LỜI NÓI ĐẦU
Nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Dân tộc Việt
Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử là một dân tộc lao động cần cù luôn luôn
anh dũng đấu tranh xây dựng đất nước và giữ gìn độc lập của Tổ quốc.
Trong hơn tám mươi năm nước ta bị thực dân Pháp đô hộ và năm năm bị phát xít
Nhật chiếm đóng, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đoàn kết đấu tranh chống
ách thống trị của bọn xâm lược nước ngoài để giải phóng đất nước.
Từ năm 1930, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam,
Cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy
gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của đế quốc
và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại: Cách mạng tháng Tám thành
công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập trước quốc dân và toàn thế
giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nước
Việt Nam độc lập và dân chủ.
Ngày 6 tháng 1 năm
1946, toàn dân Việt Nam từ Bắc chí Nam đã nhiệt liệt tham gia cuộc tổng
tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội. Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên
ghi rõ những thắng lợi to lớn của nhân dân ta, nêu cao ý chí của toàn thể
dân tộc kiên quyết giữ gìn nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, bảo vệ tự
do và quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Nhưng đế quốc Pháp
được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và
bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, toàn thể
nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. Đồng thời nhân
dân ta đã tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp địa
chủ, đem lại ruộng đất cho dân cày. Cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và vô
cùng anh dũng của nhân dân Việt Nam, được các nước xã hội chủ nghĩa, các dân
tộc bị áp bức và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình và ủng
hộ, đã thắng lợi vẻ vang. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam
đã đánh bại đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký
kết, hoà bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta.
Thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi chung của phong
trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, của mặt trận hoà bình thế giới và của
phe xã hội chủ nghĩa.
Từ khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta
đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhưng miền Nam còn bị đế
quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị chia làm hai miền.
Cách mạng Việt Nam
chuyển sang một hình thế mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh để hoà bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước.
Mấy năm qua, nhân dân
ta ở miền Bắc đã thu được nhiều thành tích to lớn trong việc khôi phục kinh
tế, phát triển văn hoá. Hiện nay, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội đang tiến hành thắng lợi.
Trong khi ấy, ở miền
Nam, đế quốc Mỹ và bọn tay sai đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân
dân ta. Chúng tăng cường binh bị, thực hiện âm mưu biến miền Nam nước ta
thành thuộc địa và căn cứ quân sự chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ. Chúng
ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại hoà bình, phá hoại sự nghiệp
thống nhất của nước Việt Nam. Nhưng đồng bào miền Nam luôn luôn anh dũng đấu
tranh, không chịu khuất phục. Nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, giương cao
ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, kiên quyết tiến lên giành
lấy thắng lợi cuối cùng. Sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc nhất định sẽ
thành công.
*
* *
Trong giai đoạn mới
của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp
với tình hình và nhiệm vụ mới.
Hiến pháp mới ghi rõ
những thắng lợi cách mạng to lớn đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ
mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới.
Nhà nước của ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế và
xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc trong nước,
bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm
cơ sở cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.
Hiến pháp mới quy
định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, quyền lợi và nghĩa
vụ của công dân, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong
công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc.
Hiến pháp mới là một
Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến pháp mới là sức mạnh động viên nhân dân cả
nước ta phấn khởi tiến lên giành những thắng lợi mới. Nhân dân ta quyết phát
huy hơn nữa tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, chí khí đấu tranh và
nhiệt tình lao động. Nhân dân ta quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất
trí với các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ
đại, tăng cường đoàn kết với nhân dân các nước Á - Phi và nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc
thống nhất, nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân
ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình
ở Đông Nam châu Á và thế giới.
Chương I
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Điều 1.
Đất nước
Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt.
Điều 2.
Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, thành lập và củng cố do thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã
giành được trong Cách mạng tháng Tám vẻ vang và kháng chiến anh dũng, là
một nước dân chủ nhân dân.
Điều 3.
Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.
Các dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước
có nhiệm vụ gìn giữ và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành
vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm.
Các dân tộc có quyền
duy trì hoặc sửa đổi phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát
triển văn hoá dân tộc của mình.
Những địa phương có
dân tộc thiểu số sống tập trung thì có thể thành lập khu vực tự trị. Khu
vực tự trị là bộ phận không thể tách rời được của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Nhà nước ra sức giúp
đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung.
Điều 4.
Tất cả quyền lực
trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Điều 5.
Việc tuyển
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể bị cử tri bãi miễn
trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân.
Điều 6.
Tất cả các
cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Tất cả các
nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân
dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân.
Điều 7.
Nhà nước nghiêm cấm
và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân,
chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Điều 8.
Lực lượng vũ trang
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là của nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ
thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn và
an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự nghiệp lao động hoà
bình của nhân dân.
Chương II
CHẾ ĐỘ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Điều 9.
Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa
xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ
nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến.
Mục đích
cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là
không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân.
Điều 10.
Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Nhà nước
dựa vào các cơ quan Nhà nước, tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ
chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh
tế.
Điều 11.
Ở nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư
liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn
dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình
thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Điều 12.
Kinh tế quốc doanh
thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh
tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.
Các hầm mỏ, sông
ngòi, và những rừng cây, đất
hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc
quyền sở hữu của toàn dân.
Điều
13.
Kinh tế hợp tác xã
thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển của kinh tế hợp tác xã.
Điều
14.
Nhà nước chiếu theo
pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác
của nông dân.
Nhà nước ra sức
hướng dẫn, giúp đỡ nông dân cải tiến kỹ thuật canh tác, phát triển sản
xuất, và khuyến khích nông dân tổ chức hợp tác xã sản xuất, hợp tác xã
mua bán và hợp tác xã vay mượn theo nguyên tắc tự nguyện.
Điều
15.
Nhà nước chiếu theo
pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người làm
nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác.
Nhà nước ra sức
hướng dẫn, giúp đỡ những người làm nghề thủ công và những người lao động
riêng lẻ khác cải tiến cách làm ăn và khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã
sản xuất và hợp tác xã mua bán theo nguyên tắc tự nguyện.
Điều
16.
Nhà nước chiếu theo
pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của
nhà tư sản dân tộc.
Nhà nước ra sức
hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh,
góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù hợp với kế hoạch kinh tế của
Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc đi
theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh
và những hình thức cải tạo khác.
Điều
17.
Nhà nước nghiêm cấm
việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã
hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước.
Điều
18.
Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác.
Điều
19.
Nhà nước chiếu theo
pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.
Điều
20.
Chỉ khi nào cần
thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng
thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông
thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.
Điều
21.
Lao động là cơ sở để
phát triển kinh tế quốc dân và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân.
Lao động là nghĩa vụ
và vinh dự của người công dân.
Nhà nước khuyến
khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực trong lao động của những người
lao động chân tay và lao động trí óc.
Chương
III
QUYỀN
LỢI VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Điều
22.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật.
Điều
23.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành
phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu
cử, từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người
mất trí và những người bị toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng
cử.
Công dân đang ở
trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều
24.
Phụ nữ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Cùng việc làm như
nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho
phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà
vẫn hưởng nguyên lương.
Nhà nước bảo hộ
quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ,
nhà giữ trẻ và vườn trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình.
Điều
25.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập
hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để
công dân được hưởng các quyền đó.
Điều
26.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào.
Điều
27.
Quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được bảo
đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Toà án nhân
dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.
Điều
28.
Pháp luật bảo đảm
nhà ở của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không bị xâm phạm, thư
tín được giữ bí mật.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do cư trú và đi lại.
Điều
29.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà
nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước.
Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng.
Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước
có quyền được bồi thường.
Điều
30.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền làm việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển
có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng công việc làm, cải
thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho công dân được
hưởng quyền đó.
Điều
31.
Người lao động có
quyền nghỉ ngơi. Nhà nước quy định thời giờ làm việc và chế độ nghỉ ngơi
của công nhân và viên chức, mở rộng dần những điều kiện vật chất về nghỉ
ngơi và an dưỡng, để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.
Điều
32.
Người lao động có
quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao
động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế
để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.
Điều
33.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế
độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn
hoá, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp
vụ tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông
thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó.
Điều
34.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn
học, nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự
nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác.
Điều
35.
Nhà nước chú trọng
đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục.
Điều
36.
Nhà nước bảo hộ
quyền lợi chính đáng của Việt kiều.
Điều
37.
Những người nước
ngoài vì đấu tranh cho tự do, cho chính nghĩa, cho hoà bình và cho sự
nghiệp khoa học mà bị bức hại đều được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà cho phép trú ngụ.
Điều
38.
Không ai được lợi
dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của
nhân dân.
Điều
39.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật
lao động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội.
Điều
40.
Tài sản công cộng
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là thiêng liêng không thể xâm phạm.
Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.
Điều
41.
Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật.
Điều
42.
Bảo vệ Tổ quốc là
nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Công dân có bổn phận
làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Chương
IV
QUỐC
HỘI
Điều
43.
Quốc hội là cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều
44.
Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều
45.
Nhiệm kỳ của mỗi
khoá Quốc hội là bốn năm.
Hai tháng trước khi
Quốc hội hết nhiệm kỳ thì phải bầu xong Quốc hội mới.
Thể lệ tuyển cử và
số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp xảy
ra chiến tranh hoặc các trường hợp bất thường khác, Quốc hội có thể
quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và những biện pháp cần thiết để bảo
đảm sự hoạt động của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.
Điều
46.
Quốc hội mỗi năm họp
hai lần, do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập. Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội có thể triệu tập Quốc hội họp bất thường theo quyết định của mình
hoặc theo yêu cầu của Hội đồng Chính phủ hay của ít nhất là một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội phải triệu tập Quốc hội mới chậm nhất là hai tháng sau khi
tuyển cử.
Điều
47.
Khi Quốc hội họp thì
bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp.
Điều
48.
Các đạo luật và các
nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành, trừ trường hợp quy định ở Điều 112 của Hiến pháp.
Điều
49.
Các đạo luật phải
được công bố chậm nhất là mười lăm ngày sau khi Quốc hội đã thông qua.
Điều
50.
Quốc hội có những
quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và
sửa đổi Hiến pháp.
2. Làm pháp luật.
3. Giám sát việc thi
hành Hiến pháp.
4. Bầu Chủ tịch và
Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
5. Theo đề nghị của
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định cử Thủ tướng Chính
phủ; theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ quyết định cử Phó Thủ tướng và
các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.
6. Theo đề nghị của
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định cử Phó Chủ tịch và
các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng.
7. Bầu Chánh án Toà
án nhân dân tối cao.
8. Bầu Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
9. Bãi miễn Chủ
tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Thủ tướng, Phó Thủ
tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, Phó Chủ tịch và
những thành viên khác của Hội đồng quốc phòng, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
10. Quyết định kế
hoạch kinh tế Nhà nước.
11. Xét duyệt và phê
chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của Nhà nước.
12. Ấn định các thứ
thuế.
13. Phê chuẩn việc
thành lập và bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ.
14. Phê chuẩn việc
phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung
ương.
15. Quyết định đại
xá.
16. Quyết định vấn
đề chiến tranh và hoà bình.
17. Những quyền hạn
cần thiết khác do Quốc hội định.
Điều
51.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch,
- Các Phó Chủ tịch,
- Tổng thư ký,
- Các uỷ viên.
Điều
52.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội có quyền
bãi miễn các thành viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Điều
53.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội có những quyền hạn sau đây:
1. Tuyên bố và chủ
trì việc tuyển cử đại biểu Quốc hội.
2. Triệu tập Quốc
hội.
3. Giải thích pháp
luật.
4. Ra pháp lệnh.
5. Quyết định việc
trưng cầu ý kiến nhân dân.
6. Giám sát công tác
của Hội đồng Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
7. Sửa đổi hoặc bãi
bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với
Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết
không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực
thuộc Trung ương, và giải tán các Hội đồng nhân dân nói trên trong
trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân
dân một cách nghiêm trọng.
8. Trong thời gian
Quốc hội không họp, quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng
và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.
9. Bổ nhiệm hoặc bãi
miễn Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
10. Bổ nhiệm hoặc
bãi miễn Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
11. Quyết định việc
bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ở nước ngoài.
12. Quyết định việc
phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài, trừ trường hợp
mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định.
13. Quy định hàm và
cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác.
14. Quyết định đặc
xá.
15. Quy định và
quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà
nước.
16. Trong thời gian
Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh
trong trường hợp nước nhà bị xâm lược.
17. Quyết định việc
tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
18. Quyết định việc
giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương.
Ngoài những quyền
hạn trên, Quốc hội có thể trao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội những quyền
hạn khác khi xét thấy cần thiết.
Điều
54.
Những nghị quyết của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số uỷ viên biểu quyết
tán thành.
Điều
55.
Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội mới bầu xong Uỷ ban Thường vụ
mới.
Điều
56.
Quốc hội bầu ra Uỷ
ban thẩm tra tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội căn cứ vào
báo cáo của Uỷ ban thẩm tra mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của
đại biểu Quốc hội.
Điều
57.
Quốc hội thành lập
Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, và những Uỷ ban
khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội.
Điều
58.
Nếu Quốc hội nhận
thấy cần thiết, và trong thời gian Quốc hội không họp, nếu Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội nhận thấy cần thiết, thì có thể tổ chức các Uỷ ban điều tra
về những vấn đề nhất định. Trong khi Uỷ ban điều tra làm việc, các cơ
quan Nhà nước, đoàn thể nhân dân và công dân có nhiệm vụ cung cấp tài
liệu cần thiết cho Uỷ ban điều tra.
Điều
59.
Các đại biểu Quốc
hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng
Chính phủ.
Cơ quan bị chất vấn
phải trả lời trong thời hạn năm ngày; trường hợp cần phải điều tra thì
thời hạn trả lời là một tháng.
Điều
60.
Nếu không có sự đồng
ý của Quốc hội, và trong thời gian Quốc hội không họp, nếu không có sự
đồng ý của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam và truy tố
đại biểu Quốc hội.
Chương
V
CHỦ
TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Điều
61.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là người thay mặt cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà về mặt đối nội và đối ngoại.
Điều
62.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bầu ra.
Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ ba mươi lăm tuổi trở lên có
quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiệm kỳ của Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Điều
63.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn
Thủ tướng, Phó Thủ tướng, và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ;
bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc
phòng; công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá; tặng thưởng huân chương và
danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố
lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.
Điều
64.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước
ngoài cử đến; căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài, cử và triệu hồi đại
diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở nước
ngoài.
Điều
65.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ
chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng.
Điều
66.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ
toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ.
Điều
67.
Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ
Hội nghị chính trị đặc biệt.
Hội nghị chính trị
đặc biệt gồm có Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những người
hữu quan khác.
Hội nghị chính trị
đặc biệt xét những vấn đề lớn của nước nhà. Những ý kiến của Hội nghị
chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chuyển đến
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc các cơ quan
hữu quan khác để thảo luận và ra quyết định.
Điều
68.
Phó Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ, có thể được Chủ
tịch uỷ nhiệm thay thế Chủ tịch trong từng bộ phận chức quyền.
Việc tuyển cử và
nhiệm kỳ của Phó Chủ tịch quy định như việc tuyển cử và nhiệm kỳ của Chủ
tịch.
Điều
69.
Chủ tịch và Phó Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm nhiệm vụ cho đến khi Chủ tịch
mới và Phó Chủ tịch mới nhận chức.
Điều
70.
Khi Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vì tình hình sức khoẻ mà không làm việc được
trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.
Khi Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khuyết thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến
khi bầu xong Chủ tịch mới.
Chương
VI
HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Điều
71.
Hội đồng Chính phủ
là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hội đồng Chính phủ
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian
Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
Điều
72.
Hội đồng Chính phủ
gồm có:
- Thủ tướng,
- Các Phó Thủ tướng,
- Các Bộ trưởng,
- Các Chủ nhiệm các
Uỷ ban Nhà nước,
- Tổng giám đốc ngân
hàng Nhà nước.
Tổ chức của Hội đồng
Chính phủ do luật định.
Điều
73.
Hội đồng Chính phủ
căn cứ vào Hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh mà quy định những biện pháp
hành chính, ban bố những nghị định, nghị quyết, chỉ thị và kiểm tra việc
thi hành những nghị định, nghị quyết và chỉ thị ấy.
Điều
74.
Hội đồng Chính phủ
có những quyền hạn sau đây:
1. Trình dự án luật,
dự án pháp lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội.
2. Thống nhất lãnh
đạo công tác của các Bộ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ.
3. Thống nhất lãnh
đạo công tác của Uỷ ban hành chính các cấp.
4.
Sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định không thích đáng của các Bộ, các cơ quan thuộc Hội đồng
Chính phủ; sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ
ban hành chính các cấp.
5. Đình chỉ việc thi
hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, khu
tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
6. Chấp hành kế
hoạch kinh tế và ngân sách Nhà nước.
7. Quản lý nội
thương và ngoại thương.
8. Quản lý công tác
văn hoá, xã hội.
9. Bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, duy trì trật tự công cộng, bảo hộ quyền lợi của công dân.
10. Lãnh đạo việc
xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà nước.
11. Quản lý công tác
đối ngoại.
12. Quản lý công tác
dân tộc.
13. Phê chuẩn sự
phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.
14. Thi hành lệnh
động viên, lệnh giới nghiêm và mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ đất
nước.
15. Bổ nhiệm và bãi
miễn các nhân viên cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Ngoài những quyền
hạn trên, Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể trao cho Hội
đồng Chính phủ những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết.
Điều
75.
Thủ tướng Chính phủ
chủ tọa Hội đồng Chính phủ và lãnh đạo công tác của Hội đồng Chính phủ.
Các Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng, có thể được uỷ nhiệm thay Thủ tướng
khi Thủ tướng vắng mặt.
Điều
76.
Các Bộ trưởng và thủ
trưởng các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ lãnh đạo công tác của ngành
mình dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ.
Trong phạm vi quyền
hạn của mình, trên cơ sở và để thi hành pháp luật và các nghị định, nghị
quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ, các Bộ trưởng và thủ trưởng các
cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra
việc thi hành các thông tư, chỉ thị ấy.
Điều
77.
Trong khi thi hành
chức vụ, các thành viên của Hội đồng Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi trái với Hiến pháp và pháp luật gây
thiệt hại cho Nhà nước hay là cho nhân dân.
Chương
VII
HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH
ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP
Điều
78.
Các đơn vị hành
chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân định như sau:
Nước chia thành
tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành
huyện, thành phố, thị xã;
Huyện chia thành xã,
thị trấn.
Các đơn vị hành
chính trong khu vực tự trị do luật định.
Điều
79.
Các đơn vị hành
chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Các thành phố có thể
chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo quyết
định của Hội đồng Chính phủ.
Điều
80.
Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Hội đồng nhân dân
các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương.
Điều
81.
Nhiệm kỳ của mỗi
khoá Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương
là ba năm.
Nhiệm kỳ của mỗi
khoá Hội đồng nhân dân huyện, thành phố, thị xã, xã, thị trấn, khu phố
là hai năm.
Nhiệm kỳ của mỗi
khoá Hội đồng nhân dân các cấp trong khu vực tự trị do luật định.
Thể lệ tuyển cử và
số đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp do luật định.
Điều
82.
Hội đồng nhân dân
bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật của Nhà nước ở địa phương;
đặt kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hoá và những sự nghiệp lợi ích công
cộng ở địa phương; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân
sách của địa phương; duy trì trật tự và an ninh ở địa phương, bảo vệ tài
sản công cộng, bảo hộ quyền lợi của công dân, bảo đảm quyền bình đẳng
của các dân tộc.
Điều
83.
Căn cứ vào pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên, Hội đồng nhân dân ra những nghị
quyết thi hành ở địa phương.
Điều
84.
Hội đồng nhân dân
bầu ra Uỷ ban hành chính và có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban
hành chính.
Hội đồng nhân dân
bầu và bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân cấp mình.
Điều
85.
Hội đồng nhân dân có
quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban
hành chính cấp mình; có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không
thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và những quyết định
không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp dưới trực tiếp.
Điều
86.
Hội đồng nhân dân
các cấp có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi Hội
đồng nhân dân này làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách
nghiêm trọng. Nghị quyết giải tán phải được Hội đồng nhân dân cấp trên
trực tiếp phê chuẩn trước khi thi hành. Nghị quyết giải tán của Hội đồng
nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương phải được Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trước khi thi hành.
Điều
87.
Uỷ ban hành chính
các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, là cơ
quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.
Điều
88.
Uỷ ban hành chính
gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ viên thư ký và các uỷ
viên.
Nhiệm kỳ của Uỷ ban
hành chính theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra mình.
Khi Hội đồng nhân
dân hết nhiệm kỳ hoặc bị giải tán, Uỷ ban hành chính tiếp tục làm nhiệm
vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân mới bầu ra Uỷ ban hành chính mới.
Tổ chức của Uỷ ban
hành chính các cấp do luật định.
Điều
89.
Uỷ ban hành chính
các cấp quản lý công tác hành chính của địa phương, chấp hành nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp mình và nghị quyết, mệnh lệnh của cơ quan hành
chính Nhà nước cấp trên.
Uỷ ban hành chính
các cấp chiếu theo quyền hạn do luật định mà ra quyết định, chỉ thị và
kiểm tra việc thi hành những quyết định, chỉ thị ấy.
Điều
90.
Uỷ ban hành chính
các cấp lãnh đạo công tác của các ngành thuộc quyền mình và của các Uỷ
ban hành chính cấp dưới.
Uỷ ban hành chính
các cấp có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng
của các ngành công tác thuộc quyền mình và của Uỷ ban hành chính cấp
dưới.
Uỷ ban hành chính
các cấp có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích
đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân
dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
Điều
91.
Uỷ ban hành chính
các cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp
mình và trước cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp.
Uỷ ban hành chính
các cấp chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo
thống nhất của Hội đồng Chính phủ.
HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH
Ở CÁC KHU VỰC TỰ TRỊ
Điều
92.
Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban hành chính ở các khu vực tự trị phải căn cứ vào những
nguyên tắc cơ bản về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các
cấp quy định ở trên.
Điều
93.
Trong những khu vực
tự trị có nhiều dân tộc sống xen lẫn, Hội đồng nhân dân sẽ có số đại
biểu thích đáng của các dân tộc.
Điều
94.
Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban hành chính các khu vực tự trị chiếu theo phạm vi quyền hạn tự trị
do pháp luật quy định mà đặt kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá
thích hợp với tình hình địa phương, quản lý tài chính, tổ chức các lực
lượng dân quân tự vệ và công an của địa phương.
Điều
95.
Trong phạm vi quyền
hạn tự trị, Hội đồng nhân dân các khu tự trị có thể chiếu theo những đặc
điểm chính trị, kinh tế, văn hoá của các dân tộc ở địa phương mà đặt ra
điều lệ tự trị và những điều lệ về những vấn đề riêng biệt để thi hành ở
địa phương sau khi đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Điều
96.
Cơ quan Nhà nước cấp
trên phải bảo đảm cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các khu vực
tự trị sử dụng quyền tự trị và giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến hành
thuận lợi việc xây dựng chính trị, kinh tế và văn hoá của mình.
CHƯƠNG
VIII
TOÀ ÁN
NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TOÀ ÁN
NHÂN DÂN
Điều
97.
Toà án nhân dân tối
cao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các Toà án nhân dân địa phương, các
Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
Trong trường hợp cần
xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án
đặc biệt.
Điều
98.
Các Toà án nhân dân
thực hành chế độ thẩm phán bầu theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kỳ của Chánh
án Toà án nhân dân tối cao là năm năm.
Tổ chức của các Toà
án nhân dân do luật định.
Điều
99.
Việc xét xử ở các
Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp
luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.
Điều
100.
Khi xét xử, Toà án
nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều
101.
Việc xét xử tại các
Toà án nhân dân đều công khai, trừ những trường hợp đặc biệt do luật
định.
Quyền bào chữa của
người bị cáo được bảo đảm.
Điều
102.
Toà án nhân dân bảo
đảm cho công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thuộc các dân tộc thiểu
số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Toà án.
Điều
103.
Toà án nhân dân tối
cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Toà án nhân dân tối
cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân
sự và Toà án đặc biệt.
Điều
104.
Toà án nhân dân tối
cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian
Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội. Các Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương.
VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều
105.
Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.
Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong
phạm vi do luật định.
Điều
106.
Nhiệm kỳ của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là năm năm.
Tổ chức của các Viện
kiểm sát nhân dân do luật định.
Điều
107.
Viện kiểm sát nhân
dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và
sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều
108.
Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong
thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Chương
IX
QUỐC
KỲ - QUỐC HUY - THỦ ĐÔ
Điều
109.
Quốc kỳ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Điều
110.
Quốc huy nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm
cánh, xung quanh có bông lúa, ở
dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều
111.
Thủ đô nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là Hà Nội.
Chương
X
SỬA
ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều
112.
Chỉ có Quốc hội mới
có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Bản
Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa thứ nhất
kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959
hồi 15 giờ 50.