SỬA ĐỔI LUẬT TIÊU CHUẨN VÀ QUY CHUẨN KỸ THUẬT GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH QUỐC GIA

20/08/2024

Thực hiện Phiên họp thứ 36, sáng 20/8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Việc sửa đổi Luật này nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

THẨM TRA SƠ BỘ DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT TIÊU CHUẨN VÀ QUY CHUẨN KỸ THUẬT

VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG LUẬT TIÊU CHUẨN VÀ QUY CHUẨN KỸ THUẬT

Đề cập về sự cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, Luật được Quốc hội thông qua năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

Toàn cảnh Phiên họp

Luật được xây dựng và ban hành trong bối cảnh Việt Nam đàm phán, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), yêu cầu Việt Nam phải hoàn thiện khung pháp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đánh giá sự phù hợp, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động xây dựng, thẩm định, công bố, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù hợp, loại bỏ rào cản kỹ thuật trong thương mại không cần thiết, thúc đẩy thuận lợi hoá thương mại toàn cầu.

Qua thực tiễn hơn 17 năm thi hành, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã đưa hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được nâng lên cả chất và lượng; phân công thẩm quyền, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức minh bạch, phù hợp với quy định của WTO và thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất chất lượng, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa chủ lực của Việt Nam.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết chỉ đạo thể chế hóa chủ trương đổi mới đối với lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; đồng thời, thực tiễn thi hành thời gian qua cho thấy Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đã phát sinh một số hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải sửa đổi để phù hợp với các cam kết trong Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành Phiên họp

Thay mặt cơ quan thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) Lê Quang Huy khẳng định: Thường trực Ủy ban cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng dự án Luật với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu theo quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhất là Chỉ thị số 38-CT/TW để thể hiện trong dự thảo Luật và kiến nghị sửa đổi các quy định trong các Luật khác có liên quan; rà soát, đối chiếu dự thảo Luật với các luật khác như: Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách nhà nước,… đối chiếu với các Luật vừa được Quốc hội thông qua hoặc các dự án Luật đang trình Quốc hội xem xét để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; tiếp tục rà soát, đối chiếu với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên để bảo đảm tính tương thích.

Về minh bạch hóa và hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại: Thường trực Ủy ban KH,CN&MT thấy rằng, việc bổ sung quy định tại Điều 8b về minh bạch hóa và hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) còn chung chung, chưa cụ thể được trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, các hoạt động phải thực hiện và điều kiện để bảo đảm minh bạch hóa. Do vậy, Thường trực Uỷ ban KH,CN&MT đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo cần cụ thể hoá trong các văn bản hướng dẫn luật về trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong minh bạch hóa, hoạt động phải thực hiện và điều kiện để bảo đảm minh bạch hóa.

Về đánh giá sự phù hợp, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy: Thường trực Ủy ban KHCN&MT cơ bản tán thành với việc sửa đổi các quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp (ĐGSPH) để đáp ứng yêu cầu minh bạch hóa trong thực thi các Hiệp định FTA. Tuy nhiên, dự thảo Luật cần nghiên cứu, bổ sung quy định về điều kiện hoạt động của tổ chức ĐGSPH để bảo đảm tính cạnh tranh, khách quan và hiệu quả của hoạt động này, đặc biệt là hoạt động chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt

Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đồng tình với quy định thừa nhận đơn phương kết quả ĐGSPH của các tổ chức quốc tế, nước ngoài là giải pháp tối ưu, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong tình hình hiện nay đối với một số lĩnh vực công nghệ mới nổi mà nguồn lực trong nước chưa thể đáp ứng nhu cầu thị thường, thúc đẩy xã hội hoá hoạt động thử nghiệm, chứng nhận, giám định, phù hợp thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, đây là quy định mới, cần được quy định cụ thể để hướng dẫn bộ, ngành thực hiện việc thừa nhận đơn phương kết quả ĐGSPH phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.

Về việc công bố hợp chuẩn, hợp quy: dự thảo Luật đã bổ sung quy định thử nghiệm phục vụ chứng nhận của tổ chức chứng nhận; tự ĐGSPH của tổ chức, cá nhân được thực hiện tại tổ chức thử nghiệm được chỉ định hoặc kết quả thử nghiệm được thừa nhận; bổ sung thêm 01 biện pháp công bố hợp quy dựa trên kết quả chứng nhận được thừa nhận (Điều 57), Thường trực Ủy ban KH,CN&MT cho rằng việc điều chỉnh, bổ sung quy định trên là phù hợp với cam kết minh bạch hóa tại các FTA mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý.

Về xây dựng, thẩm định, công bố và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia: Thường trực Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy, dự thảo Luật đã sửa đổi quy định nhằm khắc phục một số bất cập trong xây dựng, thẩm định, công bố, thông báo, áp dụng tiêu chuẩn. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, rà soát, bổ sung, sửa đổi một số nội dung sau: bổ sung quy định về quy trình xây dựng TCVN; quy định rõ ràng hơn về sự tham gia của tổ chức, cá nhân trong xây dựng TCVN; bổ sung quy định tiêu chí, điều kiện, trách nhiệm để các tổ chức, cá nhân liên quan được tham gia vào xây dựng TCVN; cân nhắc việc quy định về áp dụng TCVN tại khoản 4 nhằm đảm bảo rõ ràng, minh bạch và đúng quy định pháp luật.

Về căn cứ xây dựng tiêu chuẩn (Điều 13): Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung quy định căn cứ kế hoạch xây dựng TCVN của các bộ, ngành, tổ chức đề xuất trong từng thời kỳ phù hợp với Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia.

Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham dự Phiên họp

Về Ban Kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia (Điều 16): Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung quy định rõ về nhiệm vụ của Ban Kỹ thuật TCVN, nghiên cứu bổ sung nhiệm vụ xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) cho Ban Kỹ thuật để nâng cao tính khách quan, thống nhất, thực hiện nguyên tắc một đầu mối trong hoạt động xây dựng TC&QCKT, phù hợp thông lệ quốc tế. Đồng thời, quy định rõ tiêu chí, điều kiện, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên; bảo đảm kinh phí hoạt động, đổi mới về tổ chức, huy động sự tham gia của các chuyên gia quốc tế trong Ban Kỹ thuật.

Về xây dựng, thẩm định, công bố TCVN theo trình tự, thủ tục rút gọn: Thường trực Ủy ban KH,CN&MT tán thành với sự cần thiết bổ sung quy định về thủ tục rút gọn trong xây dựng, thẩm định và công bố TCVN cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, đề nghị phân định rõ các trường hợp áp dụng “đột xuất; khẩn cấp; cấp bách; TCVN trái pháp luật” để thuận lợi khi áp dụng; cân nhắc quy định tiêu chí áp dụng thủ tục rút gọn trong “trường hợp TCVN, QCVN không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội”; quy định rõ trình tự, thủ tục bãi bỏ TCVN và trình tự, thủ tục thẩm định việc bãi bỏ TCVN. Trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn đối với tình trạng khẩn cấp thì đề nghị nghiên cứu, chỉ nên quy định yêu cầu về quy trình, thủ tục; trách nhiệm các cơ quan phải thực hiện, còn thời gian cụ thể thì giao cho các bộ quản lý chuyên ngành quy định cho phù hợp với thực tiễn và quy định của hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp hiện hành; bổ sung quy định trách nhiệm báo cáo, sự tham gia của Bộ KH&CN đối với hoạt động này để bảo đảm tính thống nhất, minh bạch. Trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn đối với các đối tượng thuộc danh mục bí mật nhà nước thì việc công bố TCVN cần phải được quản lý theo pháp luật về bí mật nhà nước.

Về đảm bảo nguồn lực cho thực thi Luật: Dự thảo Luật đã bổ sung nhiều quy định liên quan tới nguồn lực thực hiện của các cơ quan trong hoạt động TC&QCKT (Điều 59, 60 và 61). Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát để tránh quy định chồng chéo, xung đột với pháp luật về ngân sách nhà nước. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá cụ thể hơn về nguồn lực thực hiện, làm rõ khả năng phát sinh kinh phí đối với ngân sách nhà nước cũng như chi phí đối với các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng áp dụng Luật này nhằm bảo đảm tính khả thi sau khi Luật được ban hành.

Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy cũng cho biết, Thường trực Ủy ban đề xuất một số nội dung cần tập trung thảo luận như: Tên gọi và phạm vi điều chỉnh; Về Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia, Cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc gia; Về minh bạch hóa và hoạt động thông báo, hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại; Về thủ tục đánh giá sự phù hợp, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy; Về Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, việc tiếp cận thông tin về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Về trách nhiệm xây dựng, thẩm định, công bố, thông báo, áp dụng TCVN; Về xây dựng, thẩm định và ban hành QCVN; Về việc xây dựng, áp dụng TCCS; Về xây dựng, thẩm định và ban hành QCĐP; Về đánh giá sự phù hợp; Về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về TC&QCKT./.

Bích Lan - Phạm Thắng

Các bài viết khác