Theo ThS. Lê Hoàng Anh, Trung tâm thông tin và dữ liệu môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, chuyển đổi số và tăng trưởng xanh thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa phương thức và mục tiêu. Xây dựng môi trường thông minh chính là quá trình chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường để hướng tới tăng trưởng xanh. Môi trường thông minh dùng các công nghệ số để tăng cường công tác quản lý chất lượng môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm nhẹ phát thải nhà kính và thúc đẩy hình thành văn hóa sống xanh. Môi trường thông minh được xem là một phần trong phát triển các đô thị thông minh, các khu kinh tế và khu công nghiệp sinh thái.
Xây dựng môi trường thông minh không chỉ đơn giản là đầu tư cơ sở hạ tầng thông minh, mà phải được gắn liền với hành trình xanh hóa lối sống của con người thông qua sự thay đổi nhận thức theo 5 giai đoạn: tiền chiêm nghiệm, tự chiêm nghiệm, chuẩn bị, hành động và duy trì. Kết quả sẽ hình thành nên văn hóa sống xanh thông qua sự lan tỏa về sự đóng góp của các cá nhân đối với môi trường. Công nghệ số sẽ được khai thác sử dụng để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho người dùng qua các giai đoạn để hình thành văn hóa sống xanh. Thông tin, dữ liệu lúc này đóng vai trò quan trọng bậc nhất để tạo ra môi trường thông minh. Cũng giống như chính phủ số, người dân sẽ được đặt vào vị trí trung tâm trong phát triển môi trường thông minh. Đích đến cần đạt là người dân có thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường với sự trợ giúp của các nền tảng công nghệ số.
Tăng trưởng xanh đang là vấn đề được các chuyên gia, nhà nghiên cứu quan tâm
Cũng có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, TS. Tạ Tuấn Anh, Công ty cổ phần phát triển nguồn mở và dịch vụ FDS cho rằng, cần nhìn nhận vấn đề chuyển đổi số từ góc nhìn của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) mới được sửa đổi và đã được Quốc hội thông qua ban hành vào năm 2020. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP để quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Luật năm 2020 đã thể hiện rõ các cam kết của Việt Nam trong bảo vệ môi trường hướng tới tăng trưởng xanh trên toàn cầu. Các chính sách, công cụ kinh tế dùng trong tăng trưởng xanh như kinh tế tuần hoàn, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, mua sắm xanh, thị trường các-bon, dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, công nghiệp môi trường đã được luật hóa để đưa vào áp dụng tại Việt Nam.
Các chuyên gia nhấn mạnh, Luật BVMT năm 2020 đã thể hiện rõ sự chuyển đổi để xây dựng một chính phủ số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng, vận hành các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về môi trường để hướng tới phát triển nền tảng số, kinh tế số về môi trường. Trước hết, Nhà nước triển khai xây dựng các cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, bộ, ngành và địa phương để thực hiện quản lý tổng thể các lĩnh vực bảo vệ môi trường dựa trên dữ liệu số.
Các hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành môi trường như đánh giá ĐTM, cấp phép môi trường, thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học,... sẽ được đưa vào sử dụng ở các cấp để số hóa các quy trình nghiệp vụ, chuyển đổi phương thức quản lý từ thủ công sang môi trường số. Dịch vụ công trực tuyến được xây dựng triển khai để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các thủ tục hành chính được cải cách theo hướng tinh gọn, giảm bớt các giấy tờ phải giao nộp bằng các loại văn bản điện tử, dữ liệu số đã được lưu trữ sẵn sàng trong cơ quan nhà nước. Bên cạnh nguồn lực của nhà nước, các nguồn lực xã hội hóa được khuyến khích huy động dùng cho các dự án chuyển đổi số trong phát triển môi trường thông minh, kinh tế số về môi trường.
Luật BVMT 2020 cũng đưa vào áp dụng mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) trong quản lý chất thải để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn. EPR là một cách tiếp cận của chính sách môi trường tuân theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm thân thiện với môi trường hơn. Một cổng thông tin điện tử EPR quốc gia sẽ được xây dựng để có thể triển khai chính sách dựa trên công nghệ số. Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường do rò rỉ, tràn đổ, phát tán chất thải (gọi chung là sự cố chất thải) và do các nguyên nhân khác như hóa chất, phóng xạ, dầu tràn, dịch bệnh; cung cấp các dịch vụ ứng phó và phục hồi sau sự cố môi trường. Công nghệ số được khai thác để quản lý dữ liệu, phân tích, đánh giá nguy cơ sự cố môi trường, lập kế hoạch, công khai thông tin và huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường.
Về bồi thường thiệt hại về môi trường do ô nhiễm, suy thoái môi trường, bên cạnh các quy định pháp lý, công nghệ số sẽ hỗ trợ công tác giám định, xác định mức độ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; ước tính thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
Về ứng phó biến đổi khí hậu là việc triển khai các chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra các chính sách về kiểm kê khí nhà kính và phát triển thị trường các-bon trong nước để hiện thực hóa mục tiêu trung hòa các-bon tại Việt Nam vào năm 2050. Một cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu sẽ được xây dựng để kiểm soát được việc phát hành các tín chỉ các-bon và số liệu kiểm kê lượng phát thải ròng khí nhà kính ra môi trường.
Về phát triển kinh tế xanh nhờ việc đưa vào áp dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường như trái phiếu xanh, tín dụng xanh, mua sắm xanh; ký quỹ bảo vệ môi trường, chi trả dịch vụ hệ sinh thái, phát triển thị trường các bon; phát triển kinh tế tuần hoàn; xây dựng thị trường các sản phẩm sinh thái và dịch vụ thân thiện môi trường ở trong nước. Luật BVMT năm 2020 đã thể hiện được đầy đủ các chính sách đáp ứng mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững ở Việt Nam. Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng 4.0, chuyển đổi số đang là phương thức hiệu quả nhất để đưa các chính sách đi vào cuộc sống. Việc ứng dụng các nền tảng công nghệ số lúc này đã không còn là sự lựa chọn mà là điều kiện cần để triển khai được các quy định nằm trong luật.