Tham dự phiên họp có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến; đại diện một số Ủy ban của Quốc hội, đại diện Bộ Kế hoạch và đầu tư....
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành trình bày Báo cáo tại Hội nghị
Trình bày báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển; phân định xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao”, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành cho biết, theo chương trình hoạt động năm 2017, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đã giám sát chuyên đề “Việc thực hiện phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển; phân định xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao”. Để có các căn cứ hoạch định chính sách, tạo các điều kiện, cơ chế đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Chính phủ đã có chủ trương và tổ chức thực hiện phân định địa bàn miền núi, vùng cao; phân định vùng dân tộc thiểu số, miền núi theo trình độ phát triển. Việc phân định miền núi, vùng cao là cơ sở để ban hành chính sách quy định trong các Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Tổ chức chính quyền địa phương.... Phân định vùng dân tộc thiểu số theo trình độ phát triển là cơ sở để thực hiện các chính sách cho đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, ổn định đời sống, xóa đói giảm nghèo; đồng thời áp dụng để thực hiện các nội dung chính sách về giáo dục, y tế, bảo đảm an ninh xã hội khác.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, cách phân định xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao và phân định vùng dân tộc thiểu số, miền núi theo trình độ phát triển đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, áp dụng không thống nhất. Các tiêu chí chính để xác định miền núi, vùng cao mới chỉ căn cứ yếu tố độ cao so với mặt nước biển và tiêu chí số đơn vị hành chính để xác định là là tỉnh, huyện, xã là vùng cao. Một số tiêu chí, yếu tố đặc thù về địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khí hậu có tác động thường xuyên tới sản xuất và đời sống của cư dân chưa được thể hiện.
Bên cạnh đó, việc phân định miền núi, vùng cao trên thực tế vừa qua chưa phản ảnh đúng tính chất, tương quan giữa các địa phương, các vùng, tạo nên sự chênh lệch đáng kể trong kết quả xếp loại. Nhiều nơi, địa bàn trung du, đồi thấp cũng được xếp loại vùng miền núi hay vùng núi một số tỉnh đồng bằng có tính khác biệt với miền núi, vùng cao. Điều này dẫn đến việc áp dụng các các chính sách thiếu sự đồng bộ, thiếu sự tập trung ưu tiên và phân tán nguồn lực.
Về hạn chế, bất cập trong phân định vùng dân tộc thiểu số, miền núi theo trình độ phát triển, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành cho biết, nhìn vào kết quả phân định xã khu vực 3 (xã đặc biệt khó khăn) trong gần 20 năm, số lượng xã hầu như không thay đổi. Điều này cho thấy còn hạn chế về hiệu quả đầu tư và kết quả thực hiện các mục tiêu của hệ thống chính sách đã, đang thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, trong các tiêu chí phân định cấp xã, thôn bản vùng dân tộc thiểu số, miền núi thành 3 khu vực, tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo là quan trọng số một, có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, căn cứ này lại luôn có sự biến động hàng năm (chưa kể đến mức độ tin cậy và độ chính xác của kết quả đánh giá hộ nghèo của cơ sở), trong khi tính ổn định của bộ tiêu chí phân định là 5 năm, dẫn đến một số bất cập trong thực hiện chính sách đầu tư và thụ hưởng chính sách xã hội của rất nhiều đối tượng liên quan.
Thực tế đã có khá nhiều sự thay đổi, biến động, nhưng chưa có sự điều chỉnh, đánh giá kết quả phân định phù hợp. Bên cạnh đó là việc mở rộng các tiêu chí và kết quả phân định chưa chính xác ở một số địa phương dẫn đến sự chênh lệch đáng kể trong xếp loại giữa các vùng, thiếu trọng tâm, trọng điểm dẫn đến việc hoạch định, tổ chức thực hiện một số chính sách trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số đạt hiệu quả chưa cao, vừa thiếu, vừa chồng chéo, khó quản lý, khó thực hiện; đôi khi dẫn đến sự thiếu bình đẳng về đầu tư và chính sách an sinh xã hội.
Thảo luận tại Hội nghị, nhiều đại biểu cho rằng, các chương trình, chính sách, dự án đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi hiện nay có nhiều nội dung chồng chéo, thiếu tập trung, nhiều đầu mối quản lý, dẫn đến phân tán nguồn lực, khó khăn trong quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Một số chính sách không phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng dân tộc; chưa gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề xã hội, nhu cầu cấp bách. Một số chính sách hiệu quả chưa cao cần được xem xét. Đây là những tồn tại bất cập đã được chỉ ra, nhưng chậm được giải quyết. Bên cạnh đó, theo các đại biểu, cần có sự thống nhất về tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Trong đó, việc phân bổ nguồn lực đầu tư, hỗ trợ cần tập trung theo hướng dựa vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc thiểu số, vùng cao.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo cho cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Vừa qua, việc ban hành và thực hiện nhiều chương trình, chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những kết quả tích cực, kết cấu hạ tầng vùng miền núi được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào không ngừng được nâng lên.
Thời gian tới, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị Ủy ban Dân tộc phối hợp, chỉ đạo, tham mưu cho Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn thiện và tập trung thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách giảm nghèo, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình 135 phát triển các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Đề án phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc rất ít người và chính sách hỗ trợ người có uy tín…Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị các bộ, ban, ngành Trung ương, cấp ủy chính quyền địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc. Riêng Hội đồng nhân dân các tỉnh cần có những quyết định kịp thời, linh hoạt các chính sách được phân cấp quyết định, giám sát thực hiện tại địa phương theo thẩm quyền.