Báo cáo việc thực hiện Nghị quyết số 142/2016/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, nội dung đánh giá tình hình, kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã họi 5 năm 2016-2020 cơ bản dựa trên kết cấu, nội dung đã được Chính phủ báo cáo tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV; có sửa đổi, bổ sung phù hợp với những đánh giá, nhận định tại Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII; đồng thời, cập nhật thêm một số thông tin, số liệu, đánh giá, nhật định đến thời điểm báo cáo như về tác động của dịch Covid-19, xuất nhập khẩu, tài chính, lao động, việc làm.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương báo cáo tại phiên họp
Đánh giá các kết quả đạt được theo 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội với một số kết quả chủ yếu. Theo đó, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, mức độ chống chịu của nền kinh tế được cải thiện đáng kể, đặc biệt cán cân thương mại hàng hoá liên tục thặng dư và tăng bình quân 11,8% giai đoạn 2016-2020, tạo điều kiện cải thiện cán cân thanh toán và là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ; từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Quy mô, tiềm lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế được tăng lên rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục gia tăng trong giai đoạn 2016-2019, năng suất lao động cải thiện rõ nét.
Cơ cấu lại các ngành kinh tế đi vào thực chất, tiếp tục chuyển dịch tích cực và đúng hướng. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Trong bối cảnh khó khăn năm 2020, nông nghiệp khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ, doanh nghiệp thành lập mới tăng cao cả về số lượng và số vốn đăng ký. Tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi, xu hướng phát triển các mô hình kinh doanh dựa trên đổi mới sáng tạo diễn ra sôi động.
Thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt một số kết quả tích cực. Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Nhiều công trình, dự án quan trọng, quy mô lớn được tập trung đầu tư hoàn thành trong giai đoạn 2016-2020. Chất lượng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật đô thị được cải thiện rõ rệt. Quy mô, chất lượng nhân lực của nền kinh tế có sự gia tăng rõ nét trong tất cả các ngành, lĩnh vực.
Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có nhiều chuyển biến rõ rệt, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đã chủ động, kịp thời, hiệu quả trong ứng phó, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Cải cách hành chính được thực hiện quyết liệt; tập trung cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. An ninh chính trị, an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, thực chất hơn.
Bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, yếu kém như tăng trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra, chưa thu hẹp được khoảng cách và bắt kịp các nước trong khu vực. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa có những bứt phá lớn. Mô hình tăng trưởng vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài. Chất lượng môi trường kinh doanh được cải thiện nhưng còn chậm. Năng lực cạnh tranh vẫn đứng thứ hạng thấp so với các quốc gia trong khu vực. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI chưa tương xứng với năng lực, lợi thế và những ưu đãi dành cho khu vực này. Việc thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP còn nhiều khó khăn. Thực hiện các đột phá chiến lược vẫn chưa đạt yêu cầu.
Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025, ngoài những nhận định, dự báo đã được nêu tại văn kiện Đại hội XIII của Đảng, dự thảo Báo cáo đã bổ sung những thay đổi chiến lược, chính sách kinh tế của một số nước trước tác động của đại dịch Covid-19 như: Trung Quốc (tháng 5/2020), Hàn Quốc (tháng 7/2020), Nhật Bản (tháng 9/2020), Mỹ (tháng 1/2021).
Bên cạnh mục tiêu tổng quát và 22 chỉ tiêu chủ yếu đã được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, hệ thống chỉ tiêu chủ yếu của dự thảo Kế hoạch bổ sung 01 chỉ tiêu về "Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 bình quân đạt 3,7% GDP" từ mục các cân đối lớn thành 23 chỉ tiêu chủ yếu. Theo đó, có 08 chỉ tiêu về kinh tế, 09 chỉ tiêu về xã hội, 06 chỉ tiêu về môi trường.
Dự thảo đưa ra 04 cân đối lớn của nền kinh tế, bám sát văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, bao gồm: cân đối tích lũy - tiêu dùng, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội, cân đối tài chính - ngân sách và cân đối năng lượng quốc gia.
Dự thảo đã đưa ra 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả 03 đột phá chiến lược, 06 nhiệm vụ trọng tâm, bảo đảm bám sát và cụ thể hóa phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 đã được Đại hội XIII của Đảng thông qua, cụ thể:
(1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
(2) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển nền kinh tế số. Có giải pháp khắc phục tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế trong những năm đầu, bứt phá, phát triển trong những năm cuối.
(3) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư của nền kinh tế. Đẩy mạnh triển khai các dự án theo hình thức đối tác công tư trên nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư, người dân và chia sẻ rủi ro. Thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài theo hướng ưu tiên các dự án có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, có mô hình quản trị hiện đại, có chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan toả và kết nối chặt chẽ với khu vực kinh tế trong nước.
(4) Đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và phát triển đô thị. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư và đưa vào vận hành các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải. Tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đồng bằng sông Cửu Long. Đẩy mạnh kết nối giữa các đô thị trong nước và khu vực.
(5) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học xã hội, gắn kết chặt chẽ với khoa học tự nhiên và công nghệ. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số trong các doanh nghiệp. Tăng cường liên kết doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học, lấy doanh nghiệp làm trung tâm.
(6) Thúc đẩy phát triển, liên kết vùng và khu kinh tế. Nghiên cứu phân vùng phù hợp, phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng điểm. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch trở thành động lực phát triển vùng.
(7) Phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với xã hội. Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, sức khoẻ cho người dân, chủ động thích ứng với xu thế già hoá dân số. Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19 cho cộng đồng. Quan tâm phát triển toàn diện trẻ em, triển khai hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, Chương trình phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2030. Đẩy mạnh phát triển thể dục, thể thao toàn dân, thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp.
(8) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
(9) Tập trung phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
(10) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Tiếp tục cắt giảm thực chất thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và của cán bộ, công chức, viên chức.
(11) Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
(12) Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh chủ trì phiên họp
Thảo luận tại phiên họp thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Kinh tế, các đại biểu cho rằng qua đánh giá sơ bộ việc thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu cho thấy, nhiều kết quả tích cực song tính đến tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, cơ bản các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch, các mục tiêu an sinh xã hội được cải thiện. Tuy nhiên còn một số vấn đề cần được nhấn mạnh như việc thực hiện mục tiêu tổng quát về đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả cạnh tranh chưa thực sự rõ nét; sức cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện nhưng một số thành phần, lĩnh vực chậm cải tiến. Thu ngân sách địa phương tăng, thu ngân sách trung ương hụt so với dự toán ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo và các cân đối lớn, thất thu thuế chậm được cải thiện, nợ đọng thuế lớn, còn tình trạng phân bổ vốn dàn trải, giao vốn chậm, giải ngân vốn đầu tư công chậm chưa có giải pháp khắc phục. Một số chỉ tiêu không đạt như tỷ lệ GDP bình quân đầu người giai đoạn 2016-2020, chất lượng lao động chậm được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo không đạt. Việc phát triển nhà ở cao tầng ở đô thị lớn đang phá vỡ quy hoạch, tăng gánh nặng hạ tầng đô thị chưa có giải pháp căn cơ xử lý. Năng lực tự chủ của các ngành công nghiệp hạn chế, phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp FDI, các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước liên kết với doanh nghiệp nước ngoài còn hạn chế, giá trị gia tăng thấp. Ô nhiễm môi trường, chất lượng không khí xấu gây hại cho sức khỏe. Những khó khăn thách thức trong công tác giảm nghèo nhất là vùng miền núi, dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn. Mức độ cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước chưa đạt kế hoạch đề ra, hiệu quả quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu, việc xử lý dứt điểm các dự án yếu kém của ngành công thương. Việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch ở một số địa phương chậm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã đề xuất kiến nghị các giải pháp cho giai đoạn 2021-2025 nhằm hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, cách thức giải quyết các vấn đề còn tồn tại của nền kinh tế./.