Thưa các Cụ,
Thưa các Ngài,
Bản báo cáo
của tôi nói về hoạt động của Quốc hội và Ban Thường trực, từ ngày toàn quốc
kháng chiến.
I. CÁC
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
Khóa họp thứ
hai của Quốc hội vừa bế mạc được mười ngày, bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta đang được nhân dân rầm rộ chào đón vui mừng từ Nam chí Bắc, thì quân Pháp
gây việc khiêu khích và phản bội Hải Phòng, Lạng Sơn rồi hơn một tháng sau
tiếng súng nổ ở Hà Nội và khắp trong nước. Quốc hội cùng với Chính phủ do Hồ
Chủ tịch lãnh đạo bước vào kháng chiến.
Các vị đại
biểu trong Quốc hội ta đã lập tức mỗi người một nơi, mỗi người trong phạm vi
của mình, đem hết tài sức phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc. Ngay từ
trước đêm 19 tháng Chạp, giữa lúc xe thiết giáp và lính mũ đỏ hung hăng đi
ăn cướp và bắn phá trong các phố Thủ đô, giữa lúc đồng bào tấp nập tản cư và
đắp ụ đất ở các đường, thì ông Lê Đông, đại biểu Phú Thọ đã từ trần vì một
nhiệm vụ quân sự trong khi lo công việc chuẩn bị đối phó với mưu mô chiến
tranh của bọn thực dân. Ông bỏ mình xa mọi người thân thích, lúc ấy đám tang
ông đã do Ban Thường trực ta lo liệu, chắc các cụ, các ngài còn nhớ.
Hôm nay, ngay
trong Ban Thường trực chúng ta, vắng mặt hai vị ủy viên chính thức: Bác sĩ
Nguyễn Văn Luyện ở lại Hà Nội tác chiến bị giặc Pháp giết và ông Hoàng Minh
Châu, từ trần trong khi công tác ở Nam bộ. Hai vị đại biểu, một là trí thức
bất khuất và một là chiến sĩ tận tụy cùng chung một lòng hy sinh vì dân tộc.
Chúng ta nhớ đến cụ Nguyễn Văn Tố, nhà học giả kính mến, Trưởng Ban Thường
trực đầu tiên của Quốc hội ta, bị giặc Pháp sát hại trong thu đông Việt Bắc
1947. Chúng ta nhớ đến vị đại biểu lão thành, cụ Lê Thế Hiếu và những vị trẻ
tuổi, luật sư Thái Văn Lung, các ông Nguyễn Hữu Nghị, Nguyễn Văn Tiết,
Nguyễn Viết Quynh, Trần Kim Xuyến v.v. tóc bạc hay thanh niên, những vị ấy
đều đã chết một cách anh dũng để đền ơn nước. Chúng ta nhớ đến những vị đại
biểu từ trần trong khi làm nhiệm vụ, ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), ông Huỳnh
Ngọc Huệ, ông Hoàng Hùng Sơn... Các vị đại biểu ấy đều xứng đáng với Quốc
hội.
Đến đây, chúng
ta phải nhắc tới một số người, cũng mang tên đại biểu Quốc hội mà ở vùng
địch chiếm, làm tay sai cho giặc. Họ là một phần trong số 70 ghế đại biểu
Quốc dân đảng và Đồng minh hội mà Quốc hội công nhận trong khóa đầu. Hồi ấy,
muốn chứng tỏ đường lối đoàn kết rộng rãi của dân tộc, toàn Quốc hội đã vỗ
tay hoan nghênh những đại biểu đó cùng làm việc nước. Trong số 70 ghế, ngày
nay nhiều vị trung thành với kháng chiến, với quyền lợi nhân dân, đã đứng
chắc trong hàng ngũ dân tộc chống xâm lăng, Quốc hội hoan nghênh các vị đó.
Nhưng một số Việt gian đội lốt cách mạng hòng đục nước béo cò lúc bấy giờ
thì đến cuộc kháng chiến này, đã phơi bầy bộ mặt thực của chúng. Nhân dân đã
trừng trị chúng. Chúng ta vẫn rộng lòng mong những kẻ lầm đường biết hối
lỗi, song những tên phản dân, phản nước, thì Quốc hội cương quyết không tha
thứ. Về điểm này, Ban Thường trực ta cần nhận rõ sự cố gắng của Chính phủ để
tôn trọng quyền bất khả xâm phạm của người đại diện nhân dân. Trong tất cả
mọi trường hợp truy tố những tên phản quốc đội tên “đại biểu” ấy, Chính phủ
đều có sự đồng ý hoàn toàn của Ban Thường trực.
Nay chúng ta
hãy nhìn qua những hoạt động của các vị đại biểu trong kháng chiến. Vì liên
lạc khó khăn, những tin tức còn thiếu sót. Trong quân đội nhân dân, chủ lực
và địa phương, bộ đội chiến đấu và cơ quan quốc phòng theo chỗ chúng tôi
biết có 22 vị đại biểu nhân dân công tác, bắt đầu từ Đại tướng Tổng tư lệnh
Võ Nguyên Giáp, đại biểu tỉnh Nghệ An. Các vị đại biểu trong quân đội một
phần là quân nhân từ trước kháng chiến và một phần đã vào quân đội trong
kháng chiến. Các vị đó giữ những chức vụ chỉ huy bộ đội, từ tiểu đoàn, trung
đoàn, khu đến toàn quốc, hoặc lãnh đạo dân quân hoặc làm việc trong các
ngành quốc phòng.
Trong chính
quyền nhân dân ở các địa phương chúng ta gặp một số đông các vị đại biểu
Quốc hội. Ban Thường trực đã liên lạc với 62 vị, chủ tịch, phó chủ tịch, ủy
viên kháng chiến hành chính, hay hội viên hội đồng nhân dân, từ cấp huyện
đến tỉnh, khu. Suốt từ Nam ra Bắc, từ miền xuôi đến miền ngược, các vị đại
biểu ấy đã trực tiếp gánh vác công việc kháng chiến của nhân dân, dưới sự
lãnh đạo tối cao của Hồ Chủ tịch. Nhờ sự gánh vác trực tiếp của những vị đại
biểu có uy tín và năng lực, chính quyền nhân dân đã thêm vững vàng và đã tổ
chức lãnh đạo cuộc kháng chiến ở khắp mọi nơi được nhiều thắng lợi như ngày
nay.
Số đông nhất
các vị đại biểu hơn 100 vị hoạt động trong
các đoàn thể nhân dân, các đoàn thể chính trị, tôn giáo, Liên Việt, Việt
Minh, Dân chủ, Xã hội, phụ nữ, thanh niên, nông dân, công nhân, không thiếu
những đoàn thể văn hóa, văn nghệ. Các vị đại biểu ấy, mỗi người trong đoàn
thể của mình, ra sức công tác, động viên tổ chức nhân dân kháng chiến. Uy
tín nhiều vị đã vang ra đến nước ngoài, như bà Lê Thị Xuyến, Hội trưởng hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ viên Hội đồng phụ nữ quốc tế, Uỷ viên trong
Ban Thường trực ta.
Sau hết, là
các đại biểu làm công tác chuyên môn các ngành 75 vị, và một số các đại biểu
công tác ở nước ngoài, trong những công việc ngoại giao như ông Trần Ngọc
Danh, Trần Văn Luân mà chúng ta đều được nghe tiếng và theo dõi.
Nhìn chung
lại, từ ngày đầu của cuộc kháng chiến khắp mọi địa phương, khắp mọi ngành
công tác kháng chiến ngay cả ở mặt trận, không nơi nào vắng mặt người đại
biểu nhân dân. Khác với các ông nghị ở chế độ tư bản, các đại biểu chúng ta
khi về họp Quốc hội thì thảo luận và quyết định công việc chung của quốc
gia, rồi sau khóa họp lại trở về công tác, chính tay mình làm những công
việc đã quyết định, đồng cam cộng khổ với nhân dân không lúc nào rời xa nhân
dân, làm một người cán bộ của nhân dân. Chúng tôi thiết tưởng chỉ có trong
các nước dân chủ nhân dân, dân chủ cách mạng như nước ta mới có điều ấy.
Quốc hội Việt Nam là một Quốc hội nhân dân vậy.
II.
BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
Thưa các Cụ,
Thưa các Ngài,
Trước khi sang
phần báo cáo về hoạt động của Ban Thường trực từ ngày kháng chiến, chúng tôi
xin phép toàn Ban tỏ lời hoan nghênh hai vị ủy viên chính thức mới hôm nay:
bà Nguyễn Thị Thục Viên và ông Trần Tấn Thọ.
Ông Trần Tấn
Thọ, Uỷ viên tiểu ban Hiến pháp của khóa họp I nay chính thức tham gia Ban
Thường trực, sẽ đem tới cho Ban ta nhiều sáng kiến và kinh nghiệm của mấy
năm hoạt động vừa qua của ông ở Liên khu IV. Và giữa lúc cuộc kháng chiến
tiến mạnh đến tổng phản công, toàn dân luôn luôn nhắc nhở tới Thủ đô, thì bà
Thục Viên, đại biểu Thủ đô, Uỷ viên tiểu ban Hiến pháp của khóa I, nay chính
thức tham gia Ban Thường trực thật là có ý nghĩa. Hơn nữa, thêm một vị ủy
viên phụ nữ, Ban Thường trực ta có 2 vị ủy viên phụ nữ trong tổng số 15 ủy
viên. Đó là một điều đáng tự hào cho phụ nữ Việt Nam đồng thời chứng tỏ tính
chất tiến bộ của nền dân chủ chúng ta.
1.
Những sự thay đổi trong nội bộ Ban Thường trực và công tác các Ủy viên
thường trực
a) Thế chân
hai vị Ủy viên chính thức.
Như trên đã nói hai ông Nguyễn Văn Luyện và ông Hoàng Minh Châu từ trần,
trong Ban ta đã cử 2 vị ủy viên chính thức mới thế chân là bà Nguyễn Thị
Thục Viên và ông Trần Tấn Thọ
b) Cụ Phạm Bá
Trực làm Phó Trưởng Ban:
Hồi tháng 5
năm 1947, cụ Tôn Đức Thắng, Phó Trưởng Ban được Chính phủ mời sang quyền Bộ
trưởng Bộ Nội vụ. Toàn ban đã bỏ phiếu bằng cách gửi thư bầu cụ Phạm Bá Trực
làm Phó Trưởng Ban cùng cụ Bùi Bằng Đoàn điều khiển công việc.
c) Trường hợp
ông Cung Đình Quỳ:
Sau ngày tác
chiến Ban Thường trực mất liên lạc với ông Cung Đình Quỳ, đại biểu Quốc dân
đảng. Theo tin tức hiện thời, ông Cung Đình Quỳ ở trong vùng địch chiếm.
Muốn Ban Thường trực được đủ ủy viên làm việc, chúng tôi đề nghị trong phiên
họp này chúng ta cử người thay ông.
d) Công tác
các Ủy viên:
Sau những phái
đoàn động viên hồi cuối 1946 và đầu 1947 thì các vị ủy viên thường trực đều
đi công tác chuyên môn hoặc ở các địa phương. Điều khiển công việc của Ban
Thường trực có cụ Trưởng Ban Bùi Bằng Đoàn và hai cụ Phó Ban Tôn Đức Thắng,
Phạm Bá Trực. Riêng ông Tôn Quang Phiệt, Phó Trưởng Ban vì bận công tác
trong khu IV nên đã không đảm nhiệm được công việc hằng ngày của Ban Thường
trực, cũng như hai ông thư ký Nguyễn Đình Thi và Dương Đức Hiền. Tiểu ban
kiến nghị do ông Trần Huy Liệu làm Trưởng tiểu ban vẫn hoạt động đều.
Những vị ủy
viên ở gần cơ quan Ban Thường trực đều có liên lạc và khi cần thiết thì mở
những cuộc họp thu hẹp của Ban Thường trực như buổi họp ngày 24-9-1949 bàn
về vấn đề đón tiếp khách ngoại quốc. Nhưng toàn Ban Thường trực, vì chiến
sự, nay mới khai hội được.
e) Văn phòng:
Trong hoàn cảnh kháng chiến, văn phòng của Ban ta đã đơn giản hóa rất nhiều.
Nhưng năm nay, công việc phát triển chúng ta sẽ phải đặt vấn đề chấn chỉnh
văn phòng.
2. Ban
Thường trực với Chính phủ
Sau khi lập
xong Hiến pháp, đáng lẽ Quốc hội hết nhiệm kỳ và phải chuẩn bị để nhân dân
bầu nghị viện. Nhưng cuối năm 1946, giữa lúc khóa họp thứ hai của Quốc hội
đang tiến hành, tình hình giữa ta và Pháp trở nên gay go, việc bầu cử nghị
viện mới không thể thực hiện. Quốc hội đã nhận trước như vậy, nên bầu ra Ban
Thường trực với nhiệm vụ thay mặt Quốc hội ở bên cạnh Chính phủ để giúp ý
kiến và theo dõi công việc Chính phủ.
Ban Thường
trực sẽ triệu tập Quốc hội họp khi xét thấy cần thiết và khi Chính phủ hoặc
1/3 số đại biểu yêu cầu.
Tới ngày toàn
quốc kháng chiến, Ban Thường trực trong một cuộc họp tại Hà Đông, đã quyết
định cử cụ Trưởng Ban và một số ủy viên chịu trách nhiệm đại diện Ban Thường
trực để làm nhiệm vụ nói trên.
a) Tham gia
Hội đồng Chính phủ:
Cụ Trưởng Ban Bùi Bằng Đoàn, và về sau thêm hai cụ Phó Ban Tôn Đức Thắng và
Phạm Bá Trực đã luôn luôn ở bên cạnh Hồ Chủ tịch và tham dự các cuộc Hội
đồng Chính phủ để giúp đỡ ý kiến Chính phủ trong mọi công việc. Những ngày
giặc Pháp tấn công các cụ Trưởng và Phó Ban đã luôn luôn chân dậm đất lặn
suối trèo đèo nhiều khi sát ngay tiếng súng để cùng Chính phủ điều khiển
cuộc kháng chiến. Thật là một điều đặc biệt của Quốc hội Việt Nam.
Những công
việc của Chính phủ trong ba năm nay, lát nữa sẽ do ông Phó Thủ tướng trình
bày cùng Ban Thường trực.
b) Thông qua
các sắc lệnh quan trọng:
Trong khi Quốc
hội không họp được, Ban Thường trực đã giúp ý kiến Chính phủ trong việc thảo
những sắc lệnh quan trọng, trên cơ sở những nguyên tắc của Hiến pháp. Những
sắc lệnh lớn từ ngày kháng chiến đều được sự đồng ý của Ban Thường trực
trước khi cụ Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban bố. Đáng chú ý hơn
cả là sắc lệnh số 254 và 255 thành lập bộ máy chính quyền nhân dân trong
thời kỳ kháng chiến.
c) Làm trung
gian giữa nhân dân và Chính phủ:
Ban Thường
trực thu thập ý kiến và nguyện vọng của nhân dân chuyển sang Chính phủ. Khi
Chính phủ quyết định một việc hệ trọng, Ban Thường trực thay mặt nhân dân tỏ
thái độ và hiệu triệu nhân dân ra sức hưởng ứng công việc của Chính phủ.
3. Ban
Thường trực với nhân dân và quân đội
a) Hiệu triệu
nhân dân:
Trong 3 năm
kháng chiến tình hình quân sự và chính trị đã có nhiều thay đổi, Ban Thường
trực luôn luôn hiệu triệu quốc dân và tỏ rõ thái độ của nhân dân Việt Nam
trong mọi trường hợp: đối với bạn, đối với quân địch, đối với bọn bù nhìn
bán nước. Tiếng nói của Ban Thường trực, nhất là trong những giờ quan trọng,
đã đem lại cho toàn thể đồng bào mối tin tưởng thêm vững chắc vào cuộc kháng
chiến và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ban Thường trực đã luôn luôn
vạch rõ những hành động dã man và mưu mô hiểm độc của thực dân Pháp và phản
động quốc tế. Ban Thường trực đã vạch rõ bộ mặt phản dân phản nước của bọn
bù nhìn. Thay mặt Quốc hội hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam, Ban
Thường trực đoàn kết nhân dân toàn quốc chung quanh Chính phủ kháng chiến Hồ
Chí Minh.
b) Các giai đoạn Quốc hội:
Thời kỳ đầu kháng chiến, Ban Thường trực đã phối hợp với Chính phủ tổ chức
những phái đoàn Quốc hội và Chính phủ đi khắp trong nước để động viên nhân
dân kháng chiến, giải thích đường lối chính sách của nước nhà. Những phái
đoàn ấy đã hoạt động liên tiếp nhất là ở miền Bắc Việt Nam cho mãi đến giữa
năm 1947. Hầu hết các vị ủy viên trong Ban ta, cả hai cụ phó Ban đều đã tham
gia hoặc lãnh đạo những phái đoàn này.
c) Tiểu ban
kiến nghị:
Trong 3 năm nay, tiểu ban kiến nghị vẫn tiếp tục nhận những sáng kiến và đề
nghị về kháng chiến, kiến quốc của nhân dân gửi đến. Tiểu ban đã nghiên cứu
mọi đề nghị và chuyển sang các cơ quan phụ trách. Tiểu ban cũng nhận được
nhiều đơn từ có tính chất khiếu nại kêu oan. Những đơn từ ấy tuy không hợp
lệ nhưng cũng chứng tỏ lòng tin tưởng của quốc dân vào Ban Thường trực Quốc
hội. Ban Thường trực đã tùy từng trường hợp mà giải quyết.
d) Đỡ đầu bộ
đội:
Ban Thường
trực hiện nay nhận đỡ đầu một đơn vị trong quân đội là Trung đoàn 101. Ngoài
ra, Ban Thường trực đã có những giải thưởng tặng các đơn vị lập được chiến
công.
e) Uý lạo nhân
dân và bộ đội:
Ban Thường
trực đã luôn luôn úy lạo nhân dân và bộ đội. Đối với nhân dân bị giặc tàn
hại, Ban ta thường cử người đến tận nơi thăm hỏi. Trong nhiều chiến dịch,
các ủy viên thường trực đã tới tận mặt trận thăm hỏi bộ đội và dự những trận
đánh để khuyến khích các chiến sĩ (Kiến An, Sơn La, Đường số 4…).
f) Nhân dân
trong và ngoài nước đối với Ban Thường trực:
Ban ta đã nhận được hàng vạn diễn văn của đồng bào trong và ngoài nước gửi
tới tỏ lòng tin tưởng Quốc hội và tin tưởng Chính phủ. Tuy không trả lời
được hết nhưng những diễn văn ấy chứng tỏ sự đoàn kết của nhân dân chung
quanh Quốc hội đến mức nào.
4. Ban
Thường trực với các vị đại biểu Quốc hội
Trong khi Quốc
hội không họp, Ban Thường trực thay mặt Quốc hội để duy trì sự liên lạc giữa
các vị đại biểu. Về phương diện này, công việc của Ban Thường trực có hai
điểm sau đây:
a) Bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm của các đại biểu nhân dân:
Theo Hiến pháp
các đại biểu nhân dân được hưởng quyền bất khả xâm phạm trừ trường hợp phạm
pháp quả tang. Ban Thường trực là cơ quan bảo vệ quyền ấy. Nhưng khi cần
giam giữ hay truy tố một đại biểu phạm tội, Chính phủ đều phải cho Ban
Thường trực biết ngay và phải được sự đồng ý của Ban ta. Điều này đã thi
hành triệt để. Gặp trường hợp tội trạng đã rõ Ban Thường trực đã cho phép
các tòa án quân sự truy tố các đại biểu phạm tội.
b) Liên lạc
với các đại biểu:
Việc liên lạc
với các đại biểu trong hoàn cảnh kháng chiến không được chặt chẽ, nhưng Ban
Thường trực đã cố gắng cung cấp những tài liệu cần thiết cho các vị đại biểu
và theo dõi tin tức hoạt động của các đại biểu ở khắp nơi. Giữa năm 1948 và
đầu năm 1949, nhiều vị đại biểu ở các địa phương có sáng kiến muốn tổ chức
những buổi họp các đại biểu Quốc hội công tác ở cùng địa phương để nhận định
tình hình, trao đổi kinh nghiệm. Tiếc rằng chiến sự thường ngăn trở những
buổi họp như vậy. Trong năm tới chúng ta sẽ cố gắng bổ khuyết.
Các vị đại
biểu ở xa thường không quên liên lạc và thăm hỏi Ban Thường trực. Như gần
đây, ông Dương Bạch Mai, ngay khi thoát khỏi tay quân giặc đã đánh điện về
chào mừng Ban Thường trực. Nhờ sự liên lạc tương đối đều hòa đó gặp trường
hợp cần thiết, Ban ta có thể triệu tập Quốc hội bất thường khá nhanh chóng.
5. Ban
Thường trực với quốc tế
Đối với quốc
tế, Ban Thường trực luôn luôn thay mặt nhân dân Việt Nam tuyên bố rõ lập
trường của kháng chiến và kêu gọi sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình và
dân chủ. Đối với Quốc hội Pháp, Ban ta đã hai lần chính thức gửi điện để
phản đối những hành động phạm pháp của Chính phủ hoặc quân đội Pháp và kêu
gọi chấm dứt chiến tranh.
Hoàn cảnh
kháng chiến chưa cho phép Ban ta cử những phái đoàn ra ngoài để gây tình hữu
nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước. Gần đây quân ta thắng lợi,
những liên lạc giữa quốc tế và ta bắt đầu trở lại đều hòa, Ban Thường trực
đã tiếp khách ngoại quốc và chuẩn bị đặt những liên lạc, trao đổi với quốc
tế theo một quy mô lớn hơn.
Tóm tắt lại,
tuy không đủ toàn số ủy viên, tuy giảm bớt phương tiện, Ban Thường trực đã
luôn luôn hoạt động, trong 3 năm kháng chiến vừa qua và đã làm được những
nhiệm vụ chính do Quốc hội giao cho trước khi bế mạc kỳ họp thứ hai. Bộ máy
của Ban Thường trực trước đây phải đơn giản hóa hết sức để thích ứng với
hoàn cảnh gay gắt của cuộc chiến đấu. Trong hoàn cảnh mới của năm thứ tư
toàn quốc kháng chiến, công việc thêm nhiều và nặng nề. Ngày tổng phản công
đã gần, hoạt động của Ban Thường trực có tính chất chuẩn bị cho hoạt động
lớn lao của Quốc hội. Ban ta cần mở rộng công việc và kiện toàn nội bộ hơn
nữa, Tiếng nói của Ban Thường trực sẽ phải luôn luôn có mặt đối nội cũng như
đối ngoại.
III. HOẠT ĐỘNG CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI NĂM 1950
Năm 1950 sẽ là năm của những chuyển biến lớn lao, cũng là năm đại thắng lợi
như lời Hồ Chủ tịch đã nói. Ban Thường trực sẽ tùy tình hình chuyển biến mà
quyết định công việc cho kịp thời và xứng đáng với nhiệm vụ của mình đối với
quốc dân cũng như đối với quốc tế. Dưới đây, căn cứ vào sự nhận xét về tình
hình mới chúng tôi chỉ xin đề nghị hội nghị thảo luận mấy điểm chính đầu
tiên.
1.
Tiếp tục công tác mật thiết với Chính phủ và động viên nhân dân dốc toàn lực
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn
Đầu năm nay, Hồ Chủ tịch đã dạy: toàn dân nỗ lực thi đua ái quốc, năm 1950
sẽ là năm tổng phản công. Toàn lực của dân ta phải ném vào cuộc kháng chiến
vô cùng gay gắt sắp tới. Nhiệm vụ Ban Thường trực, trong công tác với Chính
phủ sẽ phải tăng thêm nhiều:
a) Ban Thường
trực luôn luôn ở bên cạnh Chính phủ để quy định và điều khiển cuộc tổng động
viên và tổng phản công;
b) Ban Thường
trực thông qua các sắc lệnh của Chính phủ. Về điểm này: năm nay chúng ta cần
tích cực hơn. Ban ta sẽ đề nghị với Chính phủ cố gắng chuyển sớm các dự án
sắc lệnh qua, để ta có thể nghiên cứu kỹ càng, và thăm hỏi được nhiều ý
kiến. Hồi còn ở Hà Nội, chúng ta có riêng một tiểu ban pháp chính để làm
việc. Nay, chúng tôi đề nghị giao công việc của tiểu ban pháp chính ấy cho
Thường vụ. Toàn Ban Thường trực; trong các phiên họp, sẽ kiểm điểm công việc
pháp chính của Ban Thường vụ;
c) Tổ chức phái đoàn Quốc hội và Chính phủ động viên nhân dân;
d) Trong những
giờ quyết định, Ban Thường trực sẽ lên tiếng thay mặt nhân dân tỏ rõ lập
trường, làm một hậu thuẫn mạnh mẽ cho Chính phủ.
2.
Tiếp tục nhiệm vụ lập hiến: thúc đẩy việc làm dự án bộ luật dân chủ
Bản Hiến pháp
đã đặt những nền tảng đầu tiên cho luật pháp mới ở nước ta. Nhưng ta vẫn còn
thiếu một bộ luật dân chủ, áp dụng những nguyên tắc của Hiến pháp vào mọi
mặt sinh hoạt hàng ngày của nhân dân. Thời kỳ đầu tiên còn phải tạm thời
dùng những luật pháp của chế độ cũ để lại. Dần dần Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã ban bố luật pháp mới thay thế. Nhưng những luật pháp mới còn
tản mạn chưa được tổng hợp thành một bộ luật mới và nhiều vấn đề còn chưa
được giải quyết. Gần đây, Sắc lệnh số 72-SL ngày 18-6-1949 của Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thành lập một hội đồng tu luật do Bộ Tư pháp
phụ trách để dự thảo bộ luật Việt Nam.
Song Hội đồng
tu luật đặt trong phạm vi phụ trách của Bộ Tư pháp thường ít điều kiện được
biết ý kiến trực tiếp của nhân dân.
Nếu hội nghị
tán thành, Ban Thường trực ta sẽ có thể đề nghị với Chính phủ chuyển trách
nhiệm điều khiển Hội đồng tu luật sang bên ta. Thường vụ của Ban ta sẽ kiêm
nhiệm vụ tiểu ban pháp chính mà theo dõi việc soạn luật, chỉ dẫn những
nguyên tắc lớn của đời sống chính trị dân chủ để làm căn bản cho các nhà
chuyên môn, và luôn luôn tìm cách biết dẫn ý để các luật pháp làm ra khỏi bị
xa cách với thực tế. Việc này lát nữa sẽ thảo luận tỉ mỉ sau trong mục thứ 6
của hội nghị này.
Tiếp theo bản
Hiến pháp, bộ luật dân chủ sẽ có ảnh hưởng sâu xa đến nền dân chủ cộng hòa.
3.
Kiện toàn liên lạc với các đại biểu - chuẩn bị khóa họp thứ ba của Quốc hội
Trong thời
gian vừa qua việc liên lạc giữa Ban Thường trực và các vị đại biểu không
được đều hòa và chặt chẽ. Đó có lẽ là khuyết điểm nhất trong công việc của
Ban ta. Do sự thiếu liên lạc, chúng ta không giúp đỡ được các vị đại biểu,
và ngay sự công tác của Ban Thường trực với Chính phủ cũng giảm đi một phần
lớn hiệu quả. Năm nay sự liên lạc cần được kiện toàn. Các vị đại biểu ở địa
phương sẽ cộng tác với Ban Thường trực trong mọi công việc nhất là công việc
tu luật.
a) Trong hoàn
cảnh không thể gặp gỡ trực tiếp, Ban Thường trực cần giữ vững liên lạc bằng
thư từ với các đại biểu và báo cáo đều kỳ cho các đại biểu biết công việc
của mình. Ban sẽ đặt những câu hỏi trưng cầu ý kiến các đại biểu bằng thư để
thay vào những cuộc thảo luận. Và các đại biểu Quốc hội ở mọi địa phương cần
báo cáo cho Ban Thường trực được biết tình hình và nguyện vọng của nhân dân,
để Ban Thường trực có thể giúp ý kiến của Chính phủ một cách hiệu quả;
b) Riêng về
các vị đại biểu ở Việt Bắc, Ban Thường trực có thể liên lạc trực tiếp hơn,
và có thể tổ chức hội nghị để phổ biến đường lối chung của kháng chiến và
bàn định công tác của các đại biểu Quốc hội;
c) Đối với các
đại biểu ở những địa phương xa, trong khi chưa họp được toàn Quốc hội, Ban
Thường trực sẽ có thể phái các ủy viên đi tổ chức những hội nghị đại biểu
Quốc hội ở các địa phương để phổ biến đường lối của quốc gia và giúp đỡ các
vị đại biểu trong công tác.
d) Đồng thời,
để chuẩn bị cho khóa họp thứ ba của Quốc hội Ban Thường trực phải bắt đầu
ngay việc sưu tầm tài liệu và như trên đã nói, dự thảo những phần chính của
bộ luật dân chủ.
4.
Phát triển liên lạc với quốc tế
Sự liên lạc
giữa chúng ta với quốc tế đang phát triển nhanh chóng phi thường. Trung Hoa
mới, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân đã công nhận nước ta và Chính phủ
ta. Ban Thường trực, thay mặt Quốc hội và nhân dân Việt Nam, cần lên tiếng
cám ơn Quốc hội, Chính phủ và nhân dân các nước bạn.
Ngay khi có
điều kiện, Ban Thường trực cần tổ chức những phái đoàn Quốc hội ra nước
ngoài để gây tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước bạn.
Bản Hiến pháp
Việt Nam cần được phổ biến rộng rãi ra thế giới cũng như những tài liệu về
Quốc hội và kháng chiến.
5.
Kiện toàn nội bộ - sửa đổi nội quy - chấn chỉnh văn phòng
Để thực hiện
những công việc trên đây, Ban Thường trực ta phải lo ngay việc kiện toàn nội
bộ của Ban và tăng thêm phương tiện làm việc.
a) Việc kiện
toàn nội bộ Ban Thường trực
- đề ra mấy điểm chính sau này:
1. Cử ông Lê Tư Lành, Uỷ viên dự khuyết lên làm chính thức thay thế ông Cung
Đình Quỳ để Ban Thường trực được đủ số ủy viên hoạt động. Về trường hợp ông
Hoàng Văn Hoan đi nhận công tác ở nước ngoài chúng ta thiếu một vị ủy viên
chính thức. Nhưng ba vị ủy viên dự khuyết đều đã lên chính thức cả. Chúng
tôi thiết tưởng Ban Thường trực ta không có quyền hạn chọn những ủy viên
mới.
2. Phân công
lại giữa các ủy viên; cử một vị Quyền Trưởng Ban để thay cụ Bùi Bằng Đoàn
những khi cụ vắng mặt hoặc bị ngăn trở, cử lại Tổng thư ký và hai ủy viên
thường vụ; theo như nội quy mới mà chúng tôi đem đề nghị hôm nay. Vị Trưởng
Ban (hay Quyền Trưởng Ban), Phó Ban, Tổng thư ký và hai ủy viên thường vụ sẽ
họp thành một Ban thường vụ để đảm nhiệm công việc hằng ngày của Ban Thường
trực.
3. Định lại
sinh hoạt của Ban Thường trực. Năm nay Ban ta sẽ phải họp nhiều hơn và từng
thời kỳ nhất định.
b)
Sửa đổi nội quy: Bản nội quy trước kháng chiến cần sửa lại cho thích hợp với
hoàn cảnh mới.
Nội quy mới sẽ định lại:
1. Sinh hoạt của Ban Thường trực: thời hạn họp, điều kiện họp:
2. Trách nhiệm
của Ban Thường vụ: thành phần, hình thức hoạt động.
3. Hoạt động
của các tiểu ban
4. Công tác
các ủy viên.
Chúng tôi đã
chuẩn bị một dự án nội quy mới, tới mục nội quy trong chương trình nghị sự
sẽ xin trình bày tỉ mỉ.
c) Chấn chỉnh
văn phòng: Để đủ người và
đủ phương tiện giúp Ban Thường trực cũng như các tiểu ban, Ban Thường vụ mới
sẽ phụ trách tổ chức lại văn phòng:
- Lấy một
chánh văn phòng đủ năng lực điều khiển những công việc hành chính,
- Thêm cán bộ,
phương tiện (ví dụ: máy chữ, máy in…)
- Văn phòng sẽ
đặc biệt phải phụ trách:
Soạn và in tài liệu về hoạt động của Quốc hội trong kháng chiến,
Tìm tòi những
tài liệu của Quốc hội còn thất lạc,
In Hiến pháp
bằng nhiều thứ tiếng,
Soạn và in văn
bản hai khóa họp Quốc hội năm 1946.
d) Dự án ngân
sách: Ngân sách mới
của Ban Thường trực sẽ do Ban Thường vụ mới phụ trách dự thảo, căn cứ theo
những quyết nghị của hội nghị hôm nay về hoạt động của Ban Thường trực.
Chúng ta chắc Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ để Ban Thường trực có đủ ngân
sách hoạt động.
Thưa các Cụ,
Thưa các Ngài,
Hoạt động của Ban Thường trực Quốc hội năm 1950, tăng thêm rất nhiều so với
năm trước, do là[1]
dấu chứng cuộc kháng chiến của chúng ta tiến gấp tới tổng phản công, gần
ngày thắng lợi hoàn toàn.
Trong phạm vi
những nhiệm vụ do Quốc hội giao cho, chúng ta sẽ phải nỗ lực nhiều hơn nữa,
để đoàn kết toàn dân quanh Chính phủ, dốc toàn lực đánh bại giặc trong giai
đoạn gay go nhưng vinh quang đang tới. Chúng ta thêm nặng trách nhiệm, nhưng
cũng thêm vô cùng phấn khởi.