NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT VỀ LÝ LUẬN TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 2016-2021

09/11/2022

Ngay từ khi đất nước được độc lập, công tác lý luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Hướng đến ''Hội thảo Văn hóa 2022'' sắp diễn ra, Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết: ''Những thành tựu nổi bật về lý luận trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 2016-2021'' của PGS.TS Bùi Hoài Sơn- Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.

ĐBQH, PGS.TS BÙI HOÀI SƠN: CẦN THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG AN TOÀN TRONG MÙA DỊCH

Công tác lý luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã không ngừng phát triển

Ngay từ khi đất nước được độc lập, công tác lý luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện trong các văn kiện của Đảng như: Đề cương văn hóa năm 1943 với 3 nguyên tắc xây dựng văn hoá “dân tộc, khoa học, đại chúng”; Cương lĩnh năm 1991 xác định lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội với "nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc”[1];  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII xác định văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội”[2]. Đặc biệt, hai năm sau đó, với sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã tạo ra một bước ngoặt toàn diện trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa và vai trò của văn hóa, thể hiện tầm nhìn chiến lược về văn hóa, phù hợp yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của đất nước… Tiếp theo, Cương lĩnh năm 2011 trên cơ sở bổ sung, phát triển những thành tựu trong nhận thức lý luận về văn hóa đã đạt được trong quá trình thực hiện Cương lĩnh 1991, đã khẳng định quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”; Nghị quyết Hội nghị trung ương 9 khóa XI (2014) đã nhấn mạnh việc gắn mục tiêu xây dựng văn hóa với xây dựng con người, đó là: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”[3]; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” [4].  Nghị quyết Hội Nghị lần thứ XIII nhấn mạnh quan điểm phát triển: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân.”[5]

Đến năm 2016, tổng kết 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bước vào thời kỳ cách mạng văn hóa mới của đất nước, kế thừa những thành tựu đạt được về lý luận trên lĩnh vực văn hóa, Đảng tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hệ thống lý luận văn hóa và phản ánh định hướng giá trị chung trong xây dựng phát triển văn hóa đất nước phù hợp với yêu cầu, điều kiện của thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người, nhận thức lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội, văn hóa và con người thể hiện sự gắn bó hữu cơ, nhuần nhuyễn. Chính vì vậy, từ năm 2016 đến nay, hơn bao giờ hết, công tác lý luận trong lĩnh vực văn hóa đã được mọi người và toàn xã hội nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa trong mối liên hệ chính trị và kinh tế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) đã cụ thể hóa và làm rõ nhiệm vụ “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước[6]. Văn kiện đã đề ra đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ mới với bước chuyển giai đoạn quan trọng, khẳng định “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” gắn bó với vấn đề xây dựng con người và chỉ rõ mối quan hệ không tách rời giữa văn hóa với kinh tế, chính trị tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Ðiều đó có nghĩa là, Ðảng ta đã xác định văn hóa trong quan hệ khăng khít với tất cả các thành tố và lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội và của sự phát triển đất nước. “Gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người”, có nghĩa là cùng với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là chủ thể của sự phát triển cũng là một mục tiêu của văn hóa cách mạng thời kỳ này. Bên cạnh đó, tiếp tục khẳng định quan điểm quan trọng về phát triển gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, con người đã được đặt ra từ Đại hội X, Đại hội XII của Đảng lần đầu tiên đặt ra vấn đề quản lý phát triển xã hội. Thực chất của vấn đề quản lý phát triển xã hội là điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa các tiến trình, các lĩnh vực trong quá trình phát triển đất nước, bảo đảm cho sự phát triển bền vững, hài hòa của xã hội, nhất là các vấn đề liên quan đến con người, bảo đảm sự công bằng cho mọi thành viên xã hội, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của con người trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn- Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội

Như vậy, kể từ năm 2016 đến nay, nhận thức lý luận của Đảng ta về văn hóa tiếp tục có bước phát triển, góp phần tích cực vào thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước với những thành tựu nổi bật như sau:

Thứ nhấtbước đầu nhận thức tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa thực chất là quá trình phát triển văn hóa để tạo "sức mạnh nội sinh" và môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, đồng thời, kinh tế phát triển lại là điều kiện cho sự phát triển của văn hóa. Thực tiễn những năm vừa qua đã chỉ rõ ở một số địa phương đã thực hiện và giải quyết tốt quan hệ trên góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển hơn và đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao. Việc gắn kết chặt chẽ giữa chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa để tạo nên sự phát triển hài hòa giữa văn hóa với kinh tế đã bước đầu được thực hiện. Chính vì thế, có thể nói từ nhận thức về văn hóa với vai trò là “nền tảng tinh thần của xã hội, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”,“sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững”, việc làm rõ nội dung, cơ chế và hệ quả tác động qua lại giữa văn hóa với đời sống kinh tế - xã hội nước ta như thế nào, nhất là trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có được những kết quả nhất định. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp văn hóa kết nối những giá trị văn hóa với giá trị thương mại của các sản phẩm văn hóa chính là một trong những đổi mới và là thành tựu lý luận của Đảng. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm – dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa – dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế chính là sức mạnh mềm văn hóa quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người dân, cũng như mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá đất nước.

Thứ haixác định sự cần thiết phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Môi trường văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống con người. Nội dung xây dựng môi trường văn hóa được Đảng xác định bao gồm:  Xây dựng đời sống văn hoá ở các cơ sở; Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư văn hoá; Xây dựng nếp sống văn minh; Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá; Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phong trào văn hoá, văn nghệ[7]. Chúng ta biết rằng, mục đích xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là để đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Chính vì thế sự cải thiện môi trường văn hóa - xã hội trên thực tế là làm cho cuộc sống vật chất của người dân ngày càng được cải thiện, an sinh xã hội và an ninh con người ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Điều này được thể hiện qua việc nhận thức và làm rõ được mối quan hệ, vai trò của môi trường văn hoá với phát triển nhân cách văn hoá và môi trường tự nhiên trong phát triển, nhất là khi xem xét mối quan hệ với đời sống văn hoá và thực tiễn môi trường văn hóa về phương diện quản lý. Trong nhận thức lý luận của Đảng về văn hoá, các lĩnh vực văn hoá là đối tượng lãnh đạo, quản lý, xây dựng nền văn hoá, thì đời sống văn hoá được xem là một trong bốn lĩnh vực quan trọng cần phải quan tâm. Tập trung làm rõ hơn cơ sở lý luận trong nhận thức thực hiện nội dung, nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa hiện nay để trên cơ sở đó tìm hiểu những hiện tượng đó do đâu mà có và môi trường văn hóa - xã hội có ảnh hưởng như thế nào, tại sao; nguyên nhân nào dẫn đến những hạn chế về môi trường văn hóa - xã hội hiện nay, mối liên hệ và tác động qua lại giữa môi trường và các hiện tượng tiêu cực trong đời sống như thế nào, giải pháp nào để tích cực hóa môi trường văn hóa - xã hội và giải quyết những hiện tượng tiêu cực đó. Nghị quyết Nghị quyết số 33-NQ/TW đã có sự bổ sung mới cả về lý luận và thực tiễn về xây dựng môi trường văn hóa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: 1. Mục tiêu là xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách; 2. Quan điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; 3. Nhiệm vụ: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở đó mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống.

Thứ ba, lý luận và nhận thức về vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được làm rõ.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định một nhiệm vụ quan trọng là: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8]. Văn hóa phát huy vai trò của mình khi thâm nhập, tác động vào kinh tế, vào chính trị, đồng thời kinh tế và chính trị cũng quy định và chế ước văn hóa, là điều kiện và nguồn lực cho văn hóa hoạt động[9]. Trong thời gian qua, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, trong xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền và nhân văn vì mục tiêu phát triển xã hội lành mạnh, bền vững, bảo đảm cho con người có điều kiện phát triển hết các khả năng sẵn có của mình, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc ngày càng được Đảng tập trung làm rõ với hai nhiệm vụ:

+ Xây dựng văn hóa trong chính trị: Xây dựng văn hóa trong chính trị là nhận rõ và khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và văn hóa. Trong thời gian qua Đảng đã xác định việc xây dựng thể chế để bảo đảm phát huy vai trò của chính trị đối với phát triển văn hóa là vấn đề quan trọng hàng đầu với các nhiệm vụ: Xây dựng và hoàn thiện thể chế đó phải vừa bảo đảm được định hướng chính trị đúng đắn, vừa phát huy tự do, dân chủ rộng rãi trong xã hội để phát triển văn hóa; Mối quan hệ giữa kỷ luật, kỷ cương và tự do, dân chủ là mối quan hệ căn bản phải được xử lý biện chứng, hợp lý, hợp tình trong luật pháp và chính sách phát triển văn hóa; Gắn kết chặt chẽ phát triển văn hóa với công tác chỉnh đốn và xây dựng Ðảng, xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.

+ Xây dựng văn hóa trong kinh tế: Nguyên lý nền tảng của phát triển xã hội lành mạnh, thể hiện tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế là kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, công bằng không chỉ trong phân phối lợi ích mà sâu xa hơn là công bằng về cơ hội phát triển. Việc Đảng ta xác định xây dựng văn hóa trong kinh tế chính là để đạt được những mục tiêu đặt ra trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời quán triệt tinh thần không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, nhất là không thể vì các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà hy sinh những thứ khác. Đây là khía cạnh văn hoá của tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng phải gắn liền với việc đảm bảo quyền lợi của đa số nhân dân lao động, với tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội.

Thứ tưđặt vấn đề cần phải xác định hệ giá trị chuẩn mực trong xây dựng và phát triển văn hóa, đạo đức con người Việt Nam hiện đại.

Trong xây dựng, phát triển văn hoá, con người của nước ta hiện nay thì hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam vừa là một trong những phạm trù trung tâm của khoa học văn hoá, vừa là một nội dung then chốt giữ vai trò định hướng, kiểm định việc xây dựng, phát triển văn hoá, con người Việt Nam. Trong bối cảnh chuyển đổi đa chiều, phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế hiện nay, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người Việt Nam đang có những biến động phức tạp, dẫn đến một số hiện tượng đáng lo ngại về sự xuống cấp văn hóa, đạo đức ở Việt Nam như sự tha hóa, biến chất của một bộ phận những người có tiền, có quyền; nạn bạo hành, xâm hại trẻ em; quan hệ giữa thầy, cô giáo và học trò; không ít người trẻ lười lao động, ăn chơi hưởng thụ; Môi trường văn hoá còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng… Nguyên nhân là do nhận thức về hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế chưa đầy đủ, chưa hệ thống, chưa đáp ứng được yêu cầu định hướng xây dựng phát triển văn hoá, con người trong thực tiễn. Vì vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) đã tiếp tục phát triển nhận thức mang tính đột phá về nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hoá, con người, trong đó có nội dung hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế với việc đề ra nhiệm vụ cụ thể: "phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; Xây dựng môi trường văn hoá một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hoá thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, tính cộng đồng và khát vọng vươn lên. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hoá ứng xử của người lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức và đảng viên. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hoá, con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.”[10] Có thể nói, việc đặt vấn đề cần phải xác định cho được nội dung các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người là một trong những thành tựu lý luận quan trọng của Đảng về phát triển văn hóa, hoàn thiện con người Việt Nam hiện nay, góp phần vào nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người ở nước ta.

Thứ nămgiải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa.

Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có văn hoá là quy luật khách quan. Trước những tác động (cả tích cực và tiêu cực) của quá trình hội nhập quốc tế đặt ra cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, Đảng đã nhận thấy những yêu cầu mới về lý luận nhận thức, đó là: cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn quán triệt trong khi phải chủ động thích ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế, nền văn hóa dân tộc phải khẳng định vị thế của mình trong giao lưu, tiếp xúc, đối thoại giữa các nền văn hóa trên thế giới, bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức, tinh thần tốt đẹp và bền vững của  dân tộc Việt Nam trong những điều kiện và đặc điểm mới thì đồng thời nền văn hóa dân tộc phải mở mang nhận thức về các giá trị văn hóa của nhân loại, chủ động trong chính sách lựa chọn, tiếp thu, học tập tinh hoa văn hóa của các quốc gia, dân tộc khác.

Như vậy, ngày từ khi ra đời đến nay trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng các vấn đề văn hóa - xã hội - con người và luôn đặt vào vị trí trung tâm của các quan điểm, đường lối. Mặc dù ở mỗi thời kỳ khác nhau, tùy theo các điều kiện lịch sử cụ thể, cách tiếp cận vấn đề cũng khác nhau. Tuy nhiên, từ năm 2016 cho đến nay, có thể nói thành tựu nổi bật về lý luận văn hóa của Đảng đó là: Tư duy lý luận và nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội, văn hóa và con người có bước phát triển vượt bậc, thể hiện sự gắn bó hữu cơ, nhuần nhuyễn. Các yếu tố này làm tiền đề cho nhau, quy định lẫn nhau, trong đó tập trung vào sự phát triển toàn diện của con người trên tinh thần con người vừa là động lực quyết định, vừa là mục tiêu trung tâm của sự phát triển trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, hà Nội, 1998.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011.
  5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. 
  6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H., 2016.
  7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. 2021.
  8. Hoàng Chí Bảo, Xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế
  9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 3/6/2017, tr.10

[1] ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.

[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.29.

[3] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H., 2011, tr.75-76.

[4] ĐCSVN, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành TƯ Đảng (khóa XI) về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, 

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, hà Nội, 1998, tr. 59 - 60

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.128.

[9] Hoàng Chí Bảo, Xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/anh-chinh/item/2309-xay-dung-van-hoa-trong-chinh-tri-va-van-hoa-trong-kinh-te.html

[10] Văn kiện Đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, (tập 1) Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 262-264

PGS.TS Bùi Hoài Sơn