Đại biểu Trần Văn Lâm – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang khẳng định: Sửa luật lần này là lần sửa luật rất căn bản, toàn diện. Đã qua nhiều vòng góp ý, đại biểu Trần Văn Lâm cũng đã có một số lần tham góp các ý kiến về các vấn đề cụ thể và thấy rằng cơ quan soạn thảo đã rất cầu thị, tiếp thu đầy đủ và chắc chắn rằng sẽ còn rất nhiều ý kiến của các vị đại biểu hôm nay sẽ phát biểu tại kỳ họp. Trong phạm vi thời gian của mình, đại biểu Trần Văn Lâm đề cập đến một nội dung đề nghị Quốc hội quan tâm tiếp tục xem xét sửa đổi, đó là vấn đề bảo vệ môi trường nước dưới đất.
Nước là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng nhất của cuộc sống. Theo các nghiên cứu khoa học, mặc dù trái đất của chúng ta là một quả cầu nước nhưng chỉ có 3% ở đây là nước ngọt, còn lại thì 68,7% là nước đóng băng ở 2 đầu cực và 30,1% là nước ngầm, các nguồn nước khác là 0,9%. Thế giới hiểu rất rõ vai trò của nước ngầm và nhiều nước xem đó là nguồn tài nguyên đặc biệt quý giá của quốc gia, từ đó có luật pháp, chính sách chặt chẽ, hiệu quả để phổ cập, quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên này phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài.
Đại biểu Trần Văn Lâm – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang.
Ở nước ta hiện nay, mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên năm 2012 và dự thảo luật này đã có những đề cập quy định về bảo vệ nguồn nước dưới đất, nhưng xem ra các quy định mới chỉ ở phạm vi hẹp, bảo vệ chất lượng nguồn nước ngầm chỉ có khả năng làm hạn chế ô nhiễm, chứ chưa thật sự đề cập một cách đầy đủ, toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để hướng tới quản lý, sử dụng, nâng cao chất lượng, số lượng và khai thác bền vững, lâu dài nguồn tài nguyên quý giá này. Trên thực tế, việc khai thác quá mức, tùy tiện nguồn nước ngầm đang diễn ra ở nhiều nơi, theo nhiều hình thức để lấy nước sinh hoạt và sản xuất, làm cho tầng nước ngầm ngày càng sụt giảm. Tầng nước ngầm và các thể ngậm nước bị rút nước quá mức trở nên rỗng, gây ra sụt lún ở nhiều đô thị, đồng bằng. Đáng lo ngại là các loại chất thải từ các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, các bãi chôn lấp, nước thải của các khu dân cư tập trung, nước các dòng sông, dòng kênh bị ô nhiễm, các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất trong sản xuất nông nghiệp ngấm vào đất, nước và tầng nước ngầm dẫn đến ô nhiễm nặng ở tầng nước gần bề mặt. Theo đánh giá của một số công trình nghiên cứu ô nhiễm, amoni đã đến tầng nước ở độ sâu 20m, làm cho nước giếng đào hay khoan nông không còn sạch nữa, có nơi lượng amoni đã vượt hơn 200 lần tiêu chuẩn cho phép.
Sự bổ cập nguồn nước ngầm ở nước ta hiện nay vẫn hoàn toàn diễn ra theo cơ chế tự nhiên, bằng các đường dẫn thấm nhưng những biến đổi về địa chất, sự can thiệp của các công trình xây dựng, sự đô thị hóa, sự dâng lên của nước biển do biến đổi khí hậu và sự thiếu hụt nguồn nước sông do thủy điện chặn dòng ở một số con sông lớn, rừng tự nhiên bị thu hẹp và suy kiệt... đã lấp dần những đường dẫn thấm tự nhiên, do vậy nước mưa không kịp thấm nhanh tới các tầng nước ngầm mà chủ yếu được dẫn vào các dòng chảy bề mặt, tạo thành lũ lụt, sạt lở đất đai, đồi núi, gây thiệt hại to lớn. Kết quả là làm cho nguồn nước ngầm cũng thiếu nguồn bổ sung và lãng phí nguồn nước ngọt quý giá. Một số giải pháp công trình hiện nay để giữ nguồn nước mặt chỉ mang tính chất tình thế và nhiều khi lại làm trầm trọng thêm các vấn đề, như: Các hồ nước ngọt ven biển xây xong một thời gian lại trở thành hồ nước mặn, hồ thủy điện, thủy lợi, có thể làm nghiêm trọng thêm tình trạng lũ lụt, tàn phá môi trường, giảm đa dạng sinh học cũng như cạn kiệt tài nguyên.
Như vậy, có thể nói, đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận lại, xác định đúng vai trò, tầm quan trọng, những thách thức đang đặt ra đối với nguồn tài nguyên nước ngầm vô cùng quý giá của quốc gia để có sự quan tâm, đầu tư đúng mức hơn đối với việc bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên này. Sửa Luật Môi trường lần này là cơ hội để chúng ta làm điều đó. Theo đại biểu Trần Văn Lâm, trong điều kiện hiện nay nếu chưa có sự đầu tư cao hơn về luật pháp, về chính sách, về nguồn lực cho bảo vệ tài nguyên nước ngầm thì cũng phải dành sự quan tâm không ít hơn so với các thành phần môi trường nước khác. Đối với nước mặt, luật pháp chúng ta đã chú trọng bảo vệ.
Tại Chương II của luật này, mục 1 về bảo vệ môi trường nước trong dự thảo đã dành hẳn 3 điều: 7, 8, 9 để quy định rất đầy đủ, làm rõ những quy định chung cho tới các hoạt động cụ thể để bảo vệ môi trường nước mặt, yêu cầu phải có các kế hoạch, biện pháp quản lý nhà nước đối với nguồn nước mặt. Song, đối với nước ngầm thì dự thảo chỉ quy định duy nhất Điều 10 với 8 khoản ngắn gọn cho bảo vệ nguồn nước ngầm và các giải pháp đề ra ở đây cũng chưa thật sự mạnh mẽ, có thể hiệu quả trong thực tiễn chưa phải cao.
Đại biểu Trần Văn Lâm đề nghị nội dung bảo vệ môi trường nước ngầm ở Điều 10 này cũng cần phải được làm sâu sắc, cụ thể, toàn diện như các vấn đề bảo vệ môi trường nước mặt quy định tại Điều 7, 8, 9, để không chỉ nói bảo vệ một cách chung chung mà phải làm rõ, không chỉ các quan điểm, chủ trương mà phải chi tiết hơn về các nhiệm vụ, giải pháp cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với toàn diện vấn đề môi trường nước ngầm ở đất nước ta. Từ đầu tư nghiên cứu khoa học, khảo sát, đánh giá trữ lượng, xây dựng hệ thống quan trắc, theo dõi chất lượng, đánh giá các nguồn nguy cơ ô nhiễm, quy hoạch các vị trí khai thác, quy định hạn mức khai thác, tăng cường các giải pháp cho các nguồn bổ cập, kể cả các giải pháp công nghệ hiện đại. Thúc đẩy việc nghiên cứu xây dựng các chương trình, kế hoạch quy hoạch bài bản, dài hạn, dành nguồn kinh phí đầu tư bằng nguồn lực quản lý thích đáng cho nhiệm vụ này. Có như vậy, nguồn tài nguyên nước ngọt vô cùng quý giá và hạn hẹp mới có thể được bảo vệ, khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả phục vụ cho việc phát triển lâu dài của đất nước. Đại biểu Trần Văn Lâm rất mong các đại biểu Quốc hội, các cơ quan chức năng chia sẻ quan điểm này để tiếp tục hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn./.