QUỐC HỘI NGHE TỜ TRÌNH, BÁO CÁO THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT HỢP TÁC XÃ (SỬA ĐỔI); THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN LUẬT THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội luôn là nội dung trung tâm thu hút sự chú ý của cử tri, nhân dân và các chuyên gia theo dõi chương trình Kỳ họp Quốc hội. Đánh giá về kết quả thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2020, nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách đã nhấn mạnh, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu quan trọng trong quá trình hiện thực hóa tầm nhìn đã đặt ra tại Đại hội Đảng. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế đạt được những kết quả quan trọng, tốc độ tăng trưởng đạt mức khá, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.
Tăng trưởng kinh tế duy trì xu hướng tăng cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP trung bình đạt 6,78%/năm (cao hơn mức trung bình 5,91%/năm giai đoạn 2011-2015; riêng năm 2018 và 2019 tương ứng đạt 7,08% và 7,02%, nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và trên thế giới. Năm 2020-2021, do tác động của COVID-19, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam suy giảm đáng kể nhưng vẫn tương đối khả quan so với nhiều quốc gia, khu vực khác trên thế giới (lần lượt đạt 2,91% và 2,58%). GDP bình quân đầu người liên tục gia tăng, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất thế giới.
Các đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4
Bên cạnh đó, ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được cũng cố; sức chống chịu của nền kinh tế có cải thiện so với giai đoạn trước. Lạm phát duy trì ở mức hợp lý và ổn định, giảm từ 18,6% năm 2011 xuống 0,6% năm 2015; và tiếp tục duy trì với mức không quá 3,5% trong giai đoạn từ 2016 đến nay. Tình hình thu-chi NSNN đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận về quy mô và cơ cấu thu, chi ngân sách. Cơ cấu thu có sự thay đổi tích cực, tăng tỷ trọng thu nội địa; giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư. Bội chi ngân sách và tỷ trọng nợ công trên GDP giảm dần qua các năm, bảo đảm an toàn nợ công, giảm áp lực trả nợ lên NSNN và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
Các đại biểu Quốc hội cho biết, trong bối cảnh Cách mạng công nghệ (CMCN) 4.0, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, chủ trương nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, thành tựu CMCN 4.0 trong quá trình chuyển đổi số, hướng tới nền kinh tế số, và bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của một số ngành, lĩnh vực Việt Nam có lợi thế trong tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ. Cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển dịch sang các ngành thâm dụng công nghệ và hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn (công nghiệp điện tử, công nghiệp thực phẩm, CNTT, v.v.). Công nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm đầu tư, nhiều dự án điện gió, điện mặt trời được khởi công xây dựng và đi vào hoạt động. Công nghiệp hỗ trợ từng bước được hình thành và phát triển, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng.
Nhiều chuyên gia cho rằng, khu vực kinh tế tư nhân trong nước được thúc đẩy phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được định hướng lại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước (nòng cốt là khu vực kinh tế tư nhân) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là những động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ; Hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo được chú trọng xây dựng. Giai đoạn 2016-2020, số doanh nghiệp thành lập mới liên tiếp đạt kỷ lục cả về số lượng và số vốn đăng ký.
Nhìn chung, kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2011-2020 đã thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện chất lượng tăng trưởng, gia tăng năng suất, nâng dần tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng; đảm bảo và củng cố kinh tế vĩ mô. Chuyển dịch cơ cấu ngành, lĩnh vực diễn ra tích cực theo hướng chú trọng khai thác các thành tựu khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành Việt Nam có lợi thế trong chuỗi giá trị và sản xuất quốc tế; cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh để thu hút tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước. Những kết quả đã đạt được là tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trong những giai đoạn tiếp theo trên cơ sở tận dụng hiệu quả các thành tựu của CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng nêu rõ, nền kinh tế nước ta vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: việc chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu còn chậm so với yêu cầu đặt ra. Mô hình tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên), đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực ở cùng giai đoạn phát triển. Cơ cấu lại ba lĩnh vực trọng tâm (đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng) mặc dù được triển khai thực chất hơn nhưng chưa hoàn thành theo mục tiêu theo kế hoạch đặt ra. Hiệu quả đầu tư công chưa cao, giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn chậm, nhất là vốn ODA. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn chậm so với kế hoạch đề ra; mới chỉ tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng; chất lượng quản trị doanh nghiệp chưa được cải thiện; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
Ngoài ra, cơ cấu lại ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp công vẫn còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành/lĩnh vực còn chậm. Chuyển dịch cơ cấu các ngành theo hướng nâng cấp chuỗi giá trị, ứng dụng tiến bộ công nghệ, đổi mới sáng tạo diễn ra chậm, chưa tạo được nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự lớn mạnh, chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều vấn đề cần được hoàn thiện. Các chuyên gia cho rằng cần phân tích kỹ nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của các tồn tại, hạn chế này, để có các giải pháp tháo gỡ khả thi, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế trong tình hình mới.