CHỦ
TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh
số 41 ngày 29 tháng 3 năm 1946 quy định chế độ báo chí,
Theo đề nghị
của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp,
Theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban
Thường trực Quốc hội thoả thuận,
RA SẮC
LỆNH:
Chương I
TÍNH CHẤT VÀ NGHĨA VỤ CỦA BÁO CHÍ
Điều 1.
Sắc lệnh này nhằm
đảm bảo quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí và ngăn cấm những kẻ
lợi dụng quyền ấy để làm phương hại đến công cuộc đấu tranh cho hòa bình,
thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà.
Điều 2.
Báo chí dưới chế độ
ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể
nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh của nhân dân, phải
phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân,
ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều 3.
Báo chí dưới chế độ
ta có nghĩa vụ :
a) Tuyên truyền giáo dục
nhân dân, động viên tinh thần đoàn kết phấn đấu thực hiện mọi đường lối
chính sách của Chính phủ, đấu tranh bảo vệ những thành quả của cách mạng,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân ta
với nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, phục vụ
cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giầu mạnh.
b) Đấu tranh chống mọi
âm mưu, hành động và luận điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững
mạnh, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc, phá hoại hòa bình.
Chương II
QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN LỢI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ
Mục I
QUYỀN LỢI CỦA BÁO CHÍ
Điều 4.
Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được đảm bảo.
Tất cả các báo
chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước khi
in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, Hội
đồng Chính phủ sẽ quyết định.
Điều 5.
Báo chí có
thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân, góp ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường lối,
chính sách của Chính phủ.
Điều 6.
Quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do nghị định của Thủ
tướng Chính phủ quy định.
Mục II
ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ
Điều 7.
Để có một cơ sở cần thiết đảm bảo làm tròn trách nhiệm của báo chí, và đảm
bảo cho việc hoạt động nghiệp vụ. Muốn xuất bản một tờ báo, cần phải có
những điều kiện sau đây:
a) Tờ báo phải
có những người chịu trách nhiệm chính thức: Chủ nhiệm, Chủ bút (hoặc là Tổng
biên tập viên, hoặc là Thư ký Toà soạn), quản lý. Những người này phải là
những người có quyền công dân và không bị pháp luật đương truy tố.
b) Tôn chỉ,
mục đích tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và nghĩa vụ đã quy định
ở Chương I.
c) Có trụ sở
chính thức.
Điều 8.
Muốn xuất
bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khai
báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép,
tờ báo mới được bắt đầu hoạt động.
Báo chí nào đã
được phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích,
tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức
của tờ báo, đều phải xin phép và khai báo lại.
Điều 9.
Để
quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn; báo chí
phải tuân theo những điều sau đây:
a) Không được
tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được cổ động nhân dân không
thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối chính sách của Nhà
nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân,
chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và
bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an
ninh trật tự của xã hội.
b) Không được
tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết,
ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội.
c) Không được
tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn
hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn, không
được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho
chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh.
d) Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những
hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những
vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho phép công
bố, những tài liệu số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố.
e) Không được
tuyên truyền dâm ô, trụy lạc, đồi bại.
Điều 10.
Báo
nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay một cá nhân,
thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài cải chính của
đương sự; ngoài ra, đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử.
Điều 11.
Trước khi phát hành, các báo chí phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu.
Điều 12.
Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan chính quyền đã có
quyết định thu hồi.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Mục I
QUY
ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT
Điều 13.
Báo chí nào
vi phạm Điều 8, sẽ bị trừng phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và
truy tố trước toà án, sẽ bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến năm
mươi vạn đồng (500.000đ), hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng
đến một năm, hoặc cả hai hình phạt đó.
Báo chí nào vi phạm Điều
9 hoặc Điều 12 sẽ bị trừng phạt: tùy theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch
thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, hoặc bị truy tố trước
toà án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến một triệu đồng
(1.000.000đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến hai
năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác,
toà án sẽ chiểu theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm.
Báo chí nào vi phạm Điều
10 sẽ bị trừng phạt: tùy theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, đình bản tạm
thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng
(50.000đ) đến hai chục vạn đồng (200.000đ).
Báo chí nào vi
phạm Điều 11, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch thu ấn phẩm.
Điều 14.
Trong mọi trường hợp vi phạm, Chủ nhiệm và Chủ bút của tờ báo chịu trách
nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm
về phần của mình.
Nếu in những
báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo chí chưa có giấy phép thì
chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Mục II
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 15.
Các
điều khoản trong Sắc lệnh này áp dụng cho tất cả các ấn phẩm có tính chất
báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt, hoặc bằng tiếng nước ngoài, kể cả các
họa báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ, trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, ra từng tờ hoặc đóng thành từng tập, từng quyển, in bằng máy,
bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân dân,
hoặc trong từng ngành, từng tổ chức.
Điều 16.
Tất
cả các báo chí đã xuất bản trước ngày ban hành Sắc lệnh này thì không phải
xin phép nữa. Những báo nào chưa làm đúng thủ tục khai báo thì nay phải khai
báo lại cho đúng.
Điều 17.
Những luật lệ về báo chí đã ban hành từ trước đến nay trái với các điều
khoản ghi trong Sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 18.
Thủ
tướng Chính phủ sẽ quy định những chi tiết thi hành Sắc lệnh này.
Điều 19.
Thủ tướng Chính phủ, các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ
trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm thi hành Sắc lệnh này.
|
CHỦ
TỊCH
NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
HỒ CHÍ
MINH
|
Tiếp ký
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHẠM VĂN ĐỒNG
|