I- KẾT QUẢ KHÓA HỌP LẦN THỨ 3
Khóa họp lần thứ 3 vào
các ngày 1, 2, 3, 4-12-1953 để thông qua Luật cải cách ruộng đất đã đem lại
những kết quả tốt.
Nhân dân phấn khởi thấy
vấn đề ruộng đất được đặt ra một cách quan trọng. Trong khóa họp, Quốc hội
đã nhận được hàng chục bức điện văn hoan nghênh Luật cải cách ruộng đất. Sau
đó các nơi kế tiếp gửi điện văn về: tư nhân có, đoàn thể có, từng nhóm, từng
cuộc hội nghị có, miền ngược có, miền xuôi có, vùng tự do có, vùng địch tạm
chiếm có, cho đến ngày đưa in xấp tài liệu (2-1954) cơ quan đã nhận được cả
thẩy là 1.106 bức điện.
Trong các cuộc hội
nghị, trong các văn bản về vấn đề ruộng đất, việc Quốc hội thông qua Luật
cải cách ruộng đất đều được luôn luôn nhắc đến.
Cũng từ khóa họp lần thứ
3 về sau, các đại biểu với Ban
Thường trực Quốc hội có liên lạc nhiều hơn. Nhiều vị đại biểu thỉnh thoảng
gửi báo cáo cho Ban nói về tình hình địa phương và công tác của mình. Việc
gửi Công báo cho các đại biểu đề ra trong khóa họp đã được thực hiện; nhưng
do tình hình kháng chiến trước đây, địa chỉ các vị đại biểu không nhất định
và giao thông khó khăn nên cũng có sự mất mát.
Tập tài liệu về khóa họp
thứ 3 đưa in từ tháng 2-1954 mãi đến nay mới xong, tuy Nhà in quốc gia đã dự
định in xong hồi tháng 5. Đó cũng vì điều kiện ấn loát trong thời kháng
chiến không được đầy đủ, nên phải kéo dài như thế. Bản in này theo Nhà in là
công trình to nhất của họ từ trước đến nay, nên anh em công nhân nhà in rất
cố gắng. Số sách in ra là 600 quyển. Các sách ấy sẽ gửi cho các đại biểu
Quốc hội, các vị Bộ, Thứ trưởng trong Chính phủ, các cơ quan Chính quyền và
thông tin từ tỉnh trở lên, và một số gửi biếu các nước bạn, hoặc khách ngoại
quốc đi qua thăm nước ta.
Chưa kể số tiền ấn loát
ra tập tài liệu.
II-
SINH HOẠT CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI
Sau khóa họp lần thứ 3,
các vị Uỷ viên ở cơ quan Thường trực tương đối ít hơn trước. Bà Thục Viên
qua bên Phụ nữ, ông Trần Huy Liệu sang ở Ban văn sử địa, ông Trần Văn Cung
từ tháng 3-1954 đi chữa bệnh đến tháng 10-1954 mới về, các ông Lê Tư Lành,
Trần Tấn Thọ thì về Khu IV. Còn bà Lê Thị Xuyến và ông Nguyễn Đình Thi thì
vẫn ở với công tác chính như cũ.
Cụ Bùi Bằng Đoàn dưỡng
bệnh tại Thanh Hóa, ông Hoàng Văn Hoan nhận chức Đại sứ ở Trung Quốc.
Trong thời gian từ khóa
họp thứ II đến nay, có hai cuộc Hội nghị:
1. Cuộc Hội nghị ngày
19, 20-5-1954 gồm có:
Cụ Tôn Đức Thắng, ông
Tôn Quang Phiệt, ông Trần Huy Liệu và bà Nguyễn Thị Thục Viên.
Mục đích Hội nghị là để
nghe các báo cáo của các Uỷ viên:
a) Bà Thục Viên báo cáo
về Hội nghị giáo dục toàn quốc đã họp trong tháng 2-1954
b) Ông Trần Huy Liệu báo
cáo về Hội nghị tư pháp toàn quốc họp vào tháng 4-1954
c) Ông Tôn Quang Phiệt
báo cáo:
- Về Hội nghị tổng kết
cải cách ruộng đất ở 6 xã thí điểm Thái Nguyên họp vào tháng 4-1954.
- Về tình hình các đại
biểu Quốc hội, các Uỷ viên Ban Thường trực Quốc hội, công việc của Ban và
của cơ quan.
d) Cụ Tôn Đức Thắng báo
cáo về Hội đồng Chính phủ tháng 5-1954
Ngoài ra Hội nghị thảo
luận về việc in quyển tài liệu khóa họp lần thứ 3 và quyết định bỏ các bài
tham luận và ảnh của hai đại biểu thành phần địa chủ; vì trong lúc phong
trào phát động đang lên, để các bài, ảnh đại biểu thành phần địa chủ trong
quyển sách sẽ có ảnh hưởng không tốt trong nhân dân.
Biên bản của cuộc Hội
nghị này đã gửi cho các vị Uỷ viên trong Ban Thường trực Quốc hội.
2. Cuộc Hội nghị Ban
Thường trực Quốc hội mở rộng ngày 28-7-1954
Mục đích là để tỏ thái
độ với Hiệp định đình chiến mà Đoàn đại biểu ta đã ký với Đoàn đại biểu Pháp
tại Hội nghị Giơnevơ. Hội nghị gồm có 5 vị trong Ban Thường trực Quốc hội và
10 vị đại biểu Quốc hội. Số đại biểu đến dự có đủ Bắc, Trung, Nam và thiểu
số. Hội nghị đã nghe báo cáo của Ban Thường trực Quốc hội.
Bản báo cáo đã nêu ra ba
điểm:
a) Ban Thường trực Quốc
hội hoàn toàn tán thành chính sách hòa bình của Chính phủ.
b) Hiệp định đình chiến
mà Đoàn đại biểu ta đã ký với Đoàn đại biểu Pháp ở Hội nghị Giơnevơ là một
thắng lợi lớn.
c) Nhiệm vụ chúng ta
trước tình hình mới.
Sau đó Hội nghị đã thông
qua ba văn kiện:
- Nghị quyết của Hội
nghị Ban Thường trực Quốc hội mở rộng.
- Điện văn gửi Hồ Chủ
tịch tỏ lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch.
- Lời kêu gọi của Ban
Thường trực Quốc hội gửi các đại biểu Quốc hội và nhân dân.
Một lần nữa nhân dân
nhận thấy sự cộng tác chặt chẽ và sự nhất trí giữa Ban Thường trực Quốc hội
và Chính phủ.
Biên bản này cũng đã gửi
cho các Uỷ viên trong Ban.
III-
ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ
Sau khóa họp thứ 3 đến
nay, Ban Thường trực Quốc hội vẫn làm nhiệm vụ góp ý kiến với Chính phủ. Các
cuộc hội họp có sự thay đổi: Trước kia thì các Tiểu ban: Nội chính, Kinh
tài, Văn xã họp trước Hội đồng Chính phủ vào ba ngày. Lúc các Ban họp xong,
thì các vấn đề thảo luận ở các Ban đưa ra ngay để Hội đồng Chính phủ xét và
thông qua. Khóa họp các Ban, Hội đồng Chính phủ vào đầu tháng 1-1954 cũng
theo thủ tục như thế. Từ lúc bắt đầu đề ra Hội nghị Giơnevơ thì Hội đồng
Chính phủ họp nhiều hơn mà các Ban ít họp. Khóa họp tháng 1-1954 cũng là
khóa họp cuối cùng kể cho đến ngày nay mà Ban có đủ người đi họp cả các Ban
và khi họp xong các vị Uỷ viên về trụ sở báo cáo lại. Vì về sau số Uỷ viên ở
Trụ sở không đủ để đi họp các Ban; một mặt nữa, các Ban họp tương đối thưa,
nhất là Ban Văn xã thì không họp lần nào. Ban Kinh tế thì không có ai đi
nữa. Chỉ có Ban Nội chính thì đi dự được đều đặn. Trong thời gian ấy, Ban
Nội chính đã họp hai lần ở Việt Bắc (tháng 1-1954 và tháng 8-1954) một lần ở
Hà Nội (tháng 10-1954). Vừa rồi đây Ban Kinh tế họp (ngày 15-11-1954) ông
Cung có đi dự.
Còn Hội đồng Chính phủ
thì họp nhiều, đặc biệt trong thời kỳ thảo luận vấn đề Đông Dương tại
Giơnevơ (riêng việc này Chính phủ đã họp 4 lần) Cụ Tôn đi dự Hội đồng Chính
phủ đều đặn ở Việt Bắc cũng như về Hà Nội.
Hồi tháng 3-1954 Chính
phủ đã thành lập Uỷ ban Cải cách ruộng đất Trung ương bằng một Sắc lệnh, Ban
đã cử ông Tôn Quang Phiệt dự Ban ấy. Ban cải cách ruộng đất Trung ương đã
họp hai lần vào tháng 6 (5, 6, 7, 8-6-1954) và tháng 9 -1954 (6, 7-9-1954).
Ban cải cách ruộng đất
Trung ương có nhiệm vụ lãnh đạo cụ thể cuộc phát động quần chúng triệt để
giảm tô và cuộc phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất trong toàn
quốc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ. Mọi vấn đề thuộc về ruộng đất
đều do Uỷ ban cải cách ruộng đất Trung ương thảo luận giải quyết rồi đệ lên
Hội đồng Chính phủ thông qua để thực hiện. Việc thành lập Uỷ ban Cải cách
ruộng đất Trung ương là thi hành theo Điều 32 trong Luật cải cách ruộng đất
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà Quốc hội đã thông qua trong khóa họp
thứ 3 (tháng 12-1953).
Hôm 20-11-1954 ông Tôn
Quang Phiệt lại được Thủ tướng phủ mời đến dự cuộc Hội nghị khen thưởng Huân
chương theo Thông tư Thủ tướng phủ số 410-TTP ngày 20-10-1954. Ban này sẽ
xét việc khen thưởng Huân chương cho cán bộ và nhân dân toàn quốc đã có công
trong 8 năm kháng chiến. Việc khen thưởng làm vào dịp 19-12 và sẽ phát vào
hai lần Tết Dương lịch và Tết Âm lịch sắp tới.
Sau khi giải phóng Ban
Thường trực Quốc hội có phái đại biểu Nguyễn Sơn Hà đi Khu III trực tiếp họp
với các giới công thương nghiệp.
IV-
TÌNH HÌNH CÁC ỦY VIÊN BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI
Sau khóa họp thứ 3, các
vị Uỷ viên lại phân tán theo công việc chính của mình; ông Cung đến tháng
3-1954 đi chữa bệnh đến tháng 10-1954 mới về như thế chỉ có cụ Tôn Đức Thắng
và ông Tôn Quang Phiệt thường xuyên ở Ban, cụ Tôn ở trụ sở Mặt trận. Hiện
nay về Hà Nội thì có mặt đông đủ, trừ cụ Bùi Bằng Đoàn đang ở Thanh Hóa chưa
ra (đang cho người đi rước) và ông Hoàng
Văn Hoan ở Trung Quốc.
Vừa rồi ông Trần Huy Liệu được Hội Việt - Xô hữu nghị cử đi Liên Xô đáp lời
mời của Hội Văn hóa đối ngoại Liên Xô và bà Thục Viên được Hội Liên
hiệp Phụ nữ cử đi dự Lễ quốc khánh ở Trung Quốc và ông Nguyễn Đình Thi sẽ đi
Liên Xô dự Hội nghị các nhà văn và ở lại Liên Xô một thời gian để giúp các
đồng chí điện ảnh Liên Xô hoàn thành cuốn phim về Việt Nam.
Cụ Phạm Bá Trực tạ thế -
cụ Phạm tạ thế tại huyện Đại Từ ngày 5-10-1954, khi Chính phủ đã về Sơn Tây,
chỉ Ban Thường trực Quốc hội và Mặt trận còn ở lại Đại Từ. Việc yên táng đã
được cử hành trọng thể ngày 7-10-1954 tại nhà thờ An Huy, Đại Từ, Thái
Nguyên do Ban Thường trực Quốc hội và Mặt trận tổ chức; có ba bài điếu văn:
Điếu văn của Hồ Chủ tịch do ông Phan Anh đọc; Ban Thường trực Quốc hội do cụ
Tôn Đức Thắng đọc và điếu văn
của Linh mục Vũ Xuân Kỷ.
Đến dự lễ có các ông Bộ trưởng (Phan Anh, Vũ Đình Tụng) các vị trong
Ban Thường trực Quốc hội (cụ Tôn Đức Thắng, ông Tôn Quang Phiệt, ông Dương
Đức Hiền) các vị trong Mặt trận Liên Việt toàn quốc (cụ Vũ Xuân Kỷ, ông
Dương Bạch Mai, ông Lê Thành Lập). Đồng bào lương và giáo, nhất là giáo đến
dự lễ độ 2.000 người.
Và sau Hội nghị Giơnevơ,
cụ Trực đã có các bài kêu gọi đồng bào công giáo vạch mặt bọn Ngô Đình Diệm.
Các bài ấy rất có ảnh hưởng trong nhân dân. Ban đã tiếp được hàng chục bức
điện văn và thơ gửi về hưởng ứng các lời kêu gọi đoàn kết, chống âm mưu chia
rẽ của địch; đồng bào bị địch lừa bịp di cư cũng đã gửi đơn cho cụ Phạm yêu
cầu can thiệp đòi: chồng, con, anh em họ trở về quê hương.
Bọn địch xuyên tạc về cụ
Phạm cũng nhiều mà nhiều chỗ đồng bào công giáo mắc lừa, cho cụ Trực là tự
ta giả tạo ra. Khi cụ mất, có báo Pháp lại xuyên tạc cho là Việt Minh đã thủ
tiêu cụ Trực đi.
Ngày 20-11-1954 Ban
Thường trực Quốc hội và Uỷ ban Liên Việt toàn quốc đã tổ chức lễ cầu hồn cho
cụ Trực ở Nhà thờ lớn, có cụ Bộ trưởng Nội vụ thay mặt Chính phủ và các vị
Bộ trưởng khác đến dự lễ. Ban Thường trực Quốc hội và Uỷ ban Liên Việt toàn
quốc cũng có các ủy viên đi lễ, các đại biểu Quốc hội ở Thủ đô, các cơ quan
Chính quyền đoàn thể ở Thủ đô đều có các vị cao cấp đến dự lễ. Đồng bào cả
lương cả giáo đến dự lễ có đến ngót 4.000 người. Ảnh hưởng trong đồng bào
công giáo rất tốt; và một số đồng bào công giáo có ý trách các Giám mục,
Linh mục tại nhà thờ chưa tổ chức buổi lễ cho xứng với tầm quan trọng của
nó.
Cụ Bùi Bằng Đoàn - Hiện
đang dưỡng bệnh ở Thanh Hóa, Ban Thường trực Quốc hội đã viết thư và Chính
phủ đã phái người vào để rước ra.
Ông Y Ngông - Từ khóa
họp thứ 3, theo đề nghị của các anh em Liên khu V, Ban Thường trực Quốc hội
đã đồng ý cho ông về trong kia công tác. Sau đó vì công việc quân y anh
Ngông ở lại đến tháng 7 mới về cơ quan thì vừa Hội nghị Giơnevơ thành công
vì thế anh Ngông lại ở lại. Mấy lần Ban đã phái anh vào Liên khu IV (Sầm Sơn
và Cửa Hội) trong một thời gian để đón tiếp đồng bào miền Nam ra.
V-
TÌNH HÌNH CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Các đại biểu
miền Nam - Chủ trương của ta là mời các đại biểu Quốc hội miền Nam ra vùng
tự do, trừ một vài trường hợp đặt biệt do địa phương xét cần giữ lại một số
nào để có lợi cho công tác ở vùng địch tạm chiếm không kể. Ban đã liên lạc
để nhờ mời các đại biểu Quốc hội miền Nam ra.
Các đại biểu Quốc hội đã ra một số, hiện nay chưa thống kê được. Trong số
ra đó cũng đã có đại biểu mà Ban đã liên lạc được như các ông Cao Triệu
Phát, Phạm Văn Bạch (Nam bộ), Nay Phin, Mang Thoang (Tây Nguyên), Đinh Văn
May (Sơn Hà - Quảng Ngãi).
Một vài đại
biểu Quốc hội có vấn đề:
1. Ma Văn Kính
đại biểu người Thổ
ở Tuyên Quang.
2. Nguyễn Đình
Pháp đại biểu Nghệ An.
3. Nguyễn Văn
Huệ đại biểu Thanh Hóa
4. Đinh Văn
May thiểu số Sơn Hà - Quảng Ngãi: hiện ở đây.
Một số đại
biểu vào vùng địch khi kháng chiến vẫn ở lại.
Dương Văn Du,
Đoàn Phú Tứ…
VI-
CÔNG TÁC NGOẠI GIAO CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI
1. Đánh điện mừng Quốc hội Trung Quốc và được giả lời cám ơn của Trưởng ban
Ban Thường trực Quốc hội Trung Quốc (9-1954).
2.
Đón tiếp Đại sứ Trung Quốc La Quý Ba tại Thái Nguyên ( ...1954).
3. Đón tiếp
Đại sứ Liên Xô Lavi Chef
(29-10-1954).
4. Dự các cuộc
chiêu đãi do Hồ Chủ tịch thết các Đại sứ Trung Quốc, Liên Xô, hoặc do các
Đại sứ thết vào các ngày Quốc khánh của các nước ấy.
5. Dự cuộc
chiêu đãi do Phó Thủ tướng lấy tư cách cá nhân tiếp chính khách Ấn Độ, trong
đó có một nghị sĩ.
6. Tiếp hai
nhà ngoại giao Nam Dương trao đổi ý kiến về Quốc hội Việt Nam và Quốc hội
Nam Dương.
VII-
TRƯỚC TÌNH HÌNH MỚI
Trong 8 năm
kháng chiến, Ban Thường trực Quốc hội đã tùy hoàn cảnh mà làm các nhiệm vụ
mà đại hội lần thứ 3 đã giao cho: góp ý kiến với Chính phủ, triệu tập Quốc
hội.
Từ năm 1950
trở đi, Ban cũng đã cố gắng họp mỗi năm được một lần; do hoàn cảnh giao
thông khó khăn, do mỗi người có một công việc chính cần thiết trong thời kỳ
kháng chiến nên không thể hội họp nhiều hơn được. Trong lúc đó, việc dự Hội
đồng Chính phủ do cụ quyền Trưởng Ban và cụ cố Phó Trưởng Ban đảm nhiệm.
Các Tiểu ban
Chính phủ, Nội chính, Kinh tế, Tài chính, Văn hóa Xã hội đặt ra từ tháng
9-1950 đại biểu Ban Thường trực Quốc hội đều có dự; nhưng các Uỷ viên Ban
Thường trực Quốc hội đi dự không được đều, vì các Uỷ viên ở Trụ sở ít mà đã
lại thỉnh thoảng đi công tác khác.
Việc làm quan
hệ nhất trong mấy năm qua là việc triệu tập khóa họp lần thứ 3 để thông qua
Luật cải cách ruộng đất của Chính phủ.
Trong thời kỳ
kháng chiến, gặp mọi điều khó khăn cho nên công việc của Ban như thế cũng
tương đối đầy đủ.
Hiện nay chúng
ta có những điều kiện khác:
- Hòa bình đã
lập lại; cơ quan đã công khai, sự giao thông không gặp khó khăn như trước,
việc bảo mật phòng gian vẫn phải để ý, nhưng nay dễ hơn trước nhiều.
- Các Ủy viên
tập trung ở Hà Nội nhiều, sự gặp nhau trao đổi ý kiến không khó khăn như
trước, việc liên lạc với Chính phủ, với các cơ quan, với nhân dân cũng có
điều kiện thuận tiện hơn.
- Nhân dân để ý đến Quốc
hội hơn và các vị đại biểu cũng có nhiều thuận tiện để liên lạc với Ban
Thường trực Quốc hội. Cho nên những cơ hội tiếp xúc với nhân dân sẽ dễ dàng
hơn trước.
Cũng do Hội nghị Giơnevơ
đem lại hòa bình mà chúng ta đứng trước một vài vấn đề đặc biệt khác nữa.
Từ vĩ tuyến 17 trở vào
quân đội đối phương chiếm đóng. Bù nhìn Ngô Đình Diệm lại là tay sai của đế
quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp đang cố ý phá hoại hòa bình.
Chính phủ Pháp bị bại mà
ký Hiệp định đình chiến với ta, nhưng kế đó Chính phủ Pháp lại ký kết vào tổ
chức khối xâm lược Đông Nam Á (SEATO) ở Mỹ cầm đầu; quân đội Liên hiệp Pháp
còn nhiều hành động vi phạm Hiệp định đình chiến, thái độ Pháp vẫn chưa thực
sự muốn hòa bình.
Các đại biểu Quốc hội
chúng ta một phần là đại biểu các khu vực tạm đóng ở dưới quyền thống trị
của đối phương; có vị đã ra tập kết, có vị còn ở trong đó.
Trong thời kỳ kháng
chiến, các đại biểu Quốc hội không phải đến liên lạc trước với Ban, nên Ban
không hiểu rõ được mỗi một đại biểu trong thời gian qua đã làm gì, có vấn đề
gì. Vả lại cũng có đại biểu ở lại trong vùng địch, có đại biểu ở vùng tự do
bỏ vào vùng địch...
Do Hiệp định Giơnevơ quy
định thì cuộc Tổng tuyển cử của ta sẽ cử hành tháng 7 năm 1956 nghĩa là còn
không đầy 2 năm nữa. Xét những sự việc đã xảy ra do đối phương gây nên,
chúng ta thấy việc thực hiện cho đúng Hiệp định đình chiến nói chung và việc
thực hiện Tổng tuyển cử nói riêng là một cuộc đấu tranh gay go gian khổ.
Những điều kiện đặc biệt
của giai đoạn này có cái thuận lợi cho ta, có cái khó khăn cho ta, do đó ta
phải nhận định cho rõ để có một thái độ và đặt một lề lối làm việc cho thích
hợp.
Phiên họp này là phiên
họp đầu tiên của Ban Thường trực Quốc hội từ khi về Hà Nội. Chúng tôi đã
trao đổi ý kiến với các Uỷ viên trước. Mong được nhiều ý kiến góp vào để xây
dựng một chương trình làm việc của Ban từ nay trở đi.