THAY ĐỔI TƯ DUY, TIẾP CẬN GÓC NHÌN QUỐC TẾ VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

21/11/2023

Đóng góp ý kiến về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, TS. Nguyễn Tiến Hùng, Trưởng Khoa Cơ bản, Học viện Chính sách và Phát triển cho rằng, thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động xóa đói giảm nghèo cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm đói nghèo của Việt Nam được thay đổi và ngày một gần với quan niệm đói nghèo của thế giới.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 31/10: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

Toàn cảnh phiên thảo luận về kinh tế xã hội tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV

Phiên thảo luận kinh tế - xã hội tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đã diễn ra sôi nổi và chất lượng, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của các đại biểu Quốc hội trong việc giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Trong phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội đã tập trung đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Theo đó, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phục hồi, tăng trưởng tích cực trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Tuy nhiên, các đại biểu cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế cần sớm khắc phục, như: năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa thực chất; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều khó khăn, vướng mắc; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực còn nhiều bất cập.

Đóng góp ý kiến về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, TS. Nguyễn Tiến Hùng, Trưởng Khoa Cơ bản, Học viện Chính sách và Phát triển cho biết, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, việc bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Về chính sách ưu đãi xã hội, so với mô hình phổ biến trên thế giới, hệ thống ASXH ở Việt Nam có một cấu phần đặc thù, đó là chính sách ưu đãi người có công. Chính sách này nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là đền ơn, đáp nghĩa đối với sự hy sinh, công lao đặc biệt và cống hiến to lớn của những người có công với cách mạng, với đất nước; thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội chăm lo, bảo đảm cho người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện, nhất là từ khi có Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 19-7/2017, của Ban Bí thư, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng. Chính sách ưu đãi xã hội đã mở rộng đối tượng, từng bước nâng mức trợ cấp chính sách ưu đãi người có công phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước (Mức chuẩn trợ cấp năm 2015, tăng 71,2% so với năm 2010).

Các đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, Kỳ họp thứ 6

Theo đó, tổng kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công tăng từ 21 ngàn tỷ năm 2011 lên trên 32 ngàn tỷ đồng năm 2015. Việc triển khai thực hiện chính sách bảo đảm đúng, đủ và kịp thời tới đối tượng được hưởng. Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công cùng nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng. Đời sống người có công không ngừng được cải thiện, đến cuối năm 2015 có 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân cư nơi cư trú, tăng thêm 8,5% số hộ so với năm 2010.

Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp hằng tháng. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng, số người tham gia tăng từ 9,5 triệu người năm 2010 lên 14,7 triệu người năm 2018 (chiếm 30,4% lực lượng lao động trong độ tuổi). Giai đoạn 2021 -6/2023 mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng là 1.624.000 đồng.

Về công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững, trong hơn 35 năm đổi mới, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác xóa đói, giảm nghèo. Theo đó, thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động xóa đói giảm nghèo cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm đói nghèo của Việt Nam được thay đổi và ngày một gần với quan niệm đói nghèo của thế giới.

Nếu như nhu cầu hỗ trợ của người nghèo vào những năm 90 của thế kỷ XX chỉ giới hạn đến nhu cầu "ăn no, mặc ấm", thì ngày nay, người nghèo còn có nhu cầu được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa..., tiếp đến là nhu cầu được trợ giúp để hạn chế rủi ro, được quyền tham gia nhiều hơn và có hiệu quả hơn vào các hoạt động của xã hội. Điều này cho thấy Việt Nam đang hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững. Việc xây dựng chuẩn nghèo sẽ theo hướng sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Trong những năm qua, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 11,76% năm 2011 xuống còn dưới 5% năm 2015 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015; giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 3,75% năm 2019 và đến cuối năm 2020 còn khoảng 2,75% theo chuẩn nghèo 2016-2020, bình quân mỗi năm giảm hơn 1,4%, hoàn thành mục tiêu Quốc hội đề ra (1-1,5%/năm). Bất bình đẳng về thu nhập trong tầm kiểm soát (hệ số GINI thu nhập duy trì ở mức 0,42-0,43). Tính đến tháng 1 năm 2023, tỷ lệ nghèo đa chiều là 7,52% (tương đương là 1.972.767 hộ).

Về phát triển hệ thống dịch vụ xã hội, dịch vụ xã hội là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò nhằm tăng cường cho người dân khả năng tiếp cận hệ thống dịch vụ cơ bản, bảo đảm phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác.

Hiện nay, hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản được phát triển và mở rộng, nhất là về chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, nhà ở cho người nghèo, người có công với cách mạng…; có cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện.

Tuy nhiên, cùng với những những thành tựu trên, bảo đảm ASXH của Việt Nam cũng gặp phải hạn chế. Đó là việc bao phủ và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… chưa đạt được như kỳ vọng, tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức còn lớn, phân hoá giàu - nghèo gia tăng, việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản ở vùng sâu, vùng xa còn khó khăn, như Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập,… Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập… bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa”.

Minh Hùng