Căn cứ vào Điều 42 của
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và
công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc;
Để củng cố quốc phòng,
giữ gìn hòa bình, bảo vệ thành quả của cách mạng và sự nghiệp lao động hòa
bình xây dựng chủ nghĩa xã hội;
Để phát huy truyền thống
yêu nước của nhân dân, phát huy thắng lợi của chế độ tình nguyện tòng quân
trước đây, nâng cao ý thức quốc phòng, phổ cập trí thức quân sự trong nhân
dân;
Để đáp ứng yêu cầu xây
dựng lực lượng vũ trang của nhân dân;
Nay quy định chế độ
nghĩa vụ quân sự như sau:
Chương I
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1.
Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đối với Tổ quốc.
Những công dân nam giới
từ mười tám đến bốn mươi lăm tuổi, không phân biệt dân tộc, nghề nghiệp, tôn
giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội và trình độ văn hóa, đều có nghĩa vụ
quân sự.
Điều 2.
Không được làm
nghĩa vụ quân sự:
- Những người bị tòa án
hoặc pháp luật tước quyền công dân;
- Những người đang ở
trong thời gian bị giam giữ hoặc bị
quản chế.
Điều 3.
Nghĩa vụ quân sự chia làm hai ngạch: tại ngũ và dự bị. Làm nghĩa vụ quân sự
là tham gia quân đội thường trực hoặc tham gia quân dự bị.
Điều 4.
Quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị gồm có sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ.
Hạ sĩ quan và
binh sĩ gồm các cấp bậc sau đây:
- Hạ sĩ quan: thượng sĩ,
trung sĩ, hạ sĩ.
- Binh sĩ: binh nhất,
binh nhì.
Điều 5.
Hạ sĩ quan và binh sĩ chuyển sang ngạch dự bị vẫn được giữ cấp bậc cũ.
Điều 6.
Hạ sĩ quan và binh sĩ phục vụ trong ngạch dự bị đến hết bốn mươi lăm tuổi
thì hết hạn làm nghĩa vụ quân sự.
Thời hạn phục
vụ của sĩ quan theo như quy định trong Luật về chế độ phục vụ của sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 4 năm
1958.
Điều 7.
Lứa tuổi tuyển
vào quân đội thường trực trong thời bình ấn định từ mười tám đến hai mươi
lăm tuổi. Lứa tuổi tuyển vào quân đội thường trực trong thời chiến do Hội
đồng quốc phòng định.
Những người trong những
lứa tuổi đó có thể lần lượt được gọi ra phục vụ tại ngũ.
Điều 8.
Những quân nhân đang phục vụ theo chế độ tình nguyện sẽ dần dần được phục
viên và chuyển sang dự bị hoặc giải ngạch nghĩa vụ quân sự.
Chương II
CHẾ ĐỘ PHỤC VỤ CỦA QUÂN NHÂN TẠI NGŨ
VÀ QUÂN NHÂN DỰ BỊ
Điều 9.
Sĩ quan tại ngũ
và sĩ quan dự bị phục vụ theo chế độ quy định trong luật về chế độ phục vụ
của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 29
tháng 4 năm 1958, và những điều khoản có liên quan đến sĩ quan trong Luật
này.
Điều 10.
Thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong bộ đội lục quân là
hai năm.
Đối với hạ sĩ
quan và binh sĩ trong bộ đội không quân, hạ sĩ quan kỹ thuật và binh sĩ kỹ
thuật trong bộ đội lục quân, hạ sĩ quan và binh sĩ công an nhân dân vũ
trang, thì thời hạn phục vụ tại ngũ là ba năm
Đối với hạ sĩ
quan và binh sĩ trong bộ đội hải quân thì thời hạn phục vụ tại ngũ là bốn
năm.
Điều 11.
Hạ sĩ quan và binh sĩ tại ngũ có thể được điều động từ quân chủng, binh
chủng này sang quân chủng, binh chủng khác; sang quân chủng, binh chủng nào
thì theo thời hạn phục vụ ở quân chủng, binh chủng ấy. Thời gian đã phục vụ
ở quân chủng, binh chủng trước được tính vào thời hạn phục vụ ở quân chủng,
binh chủng sau.
Điều 12.
Hạ sĩ quan và binh sĩ đã hết hạn tại ngũ có thể tình nguyện đăng lại một
thời hạn ít nhất là một năm.
Điều 13.
Ngạch dự bị của hạ sĩ quan và binh sĩ chia làm hai hạng: dự bị hạng một và
dự bị hạng hai.
Hạ sĩ quan và
binh sĩ hết hạn phục vụ tại ngũ được xếp vào dự bị hạng một. Những công dân
khác trong lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự được xếp vào dự bị hạng hai.
Điều 14.
Hạ sĩ quan và binh sĩ tại ngũ bị bệnh, bị thương, bị tàn phế, không còn đủ
sức khỏe để tiếp tục phục vụ trong quân đội, sau khi được thủ trưởng đơn vị
bộ đội có thẩm quyền chuẩn y, thì được thoái ngũ.
Điều 15.
Những quân nhân dự bị hết hạn tuổi làm nghĩa vụ quân sự, hoặc bị bệnh, bị
thương, bị tàn phế, không còn đủ sức khỏe để làm nghĩa vụ quân sự, sau khi
được cơ quan quân sự có thẩm quyền chuẩn y, thì được giải ngạch nghĩa vụ
quân sự.
Chương III
ĐĂNG KÝ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, THỐNG KÊ
VÀ QUẢN LÝ QUÂN NHÂN DỰ BỊ
Điều 16.
Hàng năm vào khoảng năm ngày đầu tháng Giêng dương lịch, những công dân nam
giới đủ mười tám tuổi tính đến ngày mồng 1 tháng Giêng dương lịch, phải đến
Uỷ ban hành chính xã, thị xã, thị trấn, khu phố nơi mình ở để được kiểm tra
sơ bộ thân thể và đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Điều 17.
Phụ nữ từ mười
tám đến bốn mươi lăm tuổi có kỹ thuật chuyên môn cần cho quân đội cũng đăng
ký nghĩa vụ quân sự.
Điều 18.
Quân nhân phục viên khi về đến nơi ở hoặc nơi công tác phải đến cơ quan quân
sự địa phương để đăng ký vào ngạch dự bị.
Điều 19.
Quân nhân dự bị là công nhân, viên chức trong thời gian đi đăng ký nghĩa vụ
quân sự vẫn được hưởng lương.
Điều 20.
Những quân nhân dự bị khi hết hạn tuổi làm nghĩa vụ quân sự, khi không còn
đủ sức khỏe để tiếp tục làm nghĩa vụ quân sự, khi thay đổi trình độ văn hóa,
nghề nghiệp, đơn vị công tác, chỗ ở, phải đến báo cáo với Uỷ ban hành chính
xã, thị xã, thị trấn, khu phố nơi mình ở xin giải ngạch nghĩa vụ quân sự
hoặc thay đổi đăng ký.
Điều 21.
Bộ Quốc phòng lãnh đạo việc đăng ký, thống kê và quản lý quân nhân dự bị
trong toàn quốc.
Dưới sự lãnh
đạo của Uỷ ban hành chính, cơ quan quân sự địa phương có nhiệm vụ tổ chức
thực hiện việc đăng ký, thống kê và quản lý quân nhân dự bị trong địa phương
mình.
Thủ trưởng các
cơ quan, trường học, xí nghiệp, nông trường, công trường có nhiệm vụ tổ chức
thực hiện việc đăng ký, thống kê quân nhân dự bị thuộc đơn vị mình theo sự
hướng dẫn của các cơ quan quân sự địa phương.
Chương IV
TUYỂN BINH
Điều 22.
Hàng năm, căn cứ
vào nhu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tình hình của các địa
phương, Chính phủ ấn định tổng số người cần tuyển vào quân đội thường trực
và quyết định những biện pháp cần thiết để tiến hành việc tuyển binh.
Điều 23.
Hàng năm tiến hành tuyển binh một lần vào khoảng thời gian từ mồng 1 tháng
12 năm trước đến ngày 28 tháng 2 năm sau. Trong trường hợp cần thiết Chính
phủ có thể quyết định thay đổi thời gian tuyển binh.
Điều 24.
Kể từ ngày công bố lệnh tuyển binh, những người trong lứa tuổi tuyển vào
quân đội thường trực muốn thay đổi chỗ ở sang địa phương khác phải được Uỷ
ban hành chính xã, thị xã, thị trấn, khu phố mình đang ở đồng ý.
Điều 25.
Việc kiểm tra thân thể để tuyển binh do Bộ Y tế phụ trách theo tiêu chuẩn do
Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế quy định.
Điều 26.
Những người trong lứa tuổi tuyển binh đã đăng ký nghĩa vụ quân sự, nếu bị
đau yếu không thể đến trạm tuyển binh được và được Uỷ ban hành chính xã, thị
xã, thị trấn, khu phố chứng nhận, thì có thể được hoãn đến kỳ tuyển binh năm
sau.
Điều 27.
Những người trong lứa tuổi tuyển binh đã đăng ký nghĩa vụ quân sự, nếu là
người lao động duy nhất của gia đình, hoặc là con một, thì có thể được Uỷ
ban hành chính huyện, thị xã, châu thuộc khu tự trị, quận và khu phố ở các
thành phố trực thuộc Trung ương xét và cho miễn phục vụ tại ngũ.
Những trường
hợp khác cần miễn hoặc hoãn gọi ra phục vụ tại ngũ sẽ do Chính phủ quy định.
Chương V
HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ CHO QUÂN NHÂN DỰ BỊ
Điều 28.
Sĩ quan, hạ sĩ
quan và binh sĩ dự bị, hằng năm phải theo mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng mà
tham gia huấn luyện quân sự.
Sĩ quan dự bị mỗi năm
phải tham gia huấn luyện quân sự hai mươi lăm ngày.
Hạ sĩ quan và binh sĩ dự
bị mỗi năm phải tham gia huấn luyện quân sự mười lăm ngày.
Điều 29.
Đối với quân nhân dự bị là công nhân, viên chức, Chính phủ sẽ quy định việc
trả lương trong thời gian tham gia huấn luyện quân sự.
Đối với quân
nhân dự bị không ở trong trường hợp nói trên, khi cần thoát ly sản xuất để
tham gia huấn luyện quân sự tập trung, Chính phủ sẽ quy định việc giúp đỡ.
Điều 30.
Đối với sinh viên, học sinh các trường đại học, các trường chuyên nghiệp
trung cấp thì việc huấn luyện quân sự thuộc chương trình giáo dục do Chính
phủ quy định.
Điều 31.
Bộ
Quốc phòng lãnh đạo việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị trong toàn
quốc.
Dưới sự lãnh
đạo của Uỷ ban hành chính, cơ quan quân sự địa phương có nhiệm vụ tổ chức
thực hiện việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị trong địa phương mình.
Thủ trưởng các
cơ quan, trường học, xí nghiệp, nông trường, công trường có nhiệm vụ tổ chức
việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị thuộc đơn vị mình theo sự hướng
dẫn của các cơ quan quân sự địa phương.
Chương VI
ĐỘNG VIÊN THỜI CHIẾN
Điều 32.
Sau khi Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên
cục bộ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra các mệnh lệnh cần thiết để thực hiện.
Điều 33.
Sau khi lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ được công bố:
- Tất cả những
quân nhân dù sắp hết hạn tại ngũ đều phải ở lại quân đội cho đến khi có mệnh
lệnh của Bộ Quốc phòng cho thoái ngũ.
- Tất cả quân
nhân dự bị khi nhận được mệnh lệnh gọi ra phục vụ tại ngũ phải có mặt đúng
ngày, đúng giờ, ở địa điểm đã định.
Điều 34.
Việc hoãn gọi ra phục vụ tại ngũ trong thời chiến do Hội đồng Quốc phòng
quyết định.
Chương VII
QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CỦA QUÂN NHÂN TẠI NGŨ
VÀ QUÂN NHÂN DỰ BỊ
Điều 35.
Quân nhân tại ngũ
và quân nhân dự bị có tất cả mọi quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân
quy định trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quân nhân còn
có những quyền lợi và nghĩa vụ khác quy định trong Luật này và trong các
điều lệnh và chế độ của quân đội.
Điều 36.
Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị và dân quân, tự vệ lập được công trạng sẽ
được tặng thưởng huân chương, danh hiệu vinh dự, huy chương, bằng khen.
Điều 37.
Những sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị có nhiều thành tích trong huấn
luyện quân sự, hoặc trong công tác bảo vệ an ninh, củng cố quốc phòng, có
thể được thăng, thưởng.
Điều 38.
Quân nhân tại ngũ bị tàn phế, bị bệnh chết, hoặc hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ, thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ ưu đãi do Chính phủ định.
Điều 39.
Quân nhân dự bị, dân quân, tự vệ bị thương hoặc hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ quân sự thì bản thân hoặc gia đình được hưởng một khoản trợ cấp do Chính
phủ định.
Chương VIII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 40.
Những hành vi vi
phạm các điều khoản trong Luật này và những hành vi làm cản trở hoặc phá
hoại việc thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự sẽ tùy từng trường hợp mà bị
trừng trị theo pháp luật.
Điều 41.
Những điều khoản trong các luật lệ ban hành trước đây trái với Luật này đều
bãi bỏ.
Điều 42.
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này.
Luật này đã
được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 12,
thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1960.