Sửa đổi, bổ sung quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
I. Tầm quan trọng của việc ban hành các đạo luật điều chỉnh các nội dung liên quan đến dân tộc thiểu số ở các quốc gia; quan điểm, đường lối về chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Tầm quan trọng của việc ban hành các đạo luật điều chỉnh các nội dung liên quan đến dân tộc thiểu số ở các quốc gia
Trên thế giới, ở các quốc gia có nhiều dân tộc tất yếu sẽ nảy sinh nhiều quan hệ mang tính đa tầng, đan xen, phức hợp trên những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội thể hiện dưới các góc độ quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong đó có người dân tộc thiểu số, giữa các nhóm dân tộc thiểu số với nhau, và với nhóm dân tộc chiếm đa số. Đây là vấn đề mang tính bản chất và là thuộc tính của bất kỳ chế độ xã hội nào ở mỗi quốc gia, mỗi vùng địa lý có từ hai hay nhiều dân tộc. Xuất phát từ vấn đề lịch sử phát triển, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia, của từng nhóm dân tộc mà mức độ thể hiện của các mối quan hệ này khác nhau, về quy mô, tính chất, hình thức. Nhưng rõ ràng, với mỗi Nhà nước hay thể chế chính trị, việc chế định hành lang khuôn khổ pháp lý nhằm điều chỉnh các quan hệ đó là vô cùng cần thiết, bởi vấn đề dân tộc luôn là vấn đề nhạy cảm, dễ chuyển hóa phức tạp.
Trên phạm vi toàn cầu, vấn đề dân tộc, xung đột dân tộc đã xảy ra trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử loài người và có xu hướng phát triển mạnh hơn sau những năm 1990 khi hệ thống nước xã hội chủ nghĩa tan vỡ. Nguồn gốc sâu xa của nó chính là các vấn đề lợi ích trong quan hệ dân tộc không được giải quyết hoặc giải quyết chưa thỏa đáng. Do vậy, nhiều quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống đã ban hành đạo luật riêng như: Cộng hòa Séc (Luật về Dân tộc thiểu số, 2001), Cộng hòa Croatia (Luật về quyền của người dân tộc thiểu số, 2002), Cộng hòa Ba Lan (Luật về quốc gia và dân tộc thiểu số và ngôn ngữ khu vực, 2005), Cộng hòa Philipines (Luật công nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền của các cộng đồng văn hóa dân tộc thiểu số, 1997), Cộng hòa Ấn độ (Luật về Đẳng cấp và bộ tộc, 1989), Trung Quốc (Luật tự trị vùng dân tộc thiểu số) v.v. Bên cạnh đó, một số quốc gia ban hành các điều khoản liên quan đến dân tộc thiểu số trong các đạo luật chuyên ngành như Hoa Kỳ (Luật về ngôn ngữ, văn hóa), Australia (Luật về xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc, 1975).
Cộng hòa Séc đã ban hành Luật về Dân tộc thiểu số năm 2001. Trong ảnh: Một phiên họp của Hạ viện Séc (ảnh TTXVN)
Việc ban hành các đạo luật đã giúp các quốc gia giải quyết tốt hơn vấn đề liên quan đến người dân tộc thiểu số về chính trị, kinh tế và văn hóa trên cơ sở bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, quyền được phát triển và những chính sách để bảo vệ và thúc đẩy nhằm đạt được các quyền đó.
Có thể nói, việc ban hành các đạo luật về dân tộc của các nước có thể là bài học tham khảo cho Việt Nam trong việc tiếp cận xây dựng nội dung dự án Luật về lĩnh vực dân tộc để bảo đảm yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn cũng như tính hợp lý của nó.
1.2. Quan điểm, đường lối về chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam và những điểm mấu chốt cho việc xây dựng dự án Luật
Ở nước ta, kể từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vị trí, vai trò quan trọng của vấn đề dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra những nguyên tắc, định hướng chiến lược cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc, đó là: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Đường lối, quan điểm của Đảng đối với vấn đề dân tộc liên tục được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của đất nước qua mỗi giai đoạn cách mạng.
Sau khi đất nước được thống nhất, tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định: “Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệnh về trình độ kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ [1].”
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt Đoàn đại biểu người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới, biển đảo nhân dịp tham dự chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ II, tháng 6/2024.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) có đoạn viết: “Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi [2]”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) đã xác định tầm quan trọng của chính sách dân tộc, trong đó nhấn mạnh quyền bình đẳng chính trị của các dân tộc thiểu số là: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc.”
Đáng chú ý, Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ về nguyên tắc để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc: “Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó; mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác và góp phần phát triển nền văn hóa chung của cả nước, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.”
Điểm nhấn quan trọng trong Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị là cách thức tiếp cận chính sách trong giải quyết vấn đề dân tộc, đó là việc quy định pháp luật bảo đảm để mọi người thuộc các dân tộc đều có quyền bình đẳng trên mọi phương diện của đời sống; và cần có những chính sách đặc thù để thúc đẩy bảo đảm thực hiện các quyền bình đẳng đó.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục tổng kết: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển…Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số….Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc” [3].
Có thể thấy, quan điểm, đường lối chính trị xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân tộc, công tác dân tộc được thể hiện trong ba điểm chính sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia nhiều dân tộc trên nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc thiểu số với nhau, giữa người đa số và người thiểu số; chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Thứ hai, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được bảo đảm bằng pháp luật và phải có chính sách tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc đoàn kết tương trợ, vươn lên mạnh mẽ, phát triển cùng đất nước, đi lên con đường văn minh tiến bộ.
Thứ ba, phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số; tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc.
Rõ ràng, với quan điểm, đường lối rõ ràng, nhất quán, tiến bộ về chính sách dân tộc, việc hình thành hệ thống khuôn khổ pháp lý (trong đó có thể có Luật Dân tộc) để thực hiện các mục tiêu cách mạng là cần thiết. Về chủ trương xây dựng Luật Dân tộc, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII,VIII IX và Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016 đã cho ý kiến chấp thuận. Đây là quyết định chính trị quan trọng đối với một vấn đề hệ trọng, khẳng định sự cần thiết ban hành Luật Dân tộc mặc dù hiện đã có nhiều chính sách cụ thể (các văn bản dưới luật) về dân tộc và các điều khoản liên quan đến dân tộc thiểu số được quy định trong một số luật chuyên ngành.
Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. (ảnh minh họa)
II. Tiến trình thực hiện dự án Luật Dân tộc từ 1993-2017 và một số vấn đề, bài học kinh nghiệm được rút ra
2.1. Tiến trình thực hiện dự án Luật Dân tộc từ 1993-2017
Luật Dân tộc đã trải qua các giai đoạn, quá trình chuẩn bị soạn thảo 15 năm với 18 lần trình dự thảo lấy ý kiến. Có thể nói, đây là một trong những dự thảo Luật có thời gian “thai nghén” dài nhất.
Giai đoạn 1993-2002, dự thảo Luật Dân tộc đã được Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nghiên cứu và soạn thảo qua 13 lần lấy ý kiến, tiếp thu và chỉnh lý.
Giai đoạn 2003-2007, nhiệm vụ trên lại được giao cho Ủy ban Dân tộc là cơ quan chủ trì, và có sự phối hợp của 10 bộ, ngành liên quan (theo Quyết định số 35/2003/QĐ-TTg ngày 06/03/2003 của Thủ tướng Chính phủ). Dự án Luật Dân tộc đã được chỉnh lý, bổ sung đến lần thứ 5.
Giai đoạn 2016-2017, Ủy ban Dân tộc tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với tên gọi “Luật Hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số”. Sau đó, một phần của nội dung này được phát triển thành đề án tổng thể “Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” và được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Nghị số 88/2019/QH 14.
Mặc dù qua nhiều lần, nhiều bước, các dự thảo Luật đã dần được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, dự thảo Luật Dân tộc vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhiều vấn đề chưa thuyết giải được rõ ràng, chưa tạo được sự đồng thuận ngay từ những vấn đề rất chung như: tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và cấu trúc nội dung.
Dựa trên Báo cáo nghiên cứu tổng kết những vấn đề tồn tại trong các dự thảo Luật thời gian vừa qua, có thể tổng kết thành 05 điểm chính sau:
- Luật Dân tộc chưa xác định cụ thể về phạm vi điều chỉnh [4], đối tượng áp dụng, chưa xác định rõ các chính sách và những cơ chế, giải pháp cụ thể để thực hiện Luật và các chính sách trong Luật.
- Các quy định nội dung còn chung, chủ yếu là những nguyên tắc mang tính khái quát về các quyền cho các dân tộc thiểu số, thể hiện cam kết về trách nhiệm của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số, một số nét cơ bản về công tác dân tộc.
- Thiếu các quy định cụ thể, cần thiết để tạo nên cơ chế thực hiện một cách thống nhất và đồng bộ các chính sách của Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa- xã hội, phát huy nội lực của các dân tộc thiểu số, cộng đồng dân tộc thiểu số.
- Chưa xác lập rõ ràng, cụ thể về tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp các hoạt động của các Bộ, ngành và địa phương trong việc xây dựng và thực thi các chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiếu số.
- Nội dung bản thuyết minh chưa lý giải thật sự thuyết phục sự cần thiết ban hành luật trong bối cảnh nước ta có hàng chục các luật có các quy định liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số cũng chưa làm rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh và mối quan hệ giữa luật này với các luật chuyên ngành có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số.
Thường trực Hội đồng Dân tộc tổ chức Hội thảo khoa học “Thể chế hóa quan điểm của Đảng và Hiến pháp 2013 về lĩnh vực dân tộc”
2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc triển khai xây dựng dự án Luật Dân tộc
Từ quá trình triển khai xây dựng dự án Luật Dân tộc thời gian vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
(i) Bám sát chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về chính sách dân tộc, công tác dân tộc. Trong đó, phân tích, xác định được những điểm mấu chốt trong cách tiếp cận, xác định nội hàm của luật, đối tượng, phạm vi điều chỉnh.
(ii) Xử lý tốt vấn đề quan hệ giữa dự thảo Luật với những nội dung chính sách pháp luật đã có. Xác định những nội dung cơ bản cần thể hiện đối với dự án Luật vừa bảo đảm hài hòa trong hệ thống pháp luật chung, vừa thể hiện được những điểm riêng cần có đối với vấn đề dân tộc một cách rõ ràng.
(iii) Về cách làm, nên triển khai một cách đồng bộ, khoa học và phải tập hợp, tiếp thu được rộng rãi, đầy đủ, chắt lọc trí tuệ của các chuyên gia, nhà quản lý, nhà chính trị trong việc đóng góp trong quá trình chuẩn bị dự án Luật.
(iv) Cần tạo hành lang vận động chính sách, nhất là đối với các nhà lập pháp, nhà chính trị để tạo sự chia sẻ và ủng hộ. Đây là một điểm cần hết sức chú ý. Sử dụng các công cụ truyền thông tạo thêm hiệu ứng.
(v) Quy trình, các bước tiến hành phải hết sức cần thận, chu đáo và các hồ sơ, tài liệu phải đầy đủ, rõ ràng, có sức thuyết phục, bảo đảm đúng thời gian theo quy định.
III. Một số bàn luận và khuyến nghị đối với việc xây dựng dự án Luật Dân tộc
3.1. Cách tiếp cận xây dựng dự thảo Luật
Lấy nguyên tắc Đường lối của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc làm cốt lõi là: đảm bảo sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển và tạo điều kiện để các dân tộc phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước [5]. Bình đẳng là vấn đề mấu chốt là tiền đề và hệ quả của các yếu tố đoàn kết, tương trợ phát triển. Nguyên tắc này được cụ thể hóa rất rõ trong Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó; mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ”.
Với cách tiếp cận trên, để đạt được các mục tiêu, cần lưu ý một số nhóm vấn đề sau:
(i) Hệ thống pháp luật (chủ yếu luật, pháp lệnh) phải thể hiện các điều kiện bảo đảm (hoặc yếu tố đặc thù) để thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp và đường lối, nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Trong đó, phải xử lý được những khoảng trống trong pháp luật chung quốc gia để bảo đảm quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
(ii) Nhà nước có chính sách (luật hoặc chính sách dưới luật), chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có tính đặc thù nhằm thúc đẩy sự phát triển đời sống nhân dân, các dân tộc thiểu số để hướng tới sự bình đẳng về mọi mặt trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của đất nước…
(iii) Nhà nước có bộ máy tổ chức, cơ chế thực hiện và phối hợp thực hiện, nguồn lực đầy đủ để triển khai các nội dung pháp luật và chính sách có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số để đạt được mục tiêu bình đẳng và phát triển của các dân tộc.
Như vậy, Luật tiếp cận theo hướng phải giải quyết vấn đề dân tộc quốc gia mà mấu chốt của nó là quan hệ dân tộc, bao gồm chính sách dân tộc (chính sách hiểu theo nghĩa rộng), công tác dân tộc (cả tổ chức bộ máy). Đối tượng cần tác động trực tiếp ở đây xác định là đồng bào dân tộc thiểu số và gián tiếp là đồng bào đa số trên đất nước Việt Nam.
Một số vấn đề cần lưu ý trong tiếp cận xử lý:
(1) Cần có sự phân định tương đối trong cách tiếp cận pháp luật chính sách, dân tộc thiểu số hay vùng. Đây là điểm hay dẫn đến sự vướng mắc trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc hiện nay. Mặc dù có nơi khái niệm vùng dân tộc thiểu số là đồng nhất, có nơi lại đan xen, có nơi chỉ đơn thuần là vùng đặc biệt khó khăn. Hiện hệ thống chính sách đang quy về một phạm vi chung là chính sách dân tộc. Tiếp cận trong dự thảo Luật mới chỉ quy định cho đối tượng dân tộc thiểu số, không tiếp cận theo vùng dân tộc vì không rõ nét và nước ta có chính sách cho vùng khó khan, đặc biệt khó khăn, hộ nghèo để tránh chồng lẫn.
(2) Giải quyết quan hệ trong hệ thống pháp luật với các nội dung các luật đã được quy định. Các nội dung chưa được quy định cụ thể, cần được pháp điển hóa trong dự thảo Luật; vấn đề nội dung đã đầy đủ thì dẫn chiếu luật chuyên ngành.
(3) Nhiều vấn đề, nội dung mới của Hiến pháp 2013 liên quan đến vấn đề dân tộc trong các nội dung quy định về quyền công dân, quyền con người cũng cần được thể chế hóa cụ thể vào dự án Luật để bảo đảm nguyên tắc thống nhất trong hệ thống luật pháp, chính sách..
Tóm lại, cần nghiên cứu một cách sâu sắc các quan điểm, đường lối của Đảng qua các Nghị quyết để lựa chọn một cách phù hợp cách tiếp cận trong xây dựng Luật Dân tộc. Cần xác định điểm nào là mấu chốt, nguyên tắc thể hiện ra sao để khai triển các nội dung tiếp theo.
3.2. Về tên gọi, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Trên cơ sở nghiên cứu dự thảo Luật Dân tộc được trình gần đây, xin đề xuất một số nội dung sau:
a) Về tên gọi luật: Từ cách tiếp cận trên, Luật nên chỉ rõ là Luật Dân tộc. Trong đó, xác định đối tượng dân tộc thiểu số là nhóm đối tượng chính của luật. Dân tộc đa số liên quan đến nhóm đối tượng điều chỉnh, là đối tượng gián tiếp.
b) Về phạm vi điều chỉnh: Dự thảo Luật điều chỉnh 3 mối quan hệ:
- Mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, cộng đồng dân tộc thiểu số;
- Mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số với nhau, dân tộc đa số với dân tộc thiểu số.
- Mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp đến dân tộc thiểu số.
c) Đối tượng áp dụng: Có 3 nhóm được xác định:
- Các công dân Việt Nam, công dân là người dân tộc thiểu số.
- Cơ quan Nhà nước khi thực hiện chính sách nói chung, chính sách dân tộc nói riêng và các nội dung liên quan đến dân tộc thiểu số.
- Tổ chức trong nước, nước ngoài thực hiện hoặc tham gia thực hiện các hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam liên quan đến dân tộc thiểu số.
3.3. Về gợi mở kết cấu nội dung
Nội dung của dự thảo Luật Dân tộc cần thể hiện được các nhóm nội dung sau:
- Giải thích từ ngữ (chính sách dân tộc, công tác dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc, vùng dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, miền núi - vùng cao, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người); nguyên tắc, đường lối chung về chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, xác định thành phần dân tộc, các hành vi bị nghiêm cấm.
- Các điều luật quy định cụ thể hóa nhằm bảo đảm thực hiện được quyền bình đẳng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa đối với đồng bào dân tộc thiểu số, bao gồm cả lĩnh vực tư pháp (có thể quy định cụ thể hoặc dẫn chiếu).
- Các điều luật quy định về chính sách đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước cho đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế bảo đảm thực hiện. Tập trung trên các lĩnh vực: giáo dục và đào tạo, sử dụng cán bộ dân tộc; đào tạo nghề và việc làm; bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, văn hóa với phát triển du lịch; y tế - dân số; thông tin - tuyên truyền; quốc phòng - an ninh; khoa học - công nghệ; bảo vệ môi trường; bảo vệ rừng và đất đai v.v. Nguồn lực đầu tư, cơ chế đầu tư, cơ chế quản lý phát triển cộng đồng.
- Các điều luật quy định về quản lý Nhà nước về công tác dân tộc, gồm: Nội dung quản lý; tổ chức bộ máy; tổ chức kiểm tra, giám sát; phân công nhiệm vụ, tổ chức Đại hội đại biểu dân tộc thiểu số.
Trong tổ chức, bao gồm xác định vai trò, chức năng của Quốc hội trong việc quyết định chính sách dân tộc; cơ quan hành pháp (Chính phủ, Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành có liên quan; Mặt trận các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội; bộ máy chính quyền địa phương các cấp vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt phải xác định được cơ chế, cách thức tiến hành trong quy trình xây dựng chính sách dân tộc, giám sát, kiển tra, đánh giá liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Chính phủ... đã được quy định tại khoản 5 Điều 70 và Điều 75 Hiến pháp 2013.
- Chương về điều khoản thi hành.
|
TS. Nguyễn Lâm Thành
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
|
[1] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.
[2] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
[3] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
[4] Luật trước đây quy định các nguyên tắc cơ bản về vấn đề dân tộc trách nhiệm của Nhà nước và nghĩa vụ của các dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc để tăng cường củng cố khối đại đoàn các kết dân tộc.
[5] Điều 5, Hiến pháp 2013
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 và Hiến pháp 2013
2. Các báo cáo giám sát của Hội đồng dân tộc 2013, 2014, 2015
3. Báo cáo đánh giá thực hiện mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ vùng dân tộc thiểu số, Ủy ban dân tộc, 2015.
4. Quan điểm và giải pháp đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số nước ta trong điều kiện hiện nay, Nguyễn Lâm Thành, Tạp chí cộng sản 2015.
5. Đánh giá về dự án xây dựng luật dân tộc (giai đoạn 1993-2007), UBDT, 2016.
6. Thuyết minh dự án Luật dân tộc , UBDT 2016