Về quy định thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 14 của luật theo hướng cho phép quy định thủ tục hành chính trong trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của luật. Tức là nghị quyết quy định chính sách đặc thù là cần thiết, tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc cho địa phương khi triển khai thực hiện các chính sách đặc thù được quy định theo quy định của luật. Tuy nhiên, việc quy định thủ tục hành chính phải được quy định trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như Dự thảo thì chưa hoàn toàn phù hợp và chưa tạo thuận lợi cho địa phương trong trong quá trình thực hiện, thể hiện một số điểm:
Thứ nhất, việc ban hành chính sách đặc thù theo quy định tại khoản 4 Điều 27 của luật phải thực hiện theo trình tự, thủ tục phức tạp và kéo dài, với 2 lần đăng cổng thông tin điện tử, mỗi lần tối thiểu 30 ngày, phải xin ý kiến các bộ, ngành trung ương có liên quan. Các chính sách đặc thù ở địa phương được quyết định để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cần dành thời gian cho việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tác động của chính sách để chính sách được ban hành là phù hợp và có hiệu quả. Tại thời điểm xây dựng chính sách phải thực hiện cả việc xây dựng trình tự, thủ tục để thực hiện chính sách, sẽ gây áp lực lớn cho cơ quan được giao. Chuẩn bị nghị quyết có đảm bảo được trình tự, thủ tục ban hành văn bản và tiến độ, thời gian chuẩn bị các nghị quyết trình tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Thứ hai, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thường chỉ quyết định cơ chế, chính sách, việc tổ chức thực hiện các nghị quyết là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Thứ ba, các chính sách này là đặc thù nên không có tiền lệ. Việc tổ chức thực hiện có hiệu quả cần phải có sự rút kinh nghiệm từ thực tiễn triển khai. Nếu trình tự, thủ tục để thực hiện các chính sách được quy định trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải điều chỉnh thì phải đợi đến kỳ họp của Hội đồng nhân dân mới có thể sửa đổi, bổ sung. Trong khi mỗi năm Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thường họp định kỳ 2 lần, như vậy không đảm bảo được tính kịp thời trong việc triển khai thực hiện. Do đó, đề nghị nghiên cứu chỉnh lý khoản 4 Điều 14 của luật theo hướng trong trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính để thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của luật này thì Ủy ban nhân dân cùng cấp là cơ quan có thẩm quyền ban hành các thủ tục hành chính.
Về thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp. Về thời hạn thẩm định, theo quy định của dự thảo luật thì thời hạn thẩm định của Sở Tư pháp là 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định. Thời hạn này khó đảm bảo trong trường hợp Sở Tư pháp phải thực hiện khảo sát những vấn đề thuộc nội dung của dự thảo hoặc thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định. Đề nghị nghiên cứu chỉnh lý quy định thời gian thẩm định là 15 ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ gửi thẩm định hoặc bổ sung quy định kéo dài thời hạn thẩm định đối với một số trường hợp cho phù hợp hơn.
Về nội dung thẩm định. Theo quy định tại khoản 38 Điều 1 dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 130 về trách nhiệm của Sở Tư pháp thì một trong những nội dung bắt buộc của báo cáo thẩm định là sự cần thiết ban hành văn bản. Tuy nhiên, theo trình tự, thủ tục xây dựng, trình ban hành văn bản, các văn bản được xây dựng đã có giai đoạn lập và phê duyệt đề nghị ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó đã xác định rõ căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn là sự cần thiết phải ban hành văn bản. Như vậy đến giai đoạn thẩm định dự thảo vẫn còn đánh giá nội dung này là không cần thiết.
Đối với các văn bản có chứa thủ tục hành chính, Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí, tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo quyết định. Hiện nay nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính đã chuyển sang Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, do đó việc giao nhiệm vụ thẩm định nội dung này có đảm bảo tính khả thi hoặc nội dung thẩm định cũng chỉ mang tính hình thức. Việc đánh giá sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí, tuân thủ của các thủ tục hành chính đã được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện trong quá trình đánh giá thủ tục hành chính được lấy ý kiến của các cơ quan kiểm soát thủ tục hành chính là văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy phạm vi thẩm định Sở Tư pháp chỉ nên giới hạn là tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của quy định thủ tục hành chính./.