bảo đảm hoạt động chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Nguyễn Phú Cường nhấn mạnh: Uỷ ban Tài chính, Ngân sách kiến nghị Quốc hội cho phép điều chỉnh giảm 2.268,3 tỷ đồng dự toán chi thường xuyên năm 2021 của Bộ Tài chính và tăng dự toán chi đầu tư phát triển để triển khai 95 dự án của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan theo Tờ trình số 503/TTr-CP ngày 26/12/2022. Thời hạn giải ngân đến hết ngày 31/12/2024.
Đồng thời giao Chính phủ bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển năm 2023 cho Bộ Tài chính theo thẩm quyền; chỉ đạo triển khai thực hiện các dự án theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước; tổng hợp báo cáo Quốc hội vào cuối kỳ Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 theo quy định.
Về bổ sung dự toán NSNN nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài (nguồn chi thường xuyên) năm 2021, Uỷ ban Tài chính, Ngân sách kiến nghị Quốc hội đề nghị Chính phủ rà soát, thống nhất số liệu với Kiểm toán nhà nước trước khi đề xuất bổ sung dự toán thu, chi nguồn viện trợ không hoàn lại (chi thường xuyên) và chịu trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ của số liệu. Cho phép bổ sung dự toán Ngân sách năm 2021 nguồn viện trợ không hoàn lại (chi thường xuyên) số tiền 14.713,5 tỷ đồng.
Về điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Nguyễn Phú Cường nhấn mạnh, Uỷ ban Tài chính, Ngân sách kiến nghị Chính phủ tiếp tục rà soát số liệu điều chỉnh tăng, giảm dự toán NSNN năm 2022 và chịu trách nhiệm về số liệu, bảo đảm tổng mức bội chi của ngân sách địa phương không tăng, dư nợ của từng địa phương đúng trong hạn mức theo quy định của Luật NSNN; bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn và thời hạn giải ngân số vốn điều chỉnh tăng dự toán năm 2022 của các địa phương theo đúng quy định. Trên cơ sở cam kết của Chính phủ và các địa phương, đề nghị Quốc hội cho phép điều chỉnh dự toán theo phương án Chính phủ trình.
10h29: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương, bổ sung dự toán chi thường xuyên năm 2021 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan
Báo cáo tại hội trường về việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, trong quá trình thực hiện, tính đến ngày 31/8/2022, có 14 địa phương đề nghị điều chỉnh dự toán vốn vay lại, 01 địa phương đề nghị trả nợ trước hạn dẫn đến thay đổi mức vay, trả nợ của từng địa phương so với mức được Quốc hội đã quyết định. Cụ thể: 7 địa phương đề nghị tăng dự toán vay lại, 7 địa phương đề nghị giảm dự toán vay lại; 1 địa phương đề nghị trả nợ vay lại trước hạn.
Trên nguyên tắc đảm bảo tổng mức bội chi của ngân sách địa phương không tăng, đồng thời dư nợ của từng địa phương trong hạn mức theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (NSNN), để tạo điều kiện cho các địa phương sử dụng được tối đa nguồn vốn ngân sách trung ương (NSTW) bổ sung có mục tiêu cho các địa phương năm 2022, Chính phủ trình Quốc hội: tăng dự toán vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ năm 2022 của 7 địa phương; chấp thuận cho 7 địa phương giảm dự toán vốn vay lại năm 2022, để đảm bảo kế hoạch vay lại vốn vay nước ngoài và mức bội chi năm 2022 không vượt mức Quốc hội đã phê duyệt...
Về nội dung bổ sung dự toán chi thường xuyên NSNN năm 2021 nguồn viện trợ không hoàn lại nước ngoài, Chính phủ trình Quốc hội: Bổ sung dự toán NSNN thu viện trợ và dự toán chi thường xuyên năm 2021 nguồn viện trợ không hoàn lại (chi thường xuyên), trong đó phần bổ sung dự toán cho các khoản viện trợ cho phòng chống dịch Covid-19; phần bổ sung dự toán cho các khoản viện trợ khác. Đồng thời, giao Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan trung ương, địa phương phối hợp với Kiểm toán Nhà nước rà soát số liệu để thực hiện quyết toán NSNN năm 2021 theo quy định.
Về nội dung điều chỉnh dự toán kinh phí bảo đảm hoạt động chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan, Chính phủ trình Quốc hội: giảm dự toán chi thường xuyên năm 2021 của Bộ Tài chính và tăng tương ứng dự toán chi đầu tư phát triển năm 2021 của Bộ Tài chính. Đồng thời, cho phép chuyển nguồn số kinh phí này sang năm 2023 để thực hiện đầu tư 95 dự án của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan, thời gian giải ngân đến hết ngày 31/12/2024.
Đồng thời, giao Chính phủ thực hiện phân bổ vốn, chỉ đạo triển khai thực hiện các dự án theo đúng quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật có liên quan; tổng hợp vào báo cáo thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 trình Quốc hội vào cuối kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.
10h10: Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo thẩm tra Báo cáo của Chính phủ đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 và Tờ trình của Chính phủ đề xuất nội dung đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về việc chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 về các chính sách phòng, chống dịch COVID-19 và cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược.
Thẩm tra Báo cáo của Chính phủ đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ và đánh giá cao tinh thần cầu thị, trách nhiệm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc chuẩn bị báo cáo, nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cách thức đánh giá việc thực hiện quy định tại khoản 3 Nghị quyết số 30/2021/QH15.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cũng cho biết, báo cáo của Chính phủ còn thiếu những phân tích, đánh giá cụ thể về tồn tại, hạn chế khi thực hiện từng cơ chế, chính sách cụ thể và nguyên nhân để làm căn cứ cho đề xuất, kiến nghị.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung thông tin, đánh giá, làm rõ hơn các nội dung như: về công tác tổ chức cách ly tập trung, tình trạng lây nhiễm chéo tại các khu cách ly tập trung do không bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất; việc thực hiện Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội.
Về việc thực hiện biện pháp hạn chế trong phòng, chống dịch COVID-19, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội, cách ly có lúc, có nơi còn lúng túng, tổ chức thực hiện chưa nghiêm, chưa thống nhất; công tác duy trì, quản lý việc chấp hành quy định về phòng, chống dịch và phối hợp giữa các lực lượng có lúc, có nơi còn thiếu chặt chẽ; người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý một số cơ quan, đơn vị, địa phương vẫn còn chủ quan, lơ là; ý thức chấp hành của một bộ phận người dân còn chưa tốt.
Bên cạnh đó, với việc tổ chức hoạt động khám, chữa bệnh trong phòng, chống dịch COVID-19, việc thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh COVID-19 được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh, Nghị quyết số 268/NQ-UBTVQH15 và Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15, song báo cáo của Chính phủ chưa phân tích, đánh giá cụ thể việc thực hiện nội dung này theo 02 Nghị quyết nêu trên.
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ đề xuất nội dung đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về việc chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho biết, Ủy ban Xã hội cơ bản nhất trí sự cần thiết chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược và thống nhất cho rằng, đây chỉ là giải pháp tình thế, trước mắt để khắc phục tình trạng tồn đọng việc gia hạn giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hiện nay.
Ủy ban Xã hội đề nghị Chính phủ có giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài để giải quyết các vướng mắc, bất cập được nêu tại Tờ trình số 494, đồng thời, nhấn mạnh một số khía cạnh như: Việc chậm thanh toán chi phí trong điều trị cho người bệnh COVID-19, chế độ hỗ trợ cho người tham gia phòng, chống dịch COVID-19 làm ảnh hưởng tới các cơ sở y tế, tâm lý y, bác sĩ và đội ngũ tham gia phòng, chống dịch COVID-19; Việc giấy đăng ký lưu hành thuốc không được gia hạn kịp thời xảy ra từ trước khi bùng phát dịch COVID-19 và trầm trọng hơn do tác động của dịch COVID-19…
Về đề nghị cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược, Ủy ban Xã hội cơ bản nhất trí với đề nghị của Chính phủ, theo đó, cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2023 đến ngày 31/12/2024 được cơ sở đăng ký nộp hồ sơ gia hạn mà chưa được gia hạn kịp thời theo quy định của Luật Dược từ ngày hết hiệu lực đến hết ngày 31/12/2024 trên cơ sở danh mục do Bộ Y tế công bố.
Tuy nhiên, Ủy ban Xã hội đề nghị quy định nội dung này tại một Điều riêng do không còn liên quan đến phòng, chống COVID-19 của Nghị quyết số 30/2021/QH15 và đã thể hiện như quy định tại Điều 3 của dự thảo Nghị quyết đã được chỉnh lý. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng, cần xác định được lộ trình đối với thời điểm nhận hồ sơ và tiến độ trình dự án Luật Dược (sửa đổi) để ràng buộc trách nhiệm của Chính phủ và thuận tiện cho Quốc hội, cơ quan của Quốc hội giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Ý kiến khác đề nghị cần quy định cụ thể và thận trọng hơn nữa vì thời gian áp dụng cơ chế đặc biệt này kéo dài.
9h52: Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và Tờ trình đề xuất nội dung đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về việc chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 về các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và cho phép tiếp tục sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 01/01/2023 mà chưa kịp gia hạn theo quy định của Luật Dược
Báo cáo kết quả triển khai thực hiện các chính sách phòng, chống dịch bệnh Covid-19 quy định tại Nghị quyết số 30, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, dịch bệnh COVID-19 đã cơ bản được kiểm soát trên cả nước đưa đất nước trở lại trạng thái “bình thường mới”, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội. Các chính sách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại Nghị quyết số 30 đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, thống nhất trong cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương.
Chính phủ đã chủ động, sáng tạo áp dụng linh hoạt, kịp thời các biện pháp theo quy định tại Nghị quyết số 30 góp phần kiểm soát thành công tình hình dịch bệnh COVID-19 và chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch kịp thời, đúng đắn tại những thời điểm quyết định.
Theo Bộ trưởng Đào Hồng Lan, về áp dụng các biện pháp đặc biệt, đặc thù, đặc cách, khác luật trong phòng, chống dịch, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã áp dụng hiệu quả, linh hoạt hầu hết các biện pháp hạn chế trong phòng, chống dịch như trong tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt, đặc thù, đặc cách chưa được luật quy định hoặc khác với quy định của luật, pháp lệnh hiện hành để đáp ứng yêu cầu cấp bách của công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Cụ thể, Chính phủ đã áp dụng các biện pháp hạn chế đi lại, giãn cách xã hội như trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức các lực lượng tuyến đầu chống dịch; áp dụng cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách trong cấp phép, đăng ký lưu hành đối với thuốc, vắc xin, sinh phẩm xét nghiệm; áp dụng cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách trong mua sắm; thành lập và hoạt động các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, thu dung, điều trị người bệnh COVID-19, tổ chức khám, chữa bệnh và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh COVID-19; thực hiện chế độ chính sách đối với người được điều động tham gia phòng, chống dịch bị nhiễm COVID-19 hoặc phải cách ly y tế sau thời gian tham gia phòng, chống dịch.
Về nguồn lực tài chính, ngân sách cho phòng, chống dịch, Chính phủ chủ động điều hành ngân sách nhà nước và giải pháp tiết kiệm chi để bổ sung nguồn phòng, chống dịch; ưu tiên sử dụng ngân sách nhà nước và huy động mọi nguồn lực hợp pháp khác cho công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Về chính sách an sinh xã hội, Bộ trưởng Đào Hồng Lan cho biết, Chính phủ đã bảo đảm an sinh xã hội, việc làm, chăm lo sức khỏe và đời sống Nhân dân, người có công, gia đình chính sách, người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người yếu thế khác và lực lượng tuyến đấu chống dịch; Thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cho doanh nghiệp, người dân chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Chia sẻ về những khó khăn, tồn tại, hạn chế trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ trưởng Đào Hồng Lan cho biết, việc ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm; công tác tuyên truyền, phổ biến có lúc chưa kịp thời; một số địa phương còn ban hành quy định gây bức xúc trong xã hội (như quy định về giấy đi đường, lưu thông hàng hóa, hàng hóa thiết yếu...); thực hiện các biện pháp hạn chế còn chưa thống nhất. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp có nơi, có lúc còn lúng túng, chưa thống nhất, chưa tính hết yêu cầu thực tiễn, chưa kịp thời điều chỉnh khi tình hình thay đổi.
Trình bày Tờ trình đề xuất nội dung đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về việc chuyển tiếp thực hiện một số chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15, Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết, mục 3 Nghị quyết 30 chỉ có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2022 trong khi một số chính sách đã triển khai nhưng cần thêm thời gian để thực hiện hết cho các đối tượng và giải quyết các vướng mắc, tồn đọng đối với các hoạt động đã thực hiện nhưng chưa được chi trả, quyết toán. Do đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội việc chuyển tiếp thực hiện đối với 02 chính sách để bảo đảm quyền, lợi ích của người dân.
Theo đó, Chính phủ đề nghị Quốc hội ghi nhận kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết và công bố hết hiệu lực toàn bộ đối với 08 Nghị quyết, hết hiệu lực một phần đối với 02 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giao cho Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, xử lý kết quả rà soát theo quy định trên cơ sở các nội dung đánh giá tại Báo cáo của Chính phủ.
9h31: Nghỉ giải lao
9h06: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi).
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, về bố cục của dự thảo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát các quy định của dự thảo Luật; hoàn thiện, bổ sung các quy định liên quan đến tài chính trong khám bệnh, chữa bệnh làm căn cứ để thiết kế 01 mục riêng về ”các điều kiện bảo đảm về tài chính cho công tác khám bệnh, chữa bệnh” tại Chương X về Các điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh. Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được chỉnh lý và sắp xếp lại thứ tự nhiều điều, khoản để đảm bảo tính hợp lý của các quy định.
Về Hội đồng Y khoa quốc gia (Điều 25), có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị quy định cụ thể hơn về mô hình, tổ chức, địa vị pháp lý của Hội đồng Y khoa quốc gia; có ý kiến cho rằng Hội đồng Y khoa quốc gia nên do Bộ Y tế thành lập.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng mô hình Hội đồng Y khoa quốc gia để chủ trì thực hiện việc đánh giá năng lực trước khi cấp giấy phép hành nghề, do vậy, để thận trọng và thuận tiện cho Chính phủ trong quá trình điều hành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với Cơ quan soạn thảo việc ghi nhận hình thức tổ chức này trong dự thảo Luật theo hướng quy định Hội đồng Y khoa quốc gia là tổ chức do Thủ tướng Chính phủ thành lập với các nhiệm vụ cụ thể; giao Thủ tướng Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động như thể hiện tại Điều 25.
Để phát huy vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cơ sở có chức năng đào tạo, tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật quy định Hội đồng Y khoa quốc gia chủ trì phối hợp với các tổ chức xã hội – nghề nghiệp về khám, chữa bệnh và cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong việc xây dựng bộ công cụ đánh giá năng lực hành nghề khám, chữa bệnh.
Về thời hạn của giấy phép hành nghề (Điều 27), Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo dự thảo Luật, cứ 05 năm 1 lần, người hành nghề thực hiện thủ tục gia hạn giấy phép hành nghề chỉ phải cung cấp thông tin chứng minh về sức khỏe, cập nhật kiến thức y khoa liên tục (có nhiều hình thức cập nhật kiến thức khác nhau).
Dự thảo Luật cũng quy định việc gia hạn có thể được thực hiện trực tuyến (chủ yếu sẽ là gia hạn trực tuyến khi ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số). Tuy nhiên, còn một số ý kiến đại biểu Quốc hội và ý kiến của một số hiệp hội chưa thống nhất với việc quy định thời hạn của giấy phép hành nghề và cho rằng, khi người hành nghề có hành vi vi phạm và không thực hiện cập nhật kiến thức y khoa liên tục, cơ quan nhà nước sẽ thực hiện thu hồi, như vậy là cũng có thời hạn; thậm chí có ý kiến cho rằng, việc quy định thời hạn giấy phép hành nghề là bước ”thụt lùi”. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận và cho ý kiến thêm về thời hạn của giấy phép hành nghề.
Về cấp chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh (Điều 104), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, tiếp thu ý kiến của đại biểu, dự thảo Luật được chỉnh lý cụ thể hơn theo hướng hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bao gồm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước và tư nhân được chia thành 03 cấp chuyên môn kỹ thuật với các chức năng, nhiệm vụ theo nguyên tắc tổ chức của các cấp chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh bảo đảm tính liên tục, liên thông trong cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh như thể hiện tại Điều 104 của dự thảo Luật.
Theo đó, (i) cấp ban đầu sẽ bao gồm các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có điều trị nội trú (phòng khám, trạm y tế xã); (ii) cấp cơ bản sẽ bao gồm các bệnh viện huyện, trung tâm y tế huyện, bệnh xá, bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tư nhân; (iii) cấp chuyên sâu sẽ bao gồm các bệnh viện tuyến cuối.
Về dinh dưỡng trong khám bệnh, chữa bệnh (Điều 67), có ý kiến đề nghị bổ sung quy định quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho sản phẩm dinh dưỡng chuyên biệt trong điều trị suy dinh dưỡng nặng cấp tính cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ, việc quy định về mức hưởng của bảo hiểm y tế không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Hơn nữa, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa làm rõ sản phẩm dinh dưỡng điều trị là thuốc hay thực phẩm chức năng để có cơ chế quản lý phù hợp. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không quy định trong dự thảo Luật sản phẩm dinh dưỡng điều trị cũng như việc bảo hiểm y tế chi trả cho việc sử dụng sản phẩm dinh dưỡng điều trị suy dinh dưỡng cấp tính cho trẻ em.
Về nguồn ngân sách nhà nước cho công tác khám bệnh, chữa bệnh (Điều 107), có ý kiến đề nghị quy định trong dự thảo Luật “nguồn ngân sách nhà nước không cấp chi thường xuyên cho các bệnh viện tự chủ mà cần được dành để chi cho việc khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng cần phải chi trả thông qua cơ chế đặt hàng và ngân sách nhà nước”. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin phép Quốc hội không quy định nội dung này tại dự thảo Luật.
Về tự chủ đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước (Điều 108), tiếp thu ý kiến đại biểu, Chính phủ đã có báo cáo rà soát và nêu cụ thể những vướng mắc, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến việc thực hiện cơ chế, chính sách về tự chủ tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Bên cạnh đó, trên cơ sở tham khảo quy định về tự chủ của các Luật có liên quan, để góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập, dự thảo Luật đã bổ sung một điều về tự chủ đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước như thể hiện tại Điều 108 của dự thảo Luật.
Về giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh (Điều 110), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, tiếp thu ý kiến của đại biểu, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng làm rõ các yếu tố cấu thành giá khám bệnh, chữa bệnh; các chi phí để tính giá thành toàn bộ của dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; căn cứ, nguyên tắc, thẩm quyền định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này như thể hiện tại Điều 110 và quy định lộ trình trước ngày 01/01/2025 phải tính đủ các yếu tố hình thành giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bảo đảm tính khả thi của quy định này.
Về thẩm quyền của Nhà nước (Bộ Y tế) trong định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, hiện có hai loại ý kiến khác nhau. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội thảo luận và cho ý kiến thêm về nội dung này. Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cũng báo cáo về lộ trình thực hiện một số quy định của dự thảo Luật, về quy trình, thủ tục hành chính quy định tại dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi), các điểm mới của dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) so với Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH12.
8h39: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
Trình bày báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia (QHTTQG) thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia kèm theo Tờ trình của Chính phủ đã cơ bản đáp ứng yêu cầu về danh mục tài liệu theo quy định của Luật Quy hoạch. Tại Tờ trình số 506, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua QHTTQG tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai, tuy nhiên, ngày 06/12/2022 Chính phủ mới có Tờ trình gửi đến cơ quan của Quốc hội để thẩm tra là chưa bảo đảm theo quy định của Luật Quy hoạch.
Uỷ ban Kinh tế đánh giá cao nỗ lực, cố gắng của Chính phủ trong việc phấn đấu hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia theo yêu cầu tiến độ tại Nghị quyết số 61/2022/QH15 của Quốc hội, tuy nhiên, việc chưa bảo đảm thời gian trình Quốc hội dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm tra, do đó, đề nghị Chính phủ rút kinh nghiệm và tập trung nguồn lực để bảo chất lượng Quy hoạch tổng thể quốc gia.
Về các nội dung chủ yếu, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, báo cáo tổng hợp quy hoạch được xây dựng cơ bản đã đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 22 Luật Quy hoạch, tuy nhiên còn một số nội dung cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khoa học, hợp lý. Theo đó, nội dung Báo cáo quy hoạch cơ bản đã đánh giá được các đặc điểm điều kiện tự nhiên, các yếu tố phát triển và hiện trạng phát triển quốc gia làm cơ sở để đề xuất các quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước thời kỳ 2021 - 2030. Tuy nhiên, đề nghị cần bổ sung thêm các đánh giá về ưu điểm, lợi thế của các điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, năng lực cạnh tranh… làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch....
Bên cạnh đó đề nghị cần bổ sung các phân tích, đánh giá rõ hơn về các yếu tố thuận lợi, khó khăn về vị trí địa lý, điều kiện địa hình – địa mạo, địa chất – thổ nhưỡng tài nguyên, khoáng sản, khí hậu, rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu và đánh giá các điều kiện này tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Đồng thời, làm rõ lợi thế so sánh của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới; bổ sung đánh giá sâu hơn về dân số, nguồn nhân lực, tài nguyên nhân văn và làm rõ hơn đánh giá về hạn chế, yếu kém liên quan đến tổ chức, phát triển không gian hạ tầng văn hóa, xã hội; lâm nghiệp; thủy sản; môi trường, tài nguyên.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế chỉ ra rằng, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển nêu rõ, QHTTQG được lập nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, theo hướng phân bố không gian, phân vùng và liên kết vùng, do vậy, cần nghiên cứu làm rõ hơn, các nội dung phải định hướng trong việc sắp xếp, phân bố không gian để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược đã đề ra. Đồng thời, đề nghị bổ sung, nhấn mạnh hơn việc giảm chồng chéo, xung đột trong sử dụng không gian giữa các ngành, các địa phương và quan điểm về phát triển kinh tế biển.
Cùng với đó, mục tiêu cho việc phát triển kết cấu hạ tầng mới tập trung chủ yếu cho hạ tầng giao thông, trong khi một số ngành khác có vai trò quan trọng nhưng còn chung chung như: hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thủy lợi…
Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ. Về tầm nhìn đến năm 2050, đề nghị bổ sung mục tiêu về giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện, mang đầy đủ đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa; có chỉ số phát triển con người ở mức rất cao (chỉ số HDI từ 0,8 trở lên), đời sống của người dân hạnh phúc....
Về định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, trừ định hướng phân vùng hạn chế phát triển; các khu vực lãnh thổ cần bảo tồn, cấm khai thác, sử dụng thì các vùng còn lại đều chưa làm rõ được tiêu chí phân vùng cũng như mục tiêu phân vùng và mối quan hệ giữa các vùng. Kết cấu hiện tại chưa làm rõ được sự gắn kết giữa các vùng động lực quốc gia với nhau, với các hành lang kinh tế và với định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng. Nội dung phân tích của từng ngành chưa có sự gắn kết với định hướng phân vùng động lực và các hành lang kinh tế.
Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ các định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Đồng thời cần định hướng phát triển các khu công nghiệp sinh thái; bổ sung, làm rõ hơn các ngành công nghiệp hỗ trợ và bổ sung định hướng phát triển: hệ thống các khu du lịch quốc gia; hạ tầng du lịch; môi trường, tài nguyên, sản phẩm và doanh nghiệp du lịch; xây dựng các hành lang di sản, các sản phẩm trong hành lang di sản.
Về định hướng sử dụng đất quốc gia, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế đề nghị hoàn thiện nguyên tắc định hướng sử dụng đất như sau: “Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Về định hướng phân vùng và liên kết vùng, nội dung Báo cáo chưa đề cập tới phương án phân vùng hiện nay có những khó khăn gì do đó cần làm rõ để có đủ cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của phương án phát triển của các ngành và khả năng liên kết vùng. Bên cạnh đó, đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc cần bổ sung định hướng phát triển công nghiệp điện tử, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đối với Vùng động lực phía Bắc và Vùng động lực phía Nam, cần bổ sung các định hướng về phát triển giáo dục, đào tạo và công nghiệp văn hóa.
Đối với danh mục dự án quan trọng quốc gia cần làm rõ cơ sở, nguyên tắc, phương án xây dựng danh mục dự án, xác định rõ thuật ngữ “dự án quan trọng của quốc gia” và “dự án quan trọng quốc gia”; cần làm rõ được tầm nhìn, quy mô chiến lược, liên kết vùng, phát triển hành lang kinh tế, vùng động lực quốc gia và phù hợp với khả năng bố trí nguồn lực đầu tư công, nguồn lực xã hội và tránh dàn trải, thiếu hiệu quả.
Về giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế đề nghị tiếp tục quán triệt sâu sắc và nghiên cứu cụ thể hóa Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đối với các nội dung này. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của đất nước.
Ngoài ra, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế cũng đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện các sơ đồ, bản đồ thể hiện một cách thống nhất giữa nghị quyết, báo cáo quy hoạch và sơ đồ, bản đồ đối với phạm vi quy hoạch, tỷ lệ, sự tương thích… các nội dung quy hoạch. Đồng thời, đề nghị cần khẩn trương cập nhật, bổ sung, hoàn thiện Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định.
8h19: Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trình bày Tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã nêu các căn cứ và quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia; Thực trạng phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn vừa qua; Kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém chủ yếu, nguyên nhân.
Về những nội dung chủ yếu của Quy hoạch tổng thể quốc gia, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu quan điểm, tầm nhìn và mục tiêu phát triển. Theo đó, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển thời kỳ 2021-2030, Quy hoạch đã quán triệt và cụ thể hóa rõ hơn 05 quan điểm về tổ chức không gian phát triển:
(1) Không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh từng vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
(2) Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trong thời kỳ đến năm 2030; đồng thời, có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp với điều kiện của nền kinh tế để bảo đảm an sinh xã hội cho các khu vực khó khăn, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển.
(3) Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
(4) Tổ chức không gian phát triển quốc gia, các vùng, hành lang kinh tế, hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và phát triển hài hòa khu vực đô thị, nông thôn.
(5) Tổ chức không gian phát triển quốc gia phải gắn kết giữa khu vực đất liền với không gian biển; khai thác và sử dụng hiệu quả không gian ngầm, vùng biển, vùng trời. Chú trọng việc kết nối các hành lang kinh tế trong nước với các hành lang kinh tế của khu vực và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giai đoạn 2031 - 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5 - 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 27.000 - 32.000 USD. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 - 75%. Chỉ số phát triển con người ở mức rất cao, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc...
Trong đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2030 phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD…
Để thực hiện đạt các mục tiêu đề ra, Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu ra 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch:
(1) Hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
(2) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.
(3) Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.
(4) Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu tóm tắt các định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực chủ yếu; Định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ; Định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; đồng thời nêu giải pháp, nguồn lực thực hiện. Theo đó, giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã dự báo tổng nhu cầu và cơ cấu vốn đầu tư để thực hiện quy hoạch, xây dựng hệ thống các giải pháp để huy động nguồn lực từ các khu vực kinh tế; đồng thời dự báo nhu cầu lao động cho nền kinh tế và đề xuất các giải pháp về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực.
Ngoài ra, trong Quy hoạch cũng đề ra các giải pháp về cơ chế, chính sách, phát triển khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế.
8h07: Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc Kỳ họp
Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ cùng với các nước trên thế giới vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đất nước ta bước vào năm 2023 một cách vững trãi và tràn đầy tin tưởng vào thời kì mới. Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội gửi lời chúc mừng năm mới mạnh khỏe, an khang thịnh vượng và thành công đến các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đại biểu, khách quý và cử tri, đồng bào cả nước.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, trên cơ sở yêu cầu cấp thiết của cuộc sống, căn cứ quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quốc hội khóa XV khai mạc trọng thể Kỳ họp bất thường lần thứ 2 để xem xét quyết định một số vấn đề lớn, quan trọng và cấp bách.
Giới thiệu nội dung kỳ họp và gợi ý nội dung thảo luận, Chủ tịch Quốc hội cho biết tại Kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội xem xét, quyết định cho ý kiến về 5 nội dung. Thứ nhất, về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Thứ hai, về dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi). Thứ ba, về tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chính sách đặc biệt cho phòng, chống dịch COVID-19 quy định tại Nghị quyết số 30 của Quốc hội. Thứ tư, về vấn đề tài chính, ngân sách nhà nước, Quốc hội sẽ xem xét, quyết định: việc điều chỉnh kế hoạch vốn vay lại năm 2022 của các địa phương; việc bổ sung dự toán chi thường xuyên từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài năm 2021; việc điều chỉnh dự toán kinh phí chưa sử dụng hết năm 2021 của Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan. Thứ năm, về công tác nhân sự. Quốc hội Quốc hội sẽ xem xét, cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội và xem xét, phê chuẩn việc miễn nhiệm, bổ nhiệm một số thành viên Chính phủ.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, kỳ họp bất thường diễn ra ngay trong những ngày đầu năm 2023, đúng vào dịp kỷ niệm 77 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (06/01/1946-06/01/2023), xem xét, quyết định các nội dung hết sức quan trọng. Rút kinh nghiệm từ thành công của Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Kỳ họp bất thường lần này là hoạt động “bình thường” của Quốc hội đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn.
Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu sắc, chất lượng. Đề nghị các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và cơ quan liên quan tổng hợp, tiếp thu, giải trình đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến đại biểu Quốc hội, hoàn thiện dự án luật, dự thảo nghị quyết với chất lượng cao nhất để Quốc hội xem xét, quyết định.
8h06: Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn điều hành phiên khai mạc
Phát biểu điều hành, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, Phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khóa XV được phát thanh, truyền hình trực tiếp trên sóng phát thanh, truyền hình quốc gia và trên Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
Theo chương trình của kỳ họp, mở đầu phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ hai, Quốc hội khóa XV.
8h02: Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu tham dự Kỳ họp.
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, căn cứ trên quy định của Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội khóa XV khai mạc trọng thể Kỳ họp bất thường lần thứ 2 để xem xét, quyết định 05 nội dung thuộc thẩm quyền. Dự phiên khai mạc Kỳ họp có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng, nguyên Thường trực Ban Bí thư Phan Diễn, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến…
Cùng dự còn có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, các đồng chí Phó Thủ tướng, nguyên Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể trung ương và lãnh đạo các địa phương.
Về phía Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, các đại biểu Quốc hội thuộc 63 đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
8h00: Quốc hội làm Lễ Chào cờ