Chắc là thời gian tới, Bộ Công thương báo cáo với Chính phủ để Chính phủ báo cáo với Quốc hội
ĐBQH Đỗ Văn Đương (TP Hồ Chí Minh): Có hay không tình trạng doanh nghiệp thủy điện của Nhà nước hoạt động cầm chừng, trong khi phải đi mua điện tư nhân và nhập điện từ Trung Quốc?
Có ý kiến phản ánh doanh nghiệp Nhà nước như thủy điện Hòa Bình, công suất rất lớn nhưng mấy năm gần đây hoạt động rất cầm chừng. Trong khi chúng ta phải mua điện của tư nhân, nhập điện từ Trung Quốc với giá cao. Như vậy có phải gây lãng phí nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất kinh doanh và đời sống người dân không? Phản ánh này có đúng thực tế không? Nếu không đúng, đề nghị Bộ trưởng nói rõ để hóa giải sự hoài nghi của dư luận, cử tri. Nếu quả thật là đúng như vậy thì vì sao doanh nghiệp điện nhà nước lại hoạt động cầm chừng? Có nhóm lợi ích ở đây không? Trách nhiệm của Bộ trưởng như thế nào? Bộ trưởng có hứa trước QH giải quyết vấn đề này trong thời gian tới hay không?
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Ý kiến trên là không có cơ sở
Ý kiến trên đây là không có cơ sở. Bởi vì, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã xây dựng được nhiều công trình thủy điện quy mô lớn, đa mục tiêu như thủy điện Hòa Bình công suất 1.920 megawatt, thủy điện Sơn La 2.400 megawatt, thủy điện Lai Châu đang xây dựng và cũng sắp đưa vào vận hành, rồi thủy điện Tuyên Quang, thủy điện Trị An, thủy điện Yaly... Mục tiêu khi chúng ta quyết định xây dựng các công trình này là tận dụng lợi thế tiềm năng thủy năng để vừa phát điện vừa hạn chế, cắt lũ vào mùa mưa và cấp nước cho hạ du, phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ đời sống nhân dân. Chính vì như vậy nên không có lý do gì mà chúng ta không khai thác triệt để các mục tiêu như đã định. Trên thực tế, riêng đối với thủy điện Hòa Bình thì cử tri và ĐBQH cũng thấy rõ, từ khi xây dựng và vận hành đến nay, công suất thiết kế là 1.920 megawatt, sản lượng hàng năm là 9-10 tỷ kWh. Theo số liệu của chúng tôi, gần như năm nào cũng sản xuất gần đến con số này. Không có chuyện cầm chừng về phát điện. Thủy điện Sơn La chúng ta đưa vào vận hành trước thời hạn 3 năm theo quyết định của QH. Trong 3 năm vừa qua, năm nào thủy điện Sơn La cũng phát vượt sản lượng thiết kế. Mỗi năm phát trên dưới 10 tỷ kWh. Các thủy điện lớn khác cũng như vậy. Tôi xin báo cáo rõ là: không có cơ sở nói rằng chúng ta phát điện cầm chừng các nhà máy thủy điện lớn trong khi đi mua điện của các nhà máy thủy điện nhỏ và nhập khẩu. Chúng ta vẫn quan tâm tới các dự án thủy điện nhỏ và báo cáo với QH trong thời gian vừa qua, Bộ Công thương phối hợp với các bộ, ngành, nhất là Bộ Tài chính, với các địa phương cũng đã tìm mọi giải pháp chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam mua điện của các dự án thủy điện nhỏ tạo thuận lợi cho các dự án này tham gia phát điện một cách cao nhất. Giá cả ngày càng được nâng cao. Gần đây chúng tôi đã ban hành thông tư hướng dẫn để Tập đoàn Điện lực Việt Nam mua điện của các nhà máy thủy điện nhỏ ngang bằng với các nhà máy thủy điện khác.
ĐBQH Đồng Hữu Mạo (Thừa Thiên Huế): Có phải chúng ta thiếu các chính sách cụ thể để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ? Trách nhiệm của Bộ trưởng như thế nào?
Ngày 31.7.2007, Bộ Công nghiệp đã có Quyết định số 34 về phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó xác định vai trò quan trọng của công nghiệp hỗ trợ là khâu đột phá để phát triển nhanh và bền vững các ngành công nghiệp chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Năm 2011, Thủ tướng cũng đã có quyết định về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. Nhưng cho đến nay, sau nhiều năm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn chưa có gì đáng kể. Có phải vì chúng ta thiếu các chính sách cụ thể để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển? Nếu đúng vậy, trách nhiệm của các bộ, ngành và trong đó có trách nhiệm của Bộ trưởng như thế nào?
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Chắc là thời gian tới, Bộ Công thương báo cáo với Chính phủ để Chính phủ báo cáo với QH sẽ có nội dung liên quan đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo công nghiệp hỗ trợ
Đúng là công nghiệp hỗ trợ trong thời gian vừa qua có khá nhiều vấn đề. Và qua một số kỳ họp của QH, các ĐBQH cũng quan tâm nhiều đến vấn đề này. Tôi nhớ có một số ĐBQH kỳ họp nào cũng nêu và đề xuất làm sao Chính phủ với sự tham mưu của các bộ, ngành sớm có những cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích lĩnh vực này. Gần đây nhất, năm 2011, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 12 về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. Tiếp theo, Chính phủ đã ban hành Quyết định đối với 6 nhóm hàng hóa liên quan đến công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực cơ khí, chế tạo ô tô, điện tử, dệt may, da giày, hàng nhựa. Và gần đây nhất, Bộ Công thương theo chỉ đạo của Chính phủ cũng đã ban hành Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nói về chính sách chúng ta cũng đã quan tâm. Nhưng cấp độ pháp lý của những chính sách này còn thấp và chưa đạt yêu cầu. Thậm chí chưa có nghị định về công nghiệp hỗ trợ. Như vậy, về cơ chế chính sách chúng ta có nhưng chưa đầy đủ và cấp độ pháp lý còn hạn chế nên chưa tạo thuận lợi cho công nghiệp hỗ trợ phát triển.
Mặt khác, nói đến công nghiệp hỗ trợ thì chủ yếu nói đến phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu. Tuy nhiên để có thể phát triển được lĩnh vực này thì đòi hỏi quy mô sản xuất phải khá lớn, đủ để sản xuất với số lượng nhiều; qua đó giá thành phải cạnh tranh được, tổ chức sản xuất thuận lợi hơn. Nhưng thời gian qua, trong nhiều sản phẩm hàng hóa, dung lượng thị trường của chúng ta chưa đủ. Ví dụ, như đối với ô tô, hiện nay các cơ sở sản xuất, lắp ghép ô tô trong nước chỉ sản xuất được khoảng trên dưới 70 nghìn xe/năm và của rất nhiều chủng loại khác nhau của hơn 10 nhà lắp ráp và sản xuất ô tô. Cho nên khó có doanh nghiệp hỗ trợ nào lại có thể đứng ra cung cấp linh kiện, phụ tùng cho các nhà sản xuất ô tô này, với rất nhiều yêu cầu khác nhau. Theo thống kê, với một sản phẩm ô tô phải có sản lượng 100 nghìn xe/năm thì doanh nghiệp làm công nghiệp hỗ trợ mới có thể phát huy được. Nhưng thời gian qua, chúng ta cũng chưa đạt được điều này. Đây là nguyên nhân khiến công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển.
Với xu thế thương mại hóa toàn cầu ngày càng phát triển, thì sự phân công trong chuỗi sản phẩm, chuỗi giá trị gia tăng trên toàn cầu đang ngày càng đi theo hướng quyết định bởi các doanh nghiệp lớn. Cho nên khi các doanh nghiệp đa quốc gia sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh, người ta đã sử dụng mạng lưới xí nghiệp vệ tinh, mạng lưới các doanh nghiệp hỗ trợ hình thành sẵn có để chuyên cung cấp cho các tập đoàn đa quốc gia này. Chúng ta đi sau cho nên việc chúng ta len chân được vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng là điều hết sức khó khăn trong bối cảnh sức chúng ta còn yếu và kinh nghiệm chưa nhiều.
Một nguyên nhân nữa là về con người. Công nghiệp hỗ trợ là một ngành công nghiệp thông dụng, lao động đòi hỏi tay nghề cao, thậm chí gần như là nghệ nhân. Hiện nay chúng ta còn thiếu đội ngũ này, mặc dù chúng ta đã cố gắng. Chắc là trong thời gian tới, trong chương trình mà Bộ Công thương báo cáo với Chính phủ để Chính phủ báo cáo với QH sẽ có nội dung liên quan đến biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo công nghiệp hỗ trợ. Từ đó, có thể từng bước khắc phục yếu kém của công nghiệp hỗ trợ.
ĐBQH Lê Đình Khanh (Hải Dương): Từ ngày được giao trọng trách đứng đầu Bộ Công thương đến nay, Bộ trưởng đã trình Chính phủ ban hành được chính sách gì để khuyến khích công nghiệp hỗ trợ?
Từ ngày được giao trọng trách đứng đầu Bộ Công thương đến nay, Bộ trưởng đã trình Chính phủ ban hành được những chính sách gì để khuyến khích công nghiệp hỗ trợ trong nước? Hiệu quả của những chính sách đó như thế nào? Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn là chủ trương lớn của Nhà nước. Nhưng qua nhiều năm phấn đấu, đến nay hầu hết những khâu cơ giới hóa vẫn phụ thuộc vào máy móc nhập khẩu hoặc lắp ráp. Phải chăng Bộ Công thương chưa có chính sách phù hợp để khuyến khích công nghiệp chế tạo trong nước phát triển?
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Từ năm 2011 đến nay, Bộ Công thương đã tham mưu cho Chính phủ ban hành ít nhất 3 văn bản…
Từ năm 2011 đến nay, Bộ Công thương đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành ít nhất 3 văn bản là Quyết định số 12/2011 về một cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế chính sách ưu đãi đối với mặt hàng công nghiệp hỗ trợ và Quy hoạch Phát triển công nghiệp hỗ trợ mới được ban hành trong tháng 10.2014. Tôi xin thẳng thắn thừa nhận rằng, chính sách thì chúng ta có nhưng chưa đồng bộ và đạt hiệu quả chưa cao. Vì vậy mà chúng ta vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài trong công nghiệp hỗ trợ. Hiện nay, Bộ Công thương đang trình Chính phủ dự thảo Nghị định bao quát được nhiều nội dung về cơ chế chính sách hơn trước đây và chúng tôi rất mong nếu QH xem xét cho phép đưa vào dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của năm 2015 hoặc dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ QH Khóa XIV ban hành một luật riêng về công nghiệp hỗ trợ. Đây là khung pháp luật hết sức quan trọng để có sơ sở thể chế hóa thành chính sách cụ thể phát triển công nghiệp hỗ trợ.
ĐBQH Huỳnh Ngọc Đáng (Bình Dương): Phải chăng nguyên nhân quan trọng nhất là sự thiếu tập trung trong lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với chính sách phát triển của công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế tạo?
Hơn 10 năm trước, chúng ta đã có Nghị quyết về phát triển công nghiệp Việt Nam, trong đó chú trọng cả công nghiệp chế tạo và công nghiệp phụ trợ. Sau hơn 10 năm, đến nay công nghiệp phụ trợ và công nghiệp chế tạo của nước ta vẫn còn rất yếu kém, nền công nghiệp đa phần là lắp ráp và gia công. Với tư cách là người đã đứng đầu ngành công thương Việt Nam trong suốt gần 10 năm qua, đề nghị, Bộ trưởng cho biết đâu là nguyên nhân? Tôi chỉ hỏi nguyên nhân chứ không đặt câu hỏi phương hướng hay trách nhiệm, vì rõ nguyên nhân thì sẽ rõ cả phương hướng và trách nhiệm. Phải chăng nguyên nhân quan trọng nhất chính là sự thiếu tập trung trong lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với chính sách phát triển của công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế tạo?
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Không phải công nghiệp chúng ta không phát triển mà là chỉ phát triển ở một số lĩnh vực và còn yếu kém
Tôi xin QH một phút để nói về công nghiệp cơ khí, chế tạo. Nếu nói chung như thế này tôi e rằng chưa phản ánh một cách đầy đủ, khách quan về tình hình công nghiệp cơ khí chế tạo của chúng ta. Công nghiệp hỗ trợ thì tôi nói rồi, còn công nghiệp và công nghiệp cơ khí chế tạo không phải chúng ta không làm được và không phải tất cả các lĩnh vực chúng ta đều yếu kém. Trước hết, nói về ngành cơ khí, chúng ta hiện đã có thể sản xuất được thiết bị đồng bộ xi măng lò quay với công suất lên đến 700.000 tấn/năm, sản xuất được máy biến thế 500kV mà chưa nước nào ở Đông Nam Á làm được. Ngành dầu khí đã tự thiết kế và dưới sự tư vấn của chuyên gia nước ngoài đã chế tạo thành công giàn khoan 90m nước với tỷ lệ nội địa hóa 30% và hiện đang tiếp tục thiết kế và chế tạo giàn khoan thứ hai với mức khoan là 120m với tỷ lệ nội địa hóa là 40%. Chúng ta đã có thể chế tạo được một loạt các thiết bị đồng bộ trong chế biến chè, cà phê. Với sự hỗ trợ của nước ngoài, trong những năm gần đây, ngành công nghiệp của chúng ta đã triển khai xây dựng khá nhiều công trình hiện đại như: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nhà máy đạm Cà Mau, Phú Mỹ, Ninh Bình và chuẩn bị có nhà máy đạm Hà Bắc mở rộng... đều là công nghệ tiên tiến. Rất nhiều công trình công nghiệp khác nữa... Không phải công nghiệp chúng ta không phát triển, không phải công nghiệp cơ khí chế tạo của chúng ta không phát triển mà đúng là chỉ phát triển ở một số lĩnh vực và còn yếu kém.
ĐBQH Huỳnh Ngọc Đáng (Bình Dương): Bộ nên tập trung quản lý nhà nước cho tốt
Tôi rất cám ơn Bộ trưởng đã trả lời câu hỏi của tôi. Bộ trưởng cũng nêu một nguyên nhân là chúng ta có chính sách nhưng cấp độ pháp lý của các chính sách này còn thấp và không đồng bộ. Như vậy, có phải Bộ trưởng cũng đồng ý với tôi là, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến công nghiệp chế tạo và công nghiệp phụ trợ của chúng ta còn hạn chế là do sự thiếu tập trung về quản lý và lãnh đạo của Nhà nước? Nếu đúng như thế thì thông điệp của chúng ta ở đây là sắp tới Bộ nên tập trung quản lý, lãnh đạo cho tốt.