TRÌNH QUỐC HỘI DỰ KIẾN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT QUỐC GIA THỜI KỲ 2021-2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050

29/10/2021

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, chiều 29/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 - 2025).

 

Toàn cảnh Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Tờ trình về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 - 2025)

Trình bày Tờ trình về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 - 2025), Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, để đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thực hiện Luật Đất đai; Luật Quy hoạch; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch, Chính phủ đã khẩn trương tổng kết, đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2011-2020; điều tra, khảo sát, tổ chức tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học, lấy ý kiến các Ban, Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức... để hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia. Chính phủ đã có Tờ trình số 375/TTr-CP ngày 05 tháng 10 năm 2021 trình Quốc hội về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025). Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã thẩm tra; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến, Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện. Thực hiện quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 28 tháng 10 năm 2021, Bộ Chính trị đã xem xét, chỉ đạo toàn diện, sâu sắc, Chính phủ đã nghiêm túc tiếp thu, hoàn thiện và đã có Tờ trình số 490/TTr-CP ngày 28 tháng 10 năm 2021 trình Quốc hội kèm theo hồ sơ quy hoạch.

Về cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, quy hoạch sử dụng đất quốc gia được xây dựng trên cơ sở các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn đặt ra đối với quản lý, sử dụng đất đai trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội về đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đảm bảo thống nhất, đồng bộ; phân bổ, huy động quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, nguồn lực đất đai đáp ứng yêu cầu phát triển' trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, an ninh lương thực quốc gia”; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh.

Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2011-2020 cơ bản đã đạt được các chỉ tiêu mà Quốc hội quyết định

Về cơ sở thực tiễn, đề cập về kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2011-2020, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, cơ bản đã đạt được các chỉ tiêu mà Quốc hội quyết định (bình quân đạt 85,35%); có 14 chỉ tiêu đạt trên 90%, 06 chỉ tiêu đạt từ 70%-90%, 01 chỉ tiêu đạt từ 50% - 70% và 04 chỉ tiêu đạt dưới 50*. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước thống nhất quản lý, phân bổ nguồn lực đất đai cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng chỉ rõ công tác quy hoạch vẫn còn nhiều mặt tồn tại, hạn chế do nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như: Hệ thống quy hoạch sử dụng đất chưa đảm bảo đồng bộ, kết nối, thiếu tầm nhìn dài hạn; việc lập quy hoạch chưa dựa trên phương pháp, công nghệ hiện đại, thông tin, số liệu, tài liệu đầu vào cho công tác lập quy hoạch còn hạn chế. Dự báo sử dụng đất chưa sát với nhu cầu, việc phân bổ một số chỉ tiêu sử dụng đất chưa phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa phương. Việc tổ chức lập, thực hiện quy hoạch còn là khâu yếu: Các quy hoạch có sử dụng đất như quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch phân khu... lập thiếu tính đồng bộ, ổn định, còn thay đổi, điều chỉnh nhiều lần làm phá vỡ tính tổng thể của hệ thống quy hoạch; công tác giám sát, kiểm tra việc xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa nghiêm và thường xuyên.

Đề cập đến phương pháp lập quy hoạch, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh, quy hoạch sử dụng đất được xây dựng trên cơ sở các phương pháp: điều tra, định mức, tiếp cận hệ thống, dự báo... kết hợp với công nghệ hiện đại như viễn thám, hệ thống thông tin địa lý. Số liệu đầu vào đa dạng, đa chiều, dự báo các chỉ tiêu sử dụng đất được tính toán bằng các phương pháp của kinh tế lượng, định mức sử dụng đất, được đối soát, kiểm tra, phân tích các yếu tố không gian bằng công nghệ GIS...

Quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo có tầm nhìn dài hạn, tổng thể, đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhanh, bền vững

Về quan điểm, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhấn mạnh, quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch tài nguyên đặc biệt, phải đảm bảo có tầm nhìn dài hạn, tổng thể, đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhanh, bền vững; phải đi trước một bước, làm cơ sở cho quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất (quy hoạch xây dựng, quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy hoạch hạ tầng, quy hoạch tỉnh) đảm bảo tính liên vùng, liên tỉnh, kết nối giao thông, hành lang kinh tế ven biển; gắn kết hữu cơ giữa đô thị và nông thôn; giữa yêu cầu công nghiệp hóa với nhu cầu đô thị hóa trên bình diện quốc gia và từng địa phương.

Đảm bảo thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh; đảm bảo an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, tỷ lệ che phủ rừng, bảo vệ các hệ sinh thái, di tích, di sản, danh lam thắng cảnh; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nhất là nhu cầu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; định hướng cho không gian phát triển, khai hoang, lấn biển.

Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030 phải đáp ứng 4 mục tiêu

Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Tờ trình về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 - 2025)

Bộ trưởng cũng nêu rõ, quy hoạch sử dụng đất đáp ứng các mục tiêu: (1) Đảm bảo quỹ đất cho thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng để đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. (2) Phân bổ hợp lý đất đai cho các ngành, các địa phương phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; (3) Đáp ứng yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển văn hóa xã hội, bảo vệ các hệ sinh thái, giữ ổn định 3,5 triệu ha đất trồng lúa; đảm bảo độ che phủ rừng ổn định ở mức 42 - 43%... kết nối các hành lang kinh tế, vùng động lực; (4) Khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng; cải tạo, phục hồi diện tích đất bị thoái hóa gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Đến năm 2050, tài nguyên đất được sử dụng hiệu quả, đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và phát triển đô thị hiện đại, xanh, văn minh... hoàn thành mục tiêu trở thành một nước phát triển, thu nhập cao với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về phương án quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đề cập đến phương án quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Chỉ tiêu được Quốc hội quyết định đến năm 2020 của cả nước là 27,04 triệu ha. Thực hiện quy hoạch được phê duyệt, cả nước đã chú trọng công tác bảo vệ, quản lý đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, đất trồng lúa; thực hiện tốt việc khai hoang, phục hóa; năm 2020, diện tích đất nông nghiệp có 27,98 triệu ha đảm bảo chỉ tiêu Quốc hội quyết định. Để đáp ứng mục tiêu an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo độ che phủ rừng đạt 42 - 43% và tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp quy hoạch đến năm 2030 có 27,73 triệu ha, giảm 251,22 nghìn ha.

Đối với đất phi nông nghiệp, Bộ trưởng cho biết, trong 10 năm vừa qua, diện tích đất phi nông nghiệp tăng 226,04 nghìn ha, năm 2020 có 3,93 triệu ha. Trong thời kỳ 2021-2030 đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển hạ tầng đồng bộ quy hoạch đất phi nông nghiệp đến năm 2030 là 4,90 triệu ha.

Đối với đất đô thị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nêu rõ, hiện cả nước có 2,03 triệu ha (gồm các loại đất nằm trong phạm vi địa giới hành chính các phường, thị trấn; các khu đô thị mới đã hình thành thuộc phạm vi phát triển đô thị); đáp ứng mục tiêu tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%, quy hoạch sử dụng đất đô thị đến năm 2030 là 2,95 triệu ha, tăng 925,78 nghìn ha.

Cũng tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã đề xuất nhiều giải pháp thực hiện về chính sách, về khoa học công nghệ; về nguồn lực ưu tiên đầu tư công cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; về ứng phó với biến đổi khí hậu, phục hồi quỹ đất bị suy thoái; về kiểm tra, giám sát; về tuyên truyền, phổ biến.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên cơ sở quy hoạch được Quốc hội phê duyệt, Chính phủ chỉ đạo: tổ chức thực hiện công bố công khai, phát huy vai trò giám sát của Nhân dân; thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; kiểm soát chặt chẽ việc điều chỉnh quy hoạch có sử dụng đất; bố trí các nguồn vốn để đảm bảo thực hiện quy hoạch; quan tâm đầu tư cho điều tra, đánh giá đất đai, hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia.

Thủ tướng Chính phủ phân bổ các chỉ tiêu sử dụng đất cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Bộ Tài nguyên và Môi trường tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất, trong đó quản lý chặt chẽ diện tích đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, sông hồ, di tích, danh thắng để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái, các giá trị văn hóa; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quy hoạch thống nhất, đồng bộ giữa chỉ tiêu và khoanh định trên thực tế để đảm bảo quản lý nghiêm ngặt các chỉ tiêu trong quy hoạch sử dụng đất quốc gia./.

Bích Ngọc - Minh Thành