Hôm nay, một tuần lễ sau ngày Đoàn đại biểu Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn ký
với Đoàn đại biểu Chính phủ Pháp bản Hiệp định đình chiến ở ba nước Việt
Nam, Cao Miên1, Lào ở Hội
nghị Giơnevơ, chúng tôi xin cùng các vị phát biểu một vài nhận định.
Qua việc nghiên cứu các văn bản về Hội nghị Giơnevơ
chúng ta đều đã nhận thấy thắng lợi to lớn mà chúng ta đã thu được. Đây
tôi chỉ trình bày mấy điểm sau đây:
I- BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HOÀN TOÀN TÁN
THÀNH CHÍNH SÁCH HÒA BÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
Từ khi toàn quốc kháng chiến đến nay, mục đích của Chính phủ và nhân dân
ta bao giờ cũng mong muốn đi đến hòa bình để nhân dân được yên ổn lo
việc kiến thiết quốc gia. Nhưng hòa bình của chúng ta phải được thực
hiện trên nguyên tắc thống nhất độc lập và dân chủ. Chưa được thống
nhất, độc lập, dân chủ thì dầu hy sinh bao nhiêu nhân dân ta cũng sẵn
sàng theo lệnh Chính phủ mà kiên quyết kháng chiến. Trong 8, 9 năm kháng
chiến, nhân dân ta đã tỏ ra anh dũng bất khuất, làm cho cái mộng lập lại
nền đô hộ cũ của địch càng ngày càng bị tiêu tan.
Trong hội nghị giữa 4 cường quốc tại Berlin, đồng thời với vấn đề Triều
Tiên, vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương do Ngoại trưởng Liên Xô đề ra
được chấp nhận và Hội nghị Giơnevơ được triệu tập.
Chính phủ ta luôn luôn theo dõi tình hình thế giới, trong nước và đã kịp
thời vạch ra chủ trương đường lối đúng đắn, thích hợp với nguyện vọng
của nhân dân trong nước và phù hợp với phong trào bảo vệ hòa bình thế
giới.
Tôi đã thay mặt cho Ban Thường trực Quốc hội luôn luôn ở bên cạnh Chính
phủ tham gia vào các cuộc thảo luận trong Hội đồng Chính phủ để quyết
định chính sách ngoại giao của ta.
Từ khi vấn đề Hội nghị Giơnevơ đặt ra thì dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ
tịch, Chính phủ đã mở 4 cuộc hội nghị.
Dưới đây là những nét chính của các phiên họp Hội đồng Chính phủ:
1. Phiên họp Hội đồng Chính phủ thứ I ngày 13-3-1954:
Hội đồng nghe báo cáo về tình hình thế giới và việc Hội nghị Berlin
quyết định triệu tập Hội nghị Giơnevơ. Hội đồng nhận định đó là một
thắng lợi của phong trào hòa bình thế giới, thắng lợi của cuộc kháng
chiến Việt Nam và Cao Miên, Lào.
Hội đồng tán thành tham gia Hội nghị Giơnevơ, định rõ lập trường và
phương châm đấu tranh ngoại giao, cử đoàn đại biểu tham gia Hội nghị
Giơnevơ do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn.
2. Phiên họp Hội đồng Chính phủ thứ hai ngày 15-5-1954:
Hội đồng Chính phủ họp để nhận định tình hình Hội nghị Giơnevơ, nhận xét
âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp phá hoại Hội nghị và thất
bại của chúng. Hội nghị nhận thấy nội bộ đế quốc mâu thuẫn, đồng thời
xác nhận thắng lợi của ta ở Hội nghị Giơnevơ; lập trường và đề nghị của
Đoàn đại biểu ta được hai Đoàn đại biểu Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ,
được nhân dân thế giới và nhân dân Pháp ủng hộ.
Hội đồng nhận rằng thắng lợi Điện Biên Phủ đã ảnh hưởng lớn đến Hội nghị
Giơnevơ.
Hội đồng đã thảo luận kỹ về 8 điều đề nghị của Đoàn đại biểu ta và nhất
trí tán thành chủ trương của Đoàn đại biểu ta.
3. Phiên họp Hội đồng Chính phủ thứ 3 ngày...
1 tháng 7-1954:
Hội đồng Chính phủ đã họp để nhận định về tình hình tiến triển của Hội
nghị Giơnevơ, nhận định về hai phe chủ hòa và chủ chiến trong hàng ngũ
đế quốc, quyết định đường lối tranh thủ hòa bình, phân hóa hàng ngũ đế
quốc và bè lũ tay sai của chúng, chĩa mũi nhọn vào đế quốc Mỹ, hiếu
chiến Pháp và bè lũ tay sai của chúng.
Hội nghị
đã xét những hình thức tập kết quân đội hai bên sau khi ngừng bắn, và
tán thành điều chỉnh khu vực; quân đội hai bên tạm đóng ở hai vùng dứt
khoát theo sự quy định của hai bên.
Hội nghị
đã tán thành các nhiệm vụ và công tác thích hợp với tình hình mới do Hồ
Chủ tịch đề ra.
4. Phiên họp Hội đồng Chính phủ thứ 4 vào ngày
22-7-1954:
Hiệp định đình chiến đã ký ngày 21-7-1954.
Hội nghị đã thảo luận các văn kiện của Hội nghị
Giơnevơ về Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Cao Miên, Lào, xác nhận đó
là một thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam, Cao Miên, Lào, của hòa bình
thế giới.
Hội nghị đã nghe hiệu triệu của Hồ Chủ tịch nhân dịp
ký kết Hiệp định đình chiến.
Nhận thấy rằng đường lối của Chính phủ do Hồ Chủ tịch
vạch ra rất sát với tình hình thế giới và trong nước, tôi đã thay mặt
Ban Thường trực Quốc hội tán thành chính sách hòa bình của Chính phủ và
nhận đó là một thắng lợi lớn của nhân dân ta.
Xem thế cũng như trong các cuộc Hội nghị liên tịch
giữa Ban Thường trực Quốc hội và Uỷ ban Liên Việt toàn quốc hồi tháng
3-1953 để thảo luận và thông qua dự án phóng tay phát động quần chúng
triệt để giảm tô thực hiện giảm tức và khóa họp thứ ba của Quốc hội để
thông qua Luật cải cách ruộng đất của Chính phủ, sự nhất trí giữa Chính
phủ và Quốc hội đã được thực hiện rõ rệt, đó là điểm mấu chốt của sức
mạnh chính quyền ta.
II- HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN MÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU TA ĐÃ KÝ
VỚI ĐOÀN ĐẠI BIỂU PHÁP Ở HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ LÀ MỘT THẮNG LỢI LỚN
Vì cuộc kháng chiến của ta là kháng chiến tự vệ để
bảo vệ đất nước đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân, nên 8, 9 năm nay,
nhân dân ta đã đoàn kết chặt chẽ chịu đựng mọi gian khổ, anh dũng chiến
đấu theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, của Chính phủ mà góp sức người,
sức của không hạn chế vào công cuộc đánh giặc cứu nước. Lòng tin tưởng
sắt đá của nhân dân đối với đường lối chính sách của Chính phủ là một
nguyên nhân thắng lợi.
Vì cuộc chiến tranh của ta là chiến tranh chính nghĩa
chống với thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bè lũ tay sai của chúng để
giành thống nhất, độc lập, dân chủ là những quyền lợi chính đáng, cho
nên ở Đông Dương thì nhân dân Cao Miên, Lào đứng dậy hưởng ứng chống kẻ
thù chung với ta, ở thế giới thì nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu
chuộng hòa bình, nhất là nhân dân Pháp nhiệt liệt ủng hộ ta. Ở Hội nghị
Giơnevơ hai Đoàn đại biểu Liên Xô, Trung Quốc tán thành lập trường của
ta và hết sức giúp đỡ ta. Vì thế mà tiếng nói của Đoàn đại biểu ta có
một sức mạnh làm cho phe hiếu chiến phải thất bại.
Sau 75 ngày đấu tranh kiên quyết và khôn khéo ở Hội
nghị Giơnevơ, Đoàn đại biểu ta đã ký với đoàn đại biểu Pháp bản Hiệp
định đình chiến ngày 21-7-1954.
Lời tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ đã nêu
mấy điểm chính như sau:
- Hội nghị thừa nhận độc lập và chủ quyền hoàn toàn
của Việt Nam, Cao Miên và Lào.
- Thừa nhận việc giải quyết các vấn đề chính trị ở
Việt Nam trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc độc lập, thống nhất và sự
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tổng tuyển cử ở Việt Nam sẽ tiến hành
trong tháng 7-1956.
- Quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc sẽ phải
rút khỏi Việt Nam, Cao Miên và Lào do sự thỏa thuận của các bên.
- Sau khi đình chiến không được đưa quân đội, nhân
viên quân sự ngoại quốc và mọi thứ vũ khí của nước ngoài vào.
- Sau khi đình chiến các nước Việt Nam, Cao Miên và
Lào không được để cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự.
………………….
……………….....
Để thực hiện ngừng bắn hai bên đã cùng nhau thỏa
thuận điều chỉnh khu vực trú quân, Pháp sẽ tạm đóng quân ở miền Nam, từ
Cửa Tùng trở vào. Đó là một việc điều chỉnh tạm thời không có nghĩa là
chia cắt đất nước, là phân trị.
Nguyện vọng của nhân dân ta và chủ trương của Chính
phủ ta bao giờ cũng là tranh thủ hòa bình với nguyên tắc là thống nhất,
độc lập và dân chủ. Trước đây, để được hòa bình, Chính phủ ta đã ký với
Pháp hai bản hiệp định, tức là Hiệp định 6-3 và Tạm ước 14-9-1946. Vì
thực dân Pháp phản bội nên ta đã buộc phải đứng dậy chống giặc. Ta càng
đánh càng mạnh, làm cho hàng ngũ địch phân hóa. Chiến thắng Đông - Xuân
năm nay đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ làm cho phe chủ chiến ở
Pháp thất bại mà phe chủ hòa lên cầm quyền. Đoàn đại biểu ta đã tranh
thủ được cơ hội ấy mà đi đến Hiệp định đình chiến.
Một thắng lợi chính trị to lớn là bọn đế quốc hiếu
chiến bị cô lập không phá hoại được Hội nghị Giơnevơ, bọn bù nhìn làm
tay sai cho phe hiếu chiến đã hoang mang trước việc ký kết này.
Từ rày ta có một địa bàn tự do rộng lớn gồm có hơn 13
triệu dân, có những cánh đồng ruộng phì nhiêu mênh mông, những miền rừng
núi nhiều lâm thổ sản, hầm mỏ, những thành thị to lớn, trung tâm điểm
của mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, những hải cảng, những
đường giao thông thuận tiện, địa bàn ấy dính liền với khối hòa bình dân
chủ với một dân số hơn 900 triệu người.
Được hòa bình kiến thiết trong điều kiện ấy, nhân dân
ta sẽ phát triển nông nghiệp công thương nghiệp, học tập văn hóa, tăng
cường lực lượng quốc phòng. Chính sách ruộng đất đã bắt đầu từ 2 năm nay
sẽ được thuận lợi tiếp tục và hoàn thành.
Chúng ta sẽ củng cố thêm chính quyền nhân dân, nâng
cao trình độ giác ngộ của nhân dân, làm cho mọi người dân thực sự làm
chủ nhân ông của đất nước. Nhân dân sẽ thấy rõ chế độ của ta đem lại
quyền lợi thiết thực cho họ trái hẳn với thứ độc lập dân chủ giả hiệu,
thứ cải cách điền địa gian trá của đế quốc xâm lược và bọn bù nhìn tay
sai của chúng.
Đó tức là cơ sở vững chắc cho một quốc gia hoàn toàn
thống nhất, độc lập và dân chủ thực sự.
Được tin ký kết Hiệp định đình chiến
này, các Chính phủ trong khối xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân đã
đánh điện chúc mừng Chính phủ và nhân dân ta;
các nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới cũng đều hân hoan biểu đồng
tình với ta trong việc giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương. Cái thắng
lợi của ta cũng là cái thắng lợi của phe hòa bình, của nhân dân Pháp và
nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
Cố nhiên vì mục đích tranh thủ hòa bình, cô lập phe
hiếu chiến, nên chúng ta chưa có thể giải quyết triệt để ngay được mọi
vấn đề theo ý muốn của chúng ta, nhưng ta đã giành được những thắng lợi
căn bản bước đầu, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh lâu dài để đi
đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, thắng lợi của ta lại phù hợp với
nguyện vọng hòa bình của nhân dân toàn thế giới, chúng ta phải nhận rõ
thắng lợi ấy và biết lợi dụng thắng lợi ấy.
III- NHIỆM VỤ CHÚNG TA TRƯỚC TÌNH HÌNH MỚI
Trong 8, 9 năm kháng chiến, số đông các đại biểu
chúng ta đã tỏ ra xứng đáng là người thay mặt cho nhân dân. Trong bản
báo cáo ở khóa họp thứ 3 cuối năm 1953, chúng tôi đã có dịp trình bày
trước Quốc hội số đại biểu chúng ta tham gia các công tác trong chính
quyền, trong các đoàn thể nhân dân, trong bộ đội, trong các ngành chuyên
môn … Một số đã hy sinh hoặc bị địch tàn sát hoặc trong khi thi hành
nhiệm vụ.
Nói chung, các vị đại biểu chúng ta đã hết sức phục
vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Sau bản Hiệp định đình chiến này, cuộc
đấu tranh của chúng ta chuyển vào một giai đoạn khác.
Một số đại biểu hiện nay ở miền Nam trong vùng Pháp
tạm trú quân.
Tình hình mới, hoàn cảnh mới đặt cho ta nhiệm vụ mới.
Trong lúc kháng chiến thì khẩu hiệu của ta là "kháng chiến đến cùng".
Nay vì đã đình chiến nên khẩu hiểu của ta là "hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ". Trước kia ta đi con đường kháng chiến để đến thống nhất,
độc lập, dân chủ, nay ta đi con đường hòa bình cũng để đạt mục đích
thống nhất, độc lập, và dân chủ.
Tình hình mới phải có chủ trương mới để tranh lấy
thắng lợi mới.
Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là
cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp, có những điều kiện thuận
lợi, cũng có những khó khăn phức tạp. Chính phủ ta đã ký Hiệp định đình
chiến với Pháp, chúng ta là người trước nhất phải nắm vững chính sách,
triệt để và thẳng thắn thực hiện các điều khoản của bản hiệp định. Ta
phải làm cho toàn dân thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động và phải
luôn luôn tỉnh táo đề phòng với những âm mưu phá hoại Hiệp định.
Chúng ta chủ trương đi con đường hòa bình, nhưng lực
lượng gây chiến không phải đã dập tắt. Hơn nữa ngoài bọn hiếu chiến rõ
mặt thì bọn chủ trương hòa bình với ta chưa phải đã hết tham vọng thực
dân; cho nên quân ngoại quốc còn ở trên đất nước chúng ta thì cái nạn
ngoại xâm chưa phải đã hết. Nếu ta có đủ lực lượng về mọi mặt thì mới
ngăn ngừa được chiến tranh tái diễn; ta phải có đủ lực lượng ấy.
Ở vùng tự do, chúng ta phải tiếp tục việc cải cách
ruộng đất bồi dưỡng lực lượng cho nhân dân, giáo dục nhân dân.
Chính quyền ta phải được củng cố thực sự là chính
quyền của nhân dân, thì nhân dân mới tha thiết bảo vệ chính quyền ấy.
Sức người, sức của là do nhân dân mà ra, nhân dân giàu mạnh thì bảo vệ
được nước, mà lực lượng gây chiến không nảy lên được.
Ở vùng Pháp tạm trú quân, cuộc đấu tranh lại phức tạp
hơn; vì tạm thời chúng ta không có chính quyền và phải rút quân đội ở
vùng này.
Ta phải đấu tranh đòi tôn trọng Hiệp định, thi hành
đúng các điều khoản đã ký. Nhân dân phải được hưởng các quyền tự do dân
chủ. Phải làm cho nhân dân vùng ấy thấy rõ là lực lượng đấu tranh của họ
là động lực chính để mau đi đến thống nhất.
Nói tóm lại, mục đích của toàn thể nhân dân toàn quốc
là một, nhưng phương châm, phương pháp đấu tranh thì ở vùng tự do và
vùng Pháp tạm trú quân khác nhau.
Nhiệm vụ người thay mặt cho dân là phải tự mình nắm
vững chính sách, gần gũi nhân dân, hướng dẫn nhân dân đấu tranh cho đúng
đường lối của Chính phủ.
Về cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc thì bản Hiệp định
đình chiến đã quy định vào tháng 7 năm 1956, chúng ta phải tranh đấu cho
điều khoản ấy được thực hiện đúng kỳ hạn. Tổng tuyển cử tức là thực hiện
thống nhất.
Một điều chúng ta phải nhận rõ là Hiệp định đình
chiến là một thắng lợi lớn của ta, nhưng mưu mô phá hoại hòa bình đang
còn, cho nên, để thực hiện được bản Hiệp định ấy, cần phải đấu tranh bền
bỉ, khôn khéo. Chúng ta tôn trọng Hiệp định đình chiến và phải làm cho
Hiệp định đình chiến được tôn trọng trong vùng Pháp tạm trú quân.
Chúng ta đều nhận thấy rằng từ trước đến nay, chính
sách của Hồ Chủ tịch, Đảng Lao động và Chính phủ là đúng. Việc thực hiện
cho đúng chính sách ấy là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, nhất là của
những người nhân dân đã bầu ra thay mặt cho họ.
Nhiệm vụ ấy rất là vinh quang, chúng ta cần phải cố
gắng làm tròn.