I-
TÌNH HÌNH SINH HOẠT THƯỜNG KỲ CỦA BAN THƯỜNG TRỰC VÀ BAN THƯỜNG VỤ TRONG
NĂM VỪA QUA
Hội nghị Ban Thường
trực Quốc hội tháng 2-1950 quyết nghị cứ ba tháng họp một lần. Hội nghị
Ban Thường trực tháng 2-1951 sửa đổi lại 6 tháng một lần và trong khoảng
thời gian giữa hai phiên họp thì Ban Thường vụ do Ban Thường trực cử ra
thay mặt toàn thể Ban Thường trực để làm việc, ít nhất mỗi tháng họp một
lần.
Chúng ta đã không
thi hành đúng được. Từ tháng 9-1951, Cụ Quyền Trưởng ban đã có điện
triệu tập hội nghị. Nhưng sau cụ Quyền Trưởng ban và Cụ Phạm Bá Trực,
Phó Trưởng ban lại phụ trách công tác của Mặt trận đi Trung Quốc đến đầu
năm nay mới về cơ quan Thường trực. Và lúc ấy lại triệu tập hội nghị một
lần nữa. Chiến sự
xẩy ra ở Hòa Bình lại làm cho một số anh em ở Khu 4 không ra được, hoặc
ra chậm. Vì thế từ phiên họp trước đến nay đã một năm.
Trong
khoảng thời gian ấy Ban Thường vụ cũng không sinh hoạt đều được mỗi
tháng mỗi lần. Từ tháng 2 đến tháng 7 thì thường ở trụ sở chỉ có 2 hay 3
người, khi có vị này thì lại thiếu vị khác, không đủ để họp. Còn từ
tháng 8-1951 đến tháng 2-1952 này thì Ban Thường vụ chỉ còn một mình tôi
thường xuyên ở cơ quan. Cụ Tôn và cụ Phạm đi Trung Quốc, ông Tôn Quang
Phiệt sau lúc đi phái đoàn nông nghiệp ở Khu 4 đã xong, lên đường ra thì
vì chiến sự Hòa Bình phải chậm lại và ông Trần Huy Liệu cũng đi phái
đoàn nông nghiệp ở Liên khu Việt Bắc.
II- CÔNG TÁC ĐÃ LÀM TỪ THÁNG 2-1951 ĐẾN THÁNG 2-1952
Hội nghị
tháng 2-1950 và Hội nghị tháng 2-1951 đã đề ra những công tác cụ thể cho
Ban Thường trực Quốc hội.
a) Hiệu
triệu quốc dân:
- Trong năm vừa qua,
Ban Thường trực Quốc hội đã kêu gọi quốc dân phá chính sách thâm độc của
địch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”
và động viên quốc dân thực hiện những chính sách lớn của Chính phủ.
Ngoài những bài hiệu triệu đăng trên các báo, đã cử hai vị trong Ban
Thường trực: Tôn Quang Phiệt và Trần Huy Liệu tham gia hai phái đoàn
Chính phủ đi giải thích về thuế nông nghiệp ở Liên khu Việt Bắc và Liên
khu 4.
Căn cứ vào những kết
quả thu được của các phái đoàn và lòng tin tưởng của nhân dân đối với cơ
quan dân cử (Quốc hội) phát lộ trong những bức điện văn chúc tụng hoặc
trong những lá đơn nhờ giải quyết các vấn đề ở các nơi gửi đến, Ban
Thường trực Quốc hội nên tăng cường thêm sự hoạt động của Ban về phương
diện này để thu được những kết quả tốt đẹp hơn, nhất là trong lúc thực
dân Pháp đang âm mưu lập Quốc hội bù nhìn (đại diện do Pháp chỉ định) để
lừa dối nhân dân.
b) Liên
lạc với các đại biểu
Ban Thường trực Quốc
hội nhận được rất ít thư từ của các đại biểu Quốc hội. Một số nhờ các
đại biểu có báo cáo tình hình địa phương. Phòng Liên lạc các đại biểu
Quốc hội ở Liên khu 3 trước kia thường cho biết về hoạt động của các đại
biểu Quốc hội cũng như tình hình của nhân dân, nhưng từ khi chiến sự
tràn lan ở Liên khu 3, một số đại biểu tản cư vào Khu 4, còn những vị
khác thì bận nhiều về công tác chính quyền và đoàn thể nhân dân, nên sự
gặp gỡ của các đại biểu ở Khu 3 để trao đổi ý kiến không được đều như
trước.
Riêng về Ban Liên
lạc các đại biểu Quốc hội ở Khu 5 thì hoạt động hơn. Những đề nghị về tu
chỉnh Hiến pháp của các đại biểu thu thập trong những cuộc họp đều có
gửi ra cho Ban Thường trực Quốc hội.
Tháng 8-1951, phòng
Liên lạc Khu 5 có tổ chức cuộc Hội nghị các đại biểu Quốc hội công tác
tại miền Nam Trung bộ, mục đích để báo cáo và kiểm thảo công tác của
phòng Liên lạc và của các đại biểu Quốc hội; ấn định kế hoạch bổ cứu lề
lối tổ chức và công tác của đoàn đại biểu Quốc hội Khu 5; thảo luận về
việc tu chỉnh Hiến pháp.
Chính ở Khu 4 là nơi
không có phòng Liên lạc các đại biểu Quốc hội, báo chí thường lại đăng
tin những hoạt động của phòng Liên lạc đại biểu Quốc hội Khu 5.
Trong phạm vi có thể
được, nếu Ban Thường trực Quốc hội tăng thêm sự liên lạc và trao đổi ý
kiến với các đại biểu cũng như đối với các phòng Liên lạc, thì chắc chắn
sẽ thu được nhiều ý kiến hay, và sẽ hiểu rõ nhân dân hơn. Nhưng với điều
kiện sinh hoạt của Ban trong năm vừa qua thì vấn đề này không thể thực
hành được mấy.
Năm vừa qua, mấy đại
biểu đã từ bỏ hàng ngũ kháng chiến, vào vùng địch chiếm. Tổng cộng tất
cả từ trước đến nay là 61 trong số đó có ông Dương Văn Dư là đại biểu
Đồng minh Hội trong Ban Thường trực Quốc hội.
Trong hàng ngũ kháng
chiến, vì giặc giết hoặc vì bệnh do những sự gian khổ chịu đựng trong
công tác phục vụ quốc dân, số đại biểu đã mệnh một cũng tăng lên.
c) Tham
gia ý kiến với Chính phủ:
Từ sau phiên họp
Thường trực tháng 2 đến tháng 8-1951, cụ Tôn, Quyền Trưởng ban và cụ Phó
Trưởng Ban Phạm Bá Trực đã tham dự các phiên họp Hội đồng Chính phủ.
Nhưng từ tháng 9 đến trung tuần tháng chạp, hai cụ vắng và chỉ đến cuối
tháng 12 hai cụ về mới tham dự Hội đồng Chính phủ được.
Để vị đại diện Ban
Thường trực Quốc hội tham gia những phiên họp Hội đồng Chính phủ làm
việc có nhiều kết quả hơn, phiên họp Ban Thường trực Quốc hội tháng
2-1951 có quyết nghị trước khi đi dự Hội đồng Chính phủ, cần họp những
ủy viên Thường vụ có mặt ở trụ sở để thảo luận và lấy ý kiến chung. Việc
này trong năm vừa qua không thực hiện được, cũng như việc báo cáo để anh
em rõ tình hình sau lúc đi họp về. Sự thiếu sót này trong lề lối làm
việc có thể vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, nhưng lý do chính là
số ủy viên ở trụ sở thường rất ít , 1 cho đến 2 người là cùng như trên
đã báo cáo.
Tiểu ban
Chính phủ:
Phiên họp Ban Thường trực tháng 2-1951 quyết nghị không cần tham gia các
tiểu ban của Chính phủ, nhưng trong quá trình làm việc, chúng tôi nhận
thấy tất thẩy những chủ trương, chính sách của Chính phủ về Kinh tế Tài
chính, Nội chính, Văn hóa Xã hội, đều được dự thảo trong các tiểu ban,
trước khi đưa ra Hội đồng Chính phủ và kế hoạch của những chủ trương và
chính sách mà Chính phủ đã thông qua thì được quy định trong các tiểu
ban ấy. Vì nhận thấy sự có mặt của đại diện Ban Thường trực Quốc hội
trong các tiểu ban để góp ý kiến vào việc xây dựng các chính sách, chủ
trương và kế hoạch để thi hành trong toàn quốc rất là phù hợp với nhiệm
vụ của Quốc hội đã giao cho Ban Thường trực, nên trong lúc vì hoàn cảnh
chưa triệu tập được phiên họp Ban Thường trực đúng kỳ hạn để xét lại
nghị quyết trên, chúng tôi đã có tham gia mấy phiên họp các tiểu ban của
Chính phủ. Trong phiên họp Ban Thường trực lần này, chúng tôi xin đề
nghị các vị xét lại vấn đề này.
d) Tu
chỉnh Hiến pháp
Căn cứ theo quyết
nghị tháng 2-1951, Ban Thường vụ đã tiến hành việc nghiên cứu và dự thảo
những điều bổ sung vào bản Hiến pháp để sau này trình Quốc hội.
Phương pháp đã quy
định là trước hết viết thư hỏi ý kiến các đại biểu Quốc hội. Việc này đã
làm, và kết quả thì một số đại biểu đều trả lời hoan nghênh, nhưng những
vị đại biểu ấy cũng không góp được ý kiến cụ thể gì mấy về các khoản cần
sửa chữa hay bổ sung, trừ các đại biểu Khu 5 thì đã họp bàn về vấn đề
này. Phòng Liên lạc Khu 5 có gửi ra nhiều ý kiến cụ thể góp vào việc bổ
sung. Các đại biểu Khu 5 có ý định tranh biện trên các báo và trong các
cuộc hội họp nhân dân trong toàn Khu, và đang cho ý kiến của Ban Thường
trực cho biết việc ấy đã nên làm chưa. Hiện nay chưa rõ việc ấy ở Khu 5
đã đi đến đâu, nhưng chắc đã tiến nhiều hơn nữa.
Còn về việc trưng
cầu ý kiến của nhân dân bằng cách đăng những câu hỏi trên các báo thì
Ban Thường vụ chưa làm được, lý do như các vị đã biết là bận công tác
khác, các ủy viên Thường vụ không sinh hoạt thường kỳ để phụ trách toàn
diện các vấn đề được.
e) Dự thảo
luật
Phiên họp tháng
2-1951 đã ủy cho cụ Tôn Đức Thắng xúc tiến công việc thảo những nguyên
tắc lập luật trong thời gian rất ngắn để trình Ban Thường vụ để Ban
Thường vụ quyết định phương pháp làm việc.
Nhưng vì bận nhiều
việc nên đến tháng 6-1951 cụ chưa thảo xong.
Cần phải nói về vấn
đề dự thảo luật; trong khoảng thời gian ấy, nhiều nhà chính trị và
chuyên môn có ý kiến là thảo một bộ luật là một công trình vĩ đại, cần
có thời gian dài mới làm xong được. Nếu thảo những nguyên tắc chung toàn
cả bộ luật thì khi làm xong luật, luật và nguyên tắc chung cũng sẽ không
hợp với trình độ dân đã tiến lên rất nhiều. Vì thế làm luật nên làm từng
bộ phận để kịp thời đưa thi hành cho hợp với bước tiến nhân dân. Sau này
nhiều bộ phận hoàn thành sẽ góp lại thành bộ luật, và cố nhiên, các bộ
phận sẽ tùy hoàn cảnh xã hội, từng giai đoạn phát triển mà thay đổi.
Vì vậy, dưới sự lãnh
đạo của cụ Tôn, tôi cùng với một số anh em chuyên môn có trao đổi ý kiến
và dự thảo một bản Luật gia đình. Trong lúc Ban ta chưa họp được, bản dự
thảo đã được gửi cho một số nhân vật chính trị. Công việc đến đây, cụ
Tôn phải đi Trung Quốc, và sự liên lạc giữa các nhà chuyên môn và tôi
cũng chưa thành một tổ chức hẳn hoi, nên không tiến hành thêm được.
Nhưng nói đến vấn đề
luật, dự thảo luật, tôi cần nhắc lại rằng chương trình của Chính phủ
trong năm 1952 là làm xong Luật trừng trị Việt gian và Luật gia đình, và
công việc ấy lẽ tất nhiên Bộ Tư pháp sẽ dự thảo rồi đem ra thảo luận
trong Ban Nội chính Chính phủ và sau sẽ trình Hội đồng Chính phủ duyệt
để thi hành.
Do đó, việc Ban
Thường trực góp phần vào việc dự thảo luật sẽ dưới một hình thức khác
với quyết nghị tháng 2-1951.
f) Linh
tinh
Sưu tầm
tài liệu: Phiên họp tháng 2-1951 cũng có nhắc đến việc sưu tầm tài liệu
để viết một văn kiện đầy đủ về Quốc hội Việt Nam. Việc này cũng chưa
tiến hành được bước nào. Tài liệu hiện có rất nghèo nàn, và các vị ngoại
giao trước khi đi sang nước ngoài có đến hỏi nhưng Ban Thường trực cũng
không cung cấp được mấy.
Việc liên
lạc quốc tế:
Đến nay
chưa có dịp nào có đại diện Ban Thường trực Quốc hội ra ngoài để tiếp
xúc với các cơ quan đại biểu nhân dân nước ngoài. Tuy nhiên năm vừa qua
4 vị trong Ban Thường trực là cụ Tôn, cụ Phạm, bà Nguyễn Thị Thục Viên,
ông Nguyễn Đình Thi hoặc sang Đông Đức, hoặc sang Trung Quốc nhưng đều
để phụ trách những nhiệm vụ khác.
Việc trao
đổi thư từ, diễn văn với ngoài, Thủ tướng phủ cũng đã có quy định. Về
phần Ban Thường trực Quốc hội, sự trao đổi với nước ngoài sẽ rất ít.
Tóm lại,
kiểm điểm những sự hoạt động của Ban Thường trực trong thời gian một năm
vừa qua, thấy rằng mỗi một công tác cụ thể quy định trong hai phiên họp
tháng 2-1950 và 2-1951, chúng ta đều không làm được đầy đủ. Lý do về chủ
quan cũng như về khách quan rất nhiều, nhưng lý do chính, mà trong
trường hợp nào cũng thấy, là thiếu người, Ban Thường trực không họp được
đúng kỳ hạn, vì thiếu người; Thường vụ không sinh hoạt đều vì thiếu
người; tu chỉnh Hiến pháp không tiến hành được vì thiếu người; dự thảo
luật không làm xong được vì thiếu người; Hội đồng Chính phủ không tham
gia đầy đủ và trước khi đi họp không lấy ý kiến tập thể được vì thiếu
người; sưu tầm tài liệu về Quốc hội chưa bắt đầu làm được vì thiếu
người. Vì vậy nên giải quyết vấn đề sao năm nay cho có người để phụ
trách mọi công việc thường cũng như bất thường. Giải quyết vấn đề sao để
mỗi ủy viên Thường trực đều góp phần vào công việc của Ban, lúc nhiều,
lúc ít tùy sự phát triển của công việc từng thời gian, đó là vấn đề mấu
chốt quyết định.
Dưới sự
lãnh đạo của cụ Tôn, Ban chúng ta sẽ quyết định công tác tiến hành để
sau này thực hiện đầy đủ quyết nghị. Ban cần giải quyết vấn đề này.
Thưa các cụ, các anh chị em,
Trên kia tôi báo cáo
đại cương về công tác Ban Thường trực.
Sau đây, tôi xin báo
cáo công việc Văn phòng mà trong thời gian vừa qua Ban giao cho tôi phụ
trách, vì bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng đi nhận công tác khác. Tổng số nhân
viên 4 thư ký văn phòng và 8 công nhân và tá sự. Trong số ấy, 1 tá sự
giúp cụ Bùi ở Khu 4. Vừa đây một thư ký lại thôi việc vì thiếu sức khỏe.
Tinh thần anh em làm
việc nói chung rất cố gắng, trình độ chuyên môn cũng như sự hiểu biết về
chính trị tiến bộ nhiều. Nhưng vì số thư ký bớt đi mà công việc tăng
thêm do nhiều thể lệ mới về kế toán, về bảo vệ cơ quan, mỗi một thư ký
phải nhận vài ba việc. Nên gặp lúc có công việc đặc biệt thì anh em làm
không kịp thời, và nhiều cuộc hội nghị, hoặc lớp học anh em cũng không
tham gia được như anh em các cơ quan khác.
Về tài chính, đủ chi
vì ít, tài khóa năm 1951 là 66 tấn thóc thì thực chi đã hết 52.516 kg
(chưa chính thức vì còn Uỷ ban Thanh Hóa cho biết vài khoản).
Dự chi tài khóa 1952
là 100 tấn thóc. Sở dĩ có sự tăng thêm này là vì lương (căn bản tối
thiểu) từ 1-1952 nhiều hơn trước, và các vật liệu dự chi và văn phòng,
giá cao hơn trước, chi phí về bưu điện, về làm nhà cửa cũng kê vào trong
dự chi.
Vì vậy sẽ tùy theo
công việc năm nay, việc bổ sung nhân viên văn phòng cũng cần phải giải
quyết.
|
TM. BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI
UỶ VIÊN TỔNG THƯ KÝ
TRẦN VĂN CUNG |