THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT CỦA QUỐC HỘI VỀ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ
KHOA HỌC - KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM VÀ HÀNG TIÊU DÙNG
(Do ông Trần Đức Lương, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học và kỹ thuật trình bày tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa VII, ngày 24-12-1985)
Kính thưa Quốc hội,
Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, và đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng để giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm cũng như đáp ứng những nhu cầu cấp bách về hàng tiêu dùng là chủ trương chiến lược của Đảng ta trong suốt chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đương nhiên đó cũng là nhiệm vụ rất trọng yếu của kế hoạch nhà nước năm 1985 và năm 1986.
Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội bày tỏ sự nhất trí với báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1985 cũng như phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 1986 về vấn đề này.
Mặc dù gặp những khó khăn khách quan to lớn và những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng của nước ta vẫn có được sự gia tăng liên tục từ 1981 đến nay, trong đó, sản lượng lương thực đã đạt trên 18 triệu tấn trong năm 1985. Việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật đã chứng tỏ được trong thực tiễn là giải pháp quan trọng hàng đầu để các ngành, các cấp vươn lên giải quyết bằng được các mục tiêu trọng yếu nhất của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trên mặt trận lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng nói riêng.
Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa qua đã chỉ rõ: "Các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật trước hết phải phục vụ cho nhiệm vụ sản xuất lương thực và thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng xuất khẩu và các sản phẩm công nghiệp trọng điểm...".
Trong năm 1985, thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng Nhà nước giao cho, Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội đã tiến hành xem xét tình hình ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong các lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng. Ủy ban chúng tôi đã làm việc với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, với các Bộ Lương thực, Công nghiệp thực phẩm, Công nghiệp nhẹ, đã tổ chức ba đoàn đi tìm hiểu thực tế ở 76 cơ sở tại 9 tỉnh và thành phố: Hà Nam Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Minh Hải, Bến Tre, Đồng Nai, Phú Khánh, Nghĩa Bình và Quảng Nam - Đà Nẵng.
Thay mặt Ủy ban, tôi xin trình bày trước Quốc hội một số ý kiến về tình hình ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng ở nước ta hiện nay cũng như những kiến nghị của Ủy ban chúng tôi về vấn đề này.
I- TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN LƯƠNG THỰC,
THỰC PHẨM VÀ HÀNG TIÊU DÙNG
A- Vấn đề lương thực
1. Sản xuất lương thực
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất lương thực đang được thực hiện rộng rãi trong cả nước, thấm tới người lao động và thu được kết quả to lớn.
Ngành Nông nghiệp đang xây dựng có kết quả hệ thống giống lúa bốn cấp và nhiều trại giống cấp một, nhằm xóa dần tình trạng lẫn giống, giống thoái hóa, đưa nhanh những giống lúa có năng suất cao và những giống có tính năng đặc biệt phù hợp với từng vùng sinh thái khác nhau, những giống ngô, khoai tây mới vào sản xuất. Việc sử dụng phân bón hợp lý để tăng năng suất cây trồng và cải tạo đất, những biện pháp thủy lợi hóa, thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, cơ giới hóa, thực hiện mật độ trồng và lịch canh tác hợp lý đã đưa lại hiệu quả lớn về năng suất và sản lượng các loại cây lương thực, trước hết là lúa. Năng suất cây lương thực không chỉ tăng lên ở hai đồng bằng trọng điểm lúa. Đến nay, nhiều tỉnh miền núi, Tây Nguyên, ven biển Nam Trung bộ cũng cơ bản giải quyết đủ lương thực tại chỗ và có phần đóng góp với Nhà nước. Định kiến cho rằng dải đất hẹp miền Trung cằn cỗi làm không đủ ăn đã lùi vào dĩ vãng, các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào tới Thuận Hải đã trở thành những tỉnh kinh tế đa dạng, có những điển hình tiên tiến từ 80 đến 400 hécta đạt 16 tới 21 tấn/hécta ba vụ năm, dẫn đầu năng suất cả nước.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất lương thực còn nhiều vấn đề tồn tại. Sản lượng lương thực là tích số của diện tích và năng suất.
Về đất nông nghiệp: theo tài liệu điều tra cơ bản, trong số 6,9 triệu hécta đất nông nghiệp đang canh tác, có 5,9 triệu hécta trồng cây hàng năm trong đó có 4,6 triệu hécta trồng lúa 1 tới 3 vụ, trong số đất hoang còn lại có 0,46 triệu hécta có điều kiện khai thác thuận lợi, tuy nhiên, tăng tới đâu phải thâm canh tới đó mới có hiệu quả. Trong thực tế, chúng ta chưa làm được như vậy; những năm cách đây không lâu chúng ta đẩy mạnh khai hoang nhằm tăng nhanh diện tích trồng trọt, nhưng do chưa điều tra cơ bản, cụ thể, xác định phương hướng nhiệm vụ thiếu rõ ràng, không có luận chứng kinh tế - kỹ thuật vững chắc, chúng ta phá nhiều rừng để khai hoang, kết quả cuối cùng không được nhiều, tổn hại lại to lớn. Gần đây, việc khai hoang ồ ạt đã ngừng lại, nhưng nhân dân miền núi và cả dân miền xuôi trong các vùng kinh tế mới vẫn phá rừng làm nương rẫy trên sườn dốc không được cải tạo, làm cho đất bị suy thoái nhanh chóng, trở thành đồi trọc trơ sỏi đá rất khó phục hồi, số đất này đã tới 0,495 triệu hécta.
Năng suất cây lương thực phụ thuộc nhiều yếu tố vật chất kỹ thuật và xã hội, đứng hàng đầu vẫn là giống cây trồng, thủy lợi, phân bón và thuốc trừ sâu bệnh. Việc tăng năng suất sau khi đạt đến một giới hạn nào đó, tùy theo từng vùng, mức tăng chi phí sẽ cao hơn mức tăng năng suất. Ngoài ra, còn có vấn đề chi phí vận tải lưu thông lương thực giữa các vùng. Do đó, cần nghiên cứu tính toán phương án tối ưu cho mỗi vùng, vượt qua số đó thì giá thành tăng nhanh và hiệu quả giảm.
Việc trồng cây màu lương thực được Nhà nước rất quan tâm nhưng vẫn không phát triển được vì màu chỉ được ổn định tại những nơi thiếu đất trồng lúa và được tăng lên khi sản lượng lúa bị giảm do thiên tai. Việc trồng màu hàng hóa không phát triển được vì trên cùng một diện tích có thể trồng màu, trồng rau, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày có thu nhập nhiều lần cao hơn.
2. Bảo vệ lương thực sau khi thu hoạch
Đây là vấn đề rất lớn, nhất là vụ hè thu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chưa kể lượng lúa rụng khi gặt, có những tổn thất rất lớn sau khi gặt: do thiếu sân phơi, nhà kho, bao bì, phương tiện vận chuyển, nên lúa chất đống bị trôi, mọc mầm, mục nát, trộn sạn sỏi, bị chuột bọ ăn. Cho đến nay, chưa có một tổ chức nhà nước nào điều tra tình hình này và cho con số chính xác. Bộ Nông nghiệp ước tính tổn thất là 25%; Bộ Lương thực ước tính là 8% khi thu hoạch, 20% khi bảo quản, vận chuyển, thu mua, chế biến. Sở Lương thực tỉnh Minh Hải đánh giá tổn thất không dưới 20%, có nơi có lúc tới 30%. Việc cân đo khối lượng bằng cách nhìn mớn nước xà lan, đếm số bao, đếm số lượng gầu ngoạm của cần cẩu, đã tạo điều kiện cho bọn ăn cắp hoạt động. Số lương thực bị mất mát trong vận tải Nam - Bắc được Hải Phòng đánh giá là 10%. Sự tổn thất về chất lượng, về giá trị dinh dưỡng của lương thực, đều được mọi người coi là khâu tổn thất nghiêm trọng. Chúng ta tăng sản lượng 1 triệu tấn lương thực rất vất vả, nhưng lại để mất mát hàng nhiều triệu tấn. Hiện nay, chưa có Bộ nào chịu trách nhiệm về tình trạng trên. Bộ Nông nghiệp chỉ nhận trách nhiệm tới khi thu hoạch, còn Bộ Lương thực chỉ chịu trách nhiệm về 4 triệu tấn lương thực kể từ khi thu mua.
3. Chế biến lương thực
Vấn đề rất lớn là việc cải cách cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam theo hướng giảm bớt khẩu phần gạo nói chung còn chưa được giải quyết.
Phần lớn lương thực trong nước do dân tự giải quyết xay xát thủ công và dùng máy xay xát nhỏ. Ngành Lương thực quản lý 4 triệu tấn lương thực hàng hóa với giá trị tới 11 tỷ đồng tiền mới, nhưng cơ sở vật chất, kỹ thuật lại quá nghèo nàn lạc hậu: thiếu kho hàng, phương tiện vận chuyển, kỹ thuật chế biến lạc hậu. Các cơ sở xay xát của cả quốc doanh Trung ương và địa phương có công suất chỉ đủ bảo đảm xay xát 60% lượng lương thực được quản lý, phần còn lại phải gia công cho tập thể và tư nhân.
Trong điều kiện đó, ngành lương thực hướng công tác ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào việc giữ gìn số lượng và chất lượng lương thực, giảm hư hao, tận dụng phế liệu, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ giới hóa từng bước, tự giải quyết một phần những yêu cầu về thiết bị, phụ tùng, nhiên liệu và năng lượng, khắc phục tình trạng lạc hậu về kỹ thuật kéo dài. Ngành đã đạt được một số thành tựu nhất định như bảo quản thóc trong kho và trong bao xếp đống ngoài kho, chế tạo thiết bị xay xát tới công suất 30 tấn/ca; làm sạch gạo, ép dầu cám; sử dụng năng lượng bức xạ mặt trời và khí hóa trấu; sử dụng máy đo độ ẩm; chế tạo các loại cân từ 0,5 đến tới 25 tấn. Tuy nhiên, những tồn tại còn nặng nề:
Nhiều quy trình, quy phạm đã được ngành xây dựng từ trước. Nay không được tuân thủ. Nhiều định mức bị vi phạm. Tỷ lệ gạo trên thóc hạ thấp, tỷ lệ dị vật và thủy phần trong gạo bán lẻ tăng; giá trị dinh dưỡng của mỗi kg gạo không đánh giá được.
Phần lớn những cải tiến, sáng kiến do cơ sở tự làm, một số trường hợp được nhân lên trên từng địa bàn nhất định, nhưng nhìn chung, Bộ chưa kết luận và nhân rộng ra toàn ngành. Các tổ chức nghiên cứu và quản lý khoa học - kỹ thuật của Bộ rất yếu. Từ khi thành lập, Bộ chưa tổ chức được hội nghị khoa học và kỹ thuật ngành.
Đội ngũ khoa học - kỹ thuật của ngành Lương thực quá ít. Rất thiếu cán bộ chuyên sâu trong các khâu bảo quản và chế biến.
B- Vấn đề thực phẩm
Thực phẩm nước ta chủ yếu được ba ngành đảm nhiệm:
Ngành Nông nghiệp chỉ đạo trồng trọt cây thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi và đánh bắt thủy sản nước ngọt.
Ngành Hải sản chỉ đạo nuôi, đánh bắt, chế biến cá, tôm, mực và một số hải sản khác.
Ngành Công nghiệp thực phẩm có bộ phận trồng trọt dừa, chè, mía, thuốc lá, dứa và một số rau quả khác, và bộ phận chế biến gồm 11 chuyên ngành: đồ hộp, chè, thuốc lá, dầu thực vật, đường, bánh - kẹo, sữa, cà phê, bột ngọt, mì ăn liền, rượu - bia - nước giải khát.
1. Sản xuất nguyên liệu thực phẩm
Ngành Nông nghiệp và ngành Công nghiệp thực phẩm đã chọn lọc lai tạo và nhân giống có kết quả để đưa vào sản xuất những giống mới: lạc, đỗ tương, mía, chè, cà phê, ca cao, thuốc lá, dừa có năng suất cao, hướng tới tạo thành bộ giống quốc gia có tính chiến lược về phát triển nguyên liệu. Nhiều nơi đã thực hiện được kỹ thuật tổng hợp trong quy trình trồng trọt, khắc phục được tình trạng đã xảy ra trong nhiều năm trước đây như trồng chè, cà phê ồ ạt nhằm đạt chỉ tiêu kế hoạch về diện tích, ít quan tâm đến hiệu quả cuối cùng là số cây sống và sản lượng thu được về sau. Mấy năm gần đây, cây trồng sống và phát triển tốt hơn, năng suất dần được nâng lên, nhưng năng suất của các nông trường quốc doanh nhìn chung vẫn còn thấp.
Về chăn nuôi, ngành Nông nghiệp đã chỉ đạo nuôi đại trà lợn lai kinh tế chiếm tới 25% đầu lợn thịt, đang hướng tới tạo đàn đực giống ngoại, hệ thống thụ tinh nhân tạo, xây dựng đàn giống nền thuần chủng và đăng ký giống lợn quốc gia. Ngành đã thực nghiệm dùng giống trâu, bò đực ngoại để lai tạo đàn trâu, bò, sản xuất trứng tằm giống lai kinh tế lưỡng hệ, áp dụng quy trình miễn dịch cho lợn, gà. Tuy nhiên, các tiến bộ này còn rất hạn chế về phạm vi ứng dụng. Ngoài ra, còn có nhiều vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn và nằm trong tầm tay còn chưa được quan tâm đúng mức như vấn đề chống bệnh toi gà, tạo giống cỏ và đồng cỏ cho chăn nuôi đại gia súc, vấn đề tận dụng chế biến nguồn da súc vật, v.v..
Ngành Hải sản đang phát triển nuôi tôm, mực trong các đầm ven biển, một số tỉnh miền Trung đã thực nghiệm thành công bước đầu cho tôm đẻ trong bể nuôi nhằm bảo vệ được nguồn tôm đang có khuynh hướng giảm do đánh bắt cao hơn mức phát triển tự nhiên. Tuy nhiên, việc cho tôm đẻ còn đang ở mức độ nghiên cứu, kết quả chưa ổn định và chưa ứng dụng phổ cập được.
Tồn tại lớn nhất đối với công nghiệp thực phẩm là vấn đề nguyên liệu.
Trong những năm 1980 - 1981, cây thực phẩm suy giảm cả về sản lượng và chất lượng. Phân bón không đủ thành phần, nhất là kali nên hàm lượng đường trong mía thấp, quả dứa chỉ nhỏ bằng 1 phần ba so với trước, thủy phần trong thuốc lá tăng. Mấy năm gần đây, sản lượng cây thực phẩm thuộc các nông trường của ngành tăng lên khá nhưng chất lượng chưa được cải thiện.
Nhìn chung, cây nguyên liệu thực phẩm chưa được hình thành vùng chuyên canh lớn, số nông trường quốc doanh không đủ khả năng cung ứng nên các xí nghiệp chế biến phải dựa phần lớn vào nguyên liệu của tập thể và tư nhân. Trong khi đó, do động viên chính trị tư tưởng đối với người nông dân chưa thỏa đáng, do chính sách thu mua chưa khuyến khích, hàng đối lưu không đủ, và không kịp thời, nên có tình trạng diện tích và năng suất vùng chuyên canh giảm so với nơi ngoại vùng chuyên canh, người sản xuất nguyên liệu muốn ở ngoại vùng chuyên canh để trao đổi sản phẩm tự do. Các cơ sở chế biến thủ công có xu hướng phát triển tranh nguyên liệu với các xí nghiệp chế biến công nghiệp làm cho các xí nghiệp này hoạt động với công suất thấp và nguyên liệu không được tận dụng hợp lý.
2. Chế biến thực phẩm
Những năm đầu của kế hoạch 1981 - 1985, sản xuất của ngành Công nghiệp thực phẩm bị suy giảm nghiêm trọng, có chiều hướng đi xuống, chất lượng sản phẩm bị giảm rõ ràng. Ngành Công nghiệp thực phẩm đã đưa được vào sản xuất nhiều sản phẩm mới như kẹo bánh, rượu hoa quả đặc sản, ca cao chế biến, thuốc lá, dứa hộp. Ngành cố gắng khắc phục tình trạng thiếu nguyên liệu, thay thế một phần nguyên liệu nhập ngoại như hương liệu, sữa, thóc malt, đệm lie. Ngành đã có cố gắng tự giải quyết phụ tùng, sản xuất những dây chuyền thiết bị nhỏ chế biến đường, chè, và đang cùng Bộ Cơ khí và Luyện kim chế tạo bộ thiết bị cho nhà máy đường 500 tấn mía/ngày.
Ngành Hải sản phát triển khá, xây dựng được nhiều xí nghiệp mới sản xuất tôm, mực, cá, cua đông lạnh xuất khẩu ra nhiều nước, song đáng lưu ý là thiết bị, phụ tùng của các xí nghiệp đông lạnh của ngành hoàn toàn dựa vào nhập khẩu của Nhật Bản.
Việc chế biến thực phẩm còn rất nhiều tồn tại:
Thực phẩm do công nghiệp chế biến được sử dụng trong nước chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với lượng thực phẩm tiêu thụ, còn đại bộ phận đều là hàng tươi hoặc chế biến thủ công lạc hậu. Thực phẩm xuất khẩu chưa phong phú, đa dạng, chưa trở thành mặt hàng có tín nhiệm ổn định trên thị trường quốc tế. Trong công nghiệp thực phẩm, cả Trung ương và địa phương có xu hướng đáng chê trách là chạy theo thu nhập, phát triển ào ạt việc chế biến các mặt hàng độc hại như rượu và thuốc lá. Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng xấu do chất lượng nguyên liệu kém như tinh bột sắn xấu, mía có thủy phần cao; do than xấu, điện thất thường, có khi làm xấu hay hỏng cả loạt sản phẩm; do thiết bị phần lớn đã trải qua trên hai mươi năm sử dụng, lại rất đa dạng nhập khẩu từ nhiều nước chỉ còn lại giá trị từ 40 tới 70%, việc nhập phụ tùng sửa chữa rất khó khăn, không đáp ứng cả về số lượng và chủng loại; do trình độ khoa học - kỹ thuật còn bị hạn chế chưa xử lý được những đòi hỏi cao của sản xuất như men vi sinh, khử độc tố trong rượu, v.v..
Bao bì có ảnh hưởng rất lớn tới xuất khẩu sản phẩm; bao bì quá xấu không giữ được chất lượng sản phẩm, không gây được tín nhiệm với khách hàng. Có mặt hàng như: tôm, mực đông lạnh xuất khẩu bị nước ngoài mua, thay bao bì với nhãn hiệu nước khác và bán ra với giá cao hơn nhiều.
C. Về hàng tiêu dùng
Hàng tiêu dùng, trong đó có bộ phận xuất khẩu, do nhiều ngành đảm nhiệm:
Ngành Công nghiệp nhẹ được giao quản lý các chuyên ngành công nghiệp: dệt - sợi, may, bột giấy và giấy, sứ - thủy tinh, thuộc và chế biến da, gia công chất dẻo và cao su, gia công gỗ và diêm, một số tạp phẩm khác.
Ngành Cơ khí quản lý các mặt hàng xe đạp, quạt điện, phụ tùng xe máy.
Ngành Điện tử quản lý sản xuất và lắp ráp các mặt hàng điện tử và linh kiện.
Ngoài ra, còn có những ngành khác quản lý sản xuất hoặc gia công cho các cơ sở tập thể những mặt hàng văn phòng phẩm, dụng cụ thể thao, nhạc cụ, thảm, thêu, đan, mây, song, tre, v.v..
1. Nguyên liệu cho hàng tiêu dùng
Nguyên liệu cho hàng tiêu dùng chủ yếu đi từ các nguồn: nông nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, kim loại và hóa chất; các nguồn này còn ở dạng tiềm năng, nguyên liệu mới được khai thác ở dạng tự nhiên, chưa có quy hoạch phát triển, chưa có tiêu chuẩn. Nhiều chuyên ngành còn dựa chủ yếu vào nguyên liệu nhập: bông, sợi tổng hợp, bột giấy, xút, chất dẻo, hóa chất, kim loại đen và màu. Trồng bông, nuôi tằm là những nghề truyền thống đã bị sa sút chưa khôi phục được bao nhiêu. Gỗ, mây, song, tre được khai thác nhiều hơn tu bổ tái sinh. Các ngành công nghiệp tạo nguyên liệu chưa được phát triển. Nhiều quy hoạch vùng nguyên liệu qua nhiều năm thực hiện chỉ đạt kết quả quá nhỏ không đáng kể như vùng bông Nam Trung bộ, vùng gỗ giấy cho Nhà máy Giấy Bãi Bằng, v.v.. Từ năm 1979 đến nay, nguồn nguyên liệu nhập ngoại bị thu hẹp dẫn đến tình trạng số lượng thiếu hụt trầm trọng và chất lượng xấu làm cho phần lớn các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng rơi vào tình trạng mất ổn định, làm suy giảm sản lượng và chất lượng sản phẩm. Ngành Công nghiệp nhẹ đã cố gắng thay đổi công nghệ để chế biến nguyên liệu tồn kho và nhập mới không đúng quy cách như bông xơ ngắn, thuốc nhuộm và chất trợ nhuộm, chế biến bột giấy dùng ít hay không dùng xút, và tính toán, đề ra yêu cầu và tiêu chuẩn với các ngành công nông nghiệp về nguyên liệu cho ngành Công nghiệp nhẹ. Tuy có những cố gắng trên, ngành Công nghiệp nhẹ vẫn phải chịu đựng tình trạng thiếu nguyên liệu nặng nề.
2. Sản xuất hàng tiêu dùng
Những tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong ngành Công nghiệp nhẹ đã tập trung giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, giải quyết một phần vấn đề nguyên liệu, cân đối các điều kiện trong sản xuất, duy trì và ổn định dần năng lực thiết bị, bảo đảm chất lượng sản phẩm ở mức có thể chấp nhận được và nâng dần, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng cường liên kết tinh tế với các ngành khác.
Công tác đầu tư chiều rộng đã tăng năng lực sản xuất về kéo các loại sợi bông, tổng hợp, đay, len, về sản xuất giấy và hàng dệt kim; lực lượng cơ khí trong ngành và trong nước cũng đã chế tạo trên một nghìn thiết bị dệt, xeo giấy, xẻ da trang bị cho công nghiệp địa phương hàng nghìn tấn phụ tùng, góp phần nâng dần sản lượng, chuyển đổi mặt hàng mới.
Về chất lượng hàng hóa, ngành chú ý nâng cao độ bền sử dụng đối với hàng tiêu dùng trong nước và nâng cao giá trị sản phẩm hàng xuất khẩu, cho đến nay ngành đã có 13 mặt hàng được cấp dấu chất lượng nhà nước.
Tuy nhiên, ngành Công nghiệp nhẹ còn nhiều tồn tại.
Cho đến nay, nước ta vẫn chưa có vùng chuyên canh cây công nghiệp cũng như công nghiệp khai thác và chế biến nguyên liệu khoáng sản đủ sức tạo ra được cơ sở nguyên liệu trong nước vững chắc và ổn định về số lượng và chất lượng cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch phát triển nguyên liệu làm rất chậm. Đầu tư cơ bản cho nguyên liệu quá nhỏ bé và còn chưa được quan tâm.
Chất lượng sản phẩm hàng tiêu dùng còn rất thấp và lạc hậu hàng 20 - 30 năm so với mức trung bình tiên tiến của thế giới. Uy tín hàng xuất khẩu bị giảm, thị trường bán hàng bị thu hẹp dần, xuất khẩu không làm được chức năng nhập đủ nguyên liệu để tái sản xuất và nhập kỹ thuật mới để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong những năm gần đây, ngoài hàng xấu còn có hàng rởm, hàng giả tràn lan trên thị trường, làm thiệt hại rất lớn đến Nhà nước và người tiêu dùng.
Những mặt hàng tiêu dùng của ngành Cơ khí còn nghèo nàn, chỉ có mấy loại quạt điện, vài loại phụ tùng xe đạp đạt tiêu chuẩn chất lượng cấp 1, còn nói chung là rất xấu. Quy hoạch, phân công sản xuất bị phá vỡ, thép hợp kim và thép chế tạo máy nhập khẩu quá ít, thị trường đòi hỏi nhiều, việc quản lý về tiêu chuẩn và chất lượng không chặt nên rất nhiều cơ sở quốc doanh, tập thể và cả cá thể lao vào sản xuất, sắt thép kiếm được gì dùng nấy, gây ra tình trạng lãng phí của cải xã hội và thiệt hại cho người tiêu dùng.
Ngành Điện tử đang cố gắng tiếp cận trình độ hiện đại thế giới về lắp ráp máy thu hình đen trắng và mầu (Nhà máy Sanyo), nhưng linh kiện được sản xuất còn quá ít và xấu, toàn ngành còn quá yếu so với yêu cầu của thị trường trong nước.
II- NHỮNG NHẬN XÉT CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ
A- Những nhận xét chung về nguyên nhân cản trở việc đưa tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất và đời sống
1. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã tỏ rõ là nguyên nhân bao trùm nhất hạn chế việc đưa tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Theo cơ chế này, nghĩa vụ và quyền lợi của cơ sở sản xuất và người lao động không gắn bó mật thiết với hiệu quả thực của sản xuất và kinh doanh nên không kích thích được việc ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật.
Qua thực tiễn khảo sát ở hàng trăm cơ sở sản xuất, các đoàn công tác của Ủy ban chúng tôi có hai nhận xét chung đáng chú ý.
a) Càng đi sâu xuống cơ sở sản xuất, càng thấy rõ yêu cầu bức bách của việc đưa tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật ở các cơ sở khá tháo vát, đang hàng ngày hàng giờ tìm cách khắc phục các khó khăn trong sản xuất và đời sống. Thực hiện các Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương Đảng, đã có khá nhiều cơ sở phát huy quyền chủ động đưa tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao được năng suất, chất lượng, hiệu quả và hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, nhìn chung các cơ sở sản xuất vẫn còn bị trói buộc theo cơ chế quan liêu bao cấp nên không phát huy được hết vai trò chủ động của mình.
b) Các hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp có sự nhạy bén năng động hơn trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Có lẽ do mức độ bao cấp của Nhà nước đối với họ ít hơn so với xí nghiệp quốc doanh.
2. Việc định ra phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch cho sản xuất nhìn chung còn thiếu căn cứ khoa học; chưa có sự gắn bó mật thiết giữa khoa học và kỹ thuật, giữa kỹ thuật và kinh tế. Các công tác chuẩn bị tiền kế hoạch không được thực hiện nghiêm chỉnh như điều tra cơ bản, dự báo khoa học, lựa chọn mục tiêu, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, thiết kế. Do đó, có những mục tiêu đề ra nặng về mong muốn chủ quan, thoát ly thực tiễn, có những cơ sở công nghiệp được xây dựng xong không hoạt động được hoặc hoạt động không đưa lại hiệu quả mong muốn.
3. Nhìn chung, kế hoạch nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật và việc đầu tư xây dựng cơ bản còn có tình trạng dàn trải, chưa tập trung vào trọng tâm trọng điểm. Số lượng chương trình và đề tài nghiên cứu khoa học - kỹ thuật cấp nhà nước, cấp ngành, các địa phương quá lớn, không cân đối được điều kiện thực hiện nên chưa tập trung được vào những hướng trọng điểm có tác dụng thiết thực như năng lượng, giao thông vận tải, nguyên liệu. Sự vươn lên tự lực về công nghệ và chế tạo thiết bị, phụ tùng thay thế của ta dù là ở quy mô nhỏ và vừa còn quá yếu và chậm.
4. Hệ thống, cơ chế quản lý khoa học - kỹ thuật chưa được hình thành rõ rệt trong cả nước. Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước chỉ quản lý các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật, còn việc quản lý nhà nước về các lĩnh vực khoa học xã hội không có cơ quan quản lý thống nhất. Các Bộ và Tổng cục buông lỏng quản lý ngành trong cả nước theo chức năng được giao mà tự bó hẹp quản lý theo hệ thống dọc trực thuộc của mình. Hệ thống các quy trình kỹ thuật, quy trình công nghệ, chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nhìn chung chưa được hình thành đầy đủ ở các cơ sở cũng như các ngành. Những quy định đã có cũng không được tôn trọng.
5. Chủ trương của Nhà nước về sắp xếp lại các viện và trung tâm nghiên cứu, hệ thống đào tạo và lực lượng cán bộ khoa học và kỹ thuật nhìn chung còn chưa được thực hiện, trong đó có Nghị quyết 73 và Chỉ thị 110 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật tuy đông nhưng việc đào tạo và sử dụng chưa thực phù hợp với việc phát triển kinh tế; nhìn chung, có sự mất cân đối giữa cán bộ khoa học và cán bộ kỹ thuật, thiếu nhiều chuyên gia có trình độ vững vàng về công nghệ và có tay nghề chuyên môn cao.
6. Các chính sách, chế độ đối với cán bộ khoa học và kỹ thuật đã được đề cập nhiều nhưng trong thực tế chưa được cụ thể hóa và thực hiện bao nhiêu, trong đó có những vấn đề rất cấp thiết như chính sách khuyến khích cán bộ khoa học - kỹ thuật về cơ sở, về Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, trung du và miền núi, chính sách tiền lương, tiền thưởng, chưa tạo điều kiện cho cán bộ khoa học và kỹ thuật đi sâu vào học tập nghiệp vụ, ngoại ngữ, tiếp cận với những kỹ thuật hiện đại của thế giới.
3. Một số kiến nghị
Trên cơ sở những nhận xét nêu trên, Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội xin có những kiến nghị với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng sau đây:
1. Trong khi vạch phương hướng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cũng như phân bổ đầu tư cho kế hoạch nhà nước 1986 - 1990 và năm 1986, đề nghị Nhà nước rất coi trọng đầu tư chiều sâu, tập trung cho những vấn đề trọng điểm có tác dụng then chốt đối với toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt khuyến khích các chương trình, đề tài và công trình về tạo nguồn năng lượng, nguyên liệu trong nước và tại chỗ, tinh thần tự lực tự cường về làm chủ công nghệ và chế tạo thiết bị và phụ tùng trong nước, trong đó có việc ưu tiên xây dựng các vùng trồng nguyên liệu (cây công nghiệp), ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp khai thác, chế biến nguyên liệu, bao gói phục vụ các ngành Công nghiệp thực phẩm và Công nghiệp nhẹ. Số lượng các chương trình, đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp nhà nước, cấp ngành và địa phương cần được thu hẹp so với trước đây để có điều kiện đầu tư và cân đối đồng bộ hơn.
2. Đề nghị Nhà nước tiếp tục sửa đổi và ban hành nhanh chóng các chính sách cụ thể đối với cơ sở nghiên cứu và sản xuất theo hướng xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, tăng cường vai trò chủ động và tự chịu trách nhiệm của cơ sở, đặc biệt là quyền chủ động trong việc xây dựng phương hướng và mục tiêu, cân đối kế hoạch, sự tự chủ về tài chính, khuyến khích về giá cả đối với chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện để tiếp xúc với thị trường trong nước và thế giới (đối với hàng xuất khẩu), quyền được sử dụng ngoại tệ, v.v..
3. Kế hoạch khoa học - kỹ thuật được Nhà nước xét duyệt phải được cân đối với các điều kiện thực hiện. Đề nghị Bộ Tài chính và các ngành soát lại các nguồn kinh phí dành cho khoa học - kỹ thuật (kể cả kinh phí Trung ương, địa phương, viện trợ) nếu dưới 2% thì bổ sung cho đủ mức 2% thu nhập quốc dân như Nghị quyết 37 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra. Đề nghị Bộ Tài chính và các ngành quản lý tốt hơn số kinh phí này, tránh dùng vào việc khác mà vẫn tính vào chi phí cho khoa học - kỹ thuật. Đề nghị Nhà nước xác định cụ thể chỉ tiêu vật tư, nguyên liệu, thiết bị, tài chính, ngoại tệ, năng lượng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; quan tâm hơn việc trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu triển khai của mỗi ngành.
4. Nhà nước cần có chính sách tháo gỡ các trở ngại khó khăn trong việc phát triển tiềm lực đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật.
Muốn sản xuất hàng tiêu dùng và hàng thực phẩm có chất lượng cao, cần phải nắm vững kỹ thuật mới, yêu cầu của thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng; mở rộng giao lưu kỹ thuật, thông tin khoa học - kỹ thuật, cho cán bộ khoa học - kỹ thuật tham dự các hội nghị chuyên đề, các lớp học bồi dưỡng do các tổ chức phát triển khoa học - kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế đứng ra tổ chức.
5. Đề nghị Nhà nước chỉ đạo Bộ Nông nghiệp quản lý chặt chẽ hơn nữa việc sử dụng đất nông nghiệp ở miền núi và trung du. Việc bảo vệ và cải tạo đất vùng này đòi hỏi công lao động và chi phí cao gấp nhiều lần so với đất vùng đồng bằng, hiệu quả lại thấp hơn, song nếu buông lỏng sẽ đưa tới tình trạng đất bị hoang mạc hóa trong tương lai gần. Cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định không phá rừng để trồng trọt, chỉ khai hoang vào nơi đất trống, khai hoang tới đâu thâm canh tới đó, xóa nhanh tình trạng du canh du cư, vận động phong trào làm ruộng bậc thang để chống xói mòn trên đất dốc, làm cho đất trồng trọt ngày càng giàu hơn, chống lối làm ăn quảng canh và du canh chỉ dẫn đến vắt kiệt đất để có sản lượng trước mắt.
6. Đề nghị Nhà nước giao cho Bộ Lương thực tiến hành việc điều tra số lượng và nguyên nhân gây ra những tổn thất lương thực sau khi thu hoạch; xây dựng một chương trình bảo vệ lương thực trong phạm vi cả nước; xây dựng một chương trình hoàn chỉnh và hiện thực về vận tải, bảo quản, chế biến, kiểm nghiệm, cân đong, lưu thông phân phối lượng lương thực trong phạm vi quản lý của Bộ.
Kính thưa Quốc hội!
Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội mong được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước xem xét chấp thuận những đề nghị trên đây của Ủy ban chúng tôi.
Kính chúc sức khỏe các đồng chí đại biểu,
Kính chúc kỳ họp Quốc hội thành công tốt đẹp.