Quan tâm đến vấn đề này, GS.TS Nguyễn Hữu Minh, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam chỉ rõ, Điều 5, Luật Bình đẳng giới năm 2006 có ghi: Bình đẳng giới là-việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới trong đời sống gia đình là cơ sở để đạt được bình đẳng giới trong xã hội vì gia đình là hạt nhân của xã hội. Bất bình đẳng giới diễn ra ở nhiều lĩnh vực cuộc sống có gốc rễ từ bất bình đẳng giới trong gia đình, khi người phụ nữ bị gắn chặt với vai trò chăm sóc gia đình, do đó mất cơ hội trong học tập, sự nghiệp, tham gia các hoạt động xã hội và lãnh đạo, quản lý”.
Nội hàm của khái niệm bình đẳng giới trong gia đình thể hiện trong một số chiều cạnh chính, như: phân công lao động đối với công việc gia đình và thời gian dành cho việc nhà; quyền ra quyết định trong gia đình; quyền sở hữu tài sản; sự thiên vị giới tính con cái và bạo lực giữa vợ - chồng trong gia đình.
Nhiều hội thảo, tọa đàm về bình đẳng giới được tổ chức
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta có nhiều nỗ lực trong thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trên các lĩnh vực vùng dân tộc thiểu số. Nhiều văn bản luật pháp và chính sách về bình đẳng giới trong gia đình được ra đời, như: Luật Bình đẳng giới (năm 2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2007), Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000,2014),... Nhiều chính sách có các quy định riêng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Ví dụ như: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19-5-2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm đạt tới sự bảo đảm bình đẳng giới thực chất trên các phương diện tham gia, thụ hưởng của phụ nữ trong gia đình và các lĩnh vực xã hội.
Tuy nhiên, GS. TS. Nguyễn Hữu Minh cho rằng, trên thực tế, những nỗ lực hỗ trợ bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình hội nhập. Người phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn còn gắn chặt với các công việc gia đình và bị hạn chế thời gian tham gia các công việc xã hội. Ở một số dân tộc, người phụ nữ đảm nhiệm “vai trò kép” trong gia đình, vừa là nhân vật chính trong hoạt động sản xuất, vừa là người nội trợ và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Nam giới vẫn chủ yếu là chủ sở hữu chính nhà cửa và đất đai, việc phân chia tài sản có giá trị cho con cái có xu hướng thiên vị theo giới tính. Bạo lực của chồng đối với vợ vẫn còn tổn tại ở nhiều dân tộc thiểu số.
Phân tích rõ về vấn đề bình đẳng giới trong thực hiện quyền tài sản, GS. TS. Nguyễn Hữu Minh cho biết, bình đẳng giới trong thực hiện quyền tài sản có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của bản thân người phụ nữ nói riêng và toàn xã hội nói chung, giúp nâng cao vai trò của người phụ nữ trong tổ chức hoạt động kinh tế gia đình cũng như tăng khả năng huy động nguồn lực đất đai và con người cho phát triển kinh tế - xã hội. Có hai chỉ báo quan trọng khi xem xét về quyền sở hữu tài sản là quyền đứng tên trên sổ đỏ nhà/đất và quyền được bố mẹ chia tài sản công bằng. Theo Luật Đất đai (năm 2003 và năm 2013), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở phải ghi tên của cả chồng và vợ. Đây là chính sách có ý nghĩa quan trọng nhằm cải thiện tình trạng bất bình đẳng giới trong tiếp cận các nguồn lực xã hội, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong sở hữu nhà, đất. Luật pháp cũng quy định, con gái cũng như con trai có quyền như nhau trong việc thừa kế tài sản của cha mẹ.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, với 739 người có nhà, đất mua hoặc Nhà nước cấp, tự khai phá sau khi kết hôn, tỷ lệ người chồng đứng tên cao hơn một cách đáng kể so với các hình thức khác (78,3%), trong khi tỷ lệ người vợ đứng tên là 9,9% và cả hai cùng đứng tên là 11,8%. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, dù dân tộc thiểu số theo chế độ phụ hệ hay mẫu hệ thì người chồng đứng tên sở hữu vẫn cao nhất. Với nhóm dân tộc thuộc chế độ mẫu hệ, tỷ lệ người chồng đứng tên sở hữu cao gấp khoảng 5 lần so với tỷ lệ người vợ đứng tên. Tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng đứng tên khá thấp ở cả 2 nhóm dân tộc. Qua đó cho thấy, việc đứng tên sở hữu rõ ràng không thuần túy chỉ căn cứ vào thực hành văn hóa nối dõi mà còn liên quan đến vị thế giới, những trình tự, thủ tục hành chính và nhận thức của người dân.
Sự phân chia tài sản cho con trong các gia đình có thể bị ảnh hưởng bởi phong tục truyền thống của các dân tộc. Theo tập quán, các gia đình thuộc nhóm dân tộc mẫu hệ có xu hướng chia tài sản cho con gái nhiều hơn và ngược lại, các dân tộc theo chế độ phụ hệ sẽ chia tài sản cho con trai nhiều hơn. Kết quả phân tích theo các nhóm dân tộc cũng phản ánh điều đó khi tỷ lệ gia đình ở nhóm dân tộc mẫu hệ chia tài sản cho các con một cách công bàng cao hơn khoảng 16 điểm phần trăm so với gia đình phụ hệ (69,9% so với 53,8%). Đó là một dấu hiệu đáng mừng trong sự chuyển đổi nhận thức và thực hành bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số đối với quyền tài sản của con người.
Về vấn đề bạo lực của chồng đối với vợ, qua nghiên cứu, GS. TS. Nguyễn Hữu Minh chỉ rõ, bạo lực của chồng đối với vợ là một hình thức bất bình đẳng giới nghiêm trọng trong gia đình, gây nên nhiều hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển gia đình nói chung và cuộc sống của mỗi thành viên gia đình nói riêng, trong đó đặc biệt là với phụ nữ và trẻ em. Theo ước tính, tổn thất kinh tế cho cả xã hội từ các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ có thể chiếm đến 1,78-1,81% GDP hàng năm Ở Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy có một tỷ lệ không nhỏ những người phụ nữ bị chồng hành hạ cả bàng bạo lực thể xác và tinh thần; đồng thời tình trạng bạo lực kinh tế và tình dục còn xảy ra.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là nhận thức không đầy đủ về bạo lực giới. Phần lớn người dân thường xem bạo lực giới là các hành vi bạo lực thể chất và đó là hành vi vi phạm pháp luật, còn các hành vi kiểm soát xã hội và bạo lực tình dục chưa được người dân nhận thức đúng. Một tác nhân quan trọng dẫn đến bạo lực của chồng đối với vợ là do “say rượu”. Tỷ lệ cao các hành vi bạo lực gia đình gắn với việc say rượu.
Theo GS. TS. Nguyễn Hữu Minh và các chuyên gia, nhận thức của người dân về bạo lực trên cơ sở giới nói chung và bạo lực của chồng đối với vợ nói riêng còn hạn chế. Đó là yếu tố quan trọng dung dưỡng các hành vi bạo lực gia đình giữa chồng và vợ, trong đó các hành vi bạo lực đối với vợ nghiêm trọng hơn, nhất là bạo lực về thể chất. Loại bạo lực chủ yếu là bạo lực tinh thần, sau đó là bạo lực thể chất. Say rượu mặc dù không được coi là nguyên nhân gốc của hành vi bạo lực của chồng đối với vợ nhưng là tác nhân quan trọng. Giải quyết vấn đề hạn chế uống rượu nhiều là một trong những biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình ở vùng dân tộc thiểu số.
Điều rất cần quan tâm là người vợ bị bạo lực không mạnh dạn nói ra về tình trạng của mình, nhất là với các cơ quan chính quyền và tổ chức đoàn thể. Chính điều đó tạo điều kiện cho những hành vi bạo lực tiếp diễn. Vì vậy cần tăng cường sự kết nối chặt chẽ hơn giữa gia đình và chính quyền cơ sở mà trước tiên là cán bộ hòa giải ở cơ sở và sau đó là sự quan tâm sát sao của cấp xã nhằm nắm bắt và hạn chế các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ tốt hơn. Nâng cao học vấn và tăng cường tập huấn về bình đẳng giới cho người dân, đặc biệt là phụ nữ, cũng như xây dựng môi trường hỗ trợ pháp lý cho họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm bình đẳng giới về tham gia công việc gia đình, quyền tài sản của người dân và hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hành vi bạo lực của chồng đối với vợ trong các gia đình dân tộc thiểu số.