VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

BÁO CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU
CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 1986
(Do ông Võ Văn Kiệt, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
trình bày tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VII, ngày 24-12-1985)

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin trình bày trước Quốc hội bản báo cáo về "Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1986".

Báo cáo gồm bốn phần:

1. Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1985 và 5 năm 1981-1985.

2. Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1986.

3. Nhiệm vụ, mục tiêu và biện pháp chủ yếu của các ngành kinh tế - xã hội.

4. Đổi mới kế hoạch hóa, tăng cường chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ,
XÃ HỘI NĂM 1985 VÀ 5 NĂM 1981-1985

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Năm 1985 đánh dấu những nỗ lực to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng cố gắng của các ngành, các cấp, bằng tinh thần cách mạng kiên cường của nhân dân, quán triệt các Nghị quyết 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1985 đã đạt được một số kết quả và tiến bộ mới.

Về sản xuất nông nghiệp, mặc dù vụ mùa gặp thiên tai lớn, nhưng nhờ vụ đông xuân và hè thu được mùa, nên sản lượng lương thực năm 1985 tăng 40 vạn tấn so với năm 1984, chủ yếu do tăng vụ, chuyển vụ, thực hiện thâm canh, mở rộng diện tích lúa cao sản và việc cung ứng các loại tư liệu sản xuất cho nông nghiệp có khá hơn các năm trước.

Điều đáng biểu dương là, trong khi sản lượng lương thực tăng không nhiều, nhưng nhiều tỉnh đã hoàn thành vượt kế hoạch thu mua lương thực với mức cao hơn năm trước, như các tỉnh Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Đồng Nai, Long An, Nghĩa Bình, Vĩnh Phú, v.v..

Cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm tiếp tục phát triển, trong đó cây công nghiệp dài ngày tăng 16%, cây công nghiệp ngắn ngày tăng 5%. Một số cây quan trọng tăng khá về cả diện tích lẫn sản lượng, nhất là lạc, thuốc lá, chè, cao su, cà phê, dừa.

Chăn nuôi, nhất là chăn nuôi trâu bò, phát triển khá. So với năm 1984, đàn bò tăng 7,6%, đàn trâu tăng 2%, đàn lợn các tỉnh miền Nam tăng 3,7% (riêng miền Bắc giảm), đàn gia cầm phát triển khá, nhiều huyện đã chú ý nuôi vịt xuất khẩu.

Trồng rừng tập trung đạt 12,7% vạn ha, vượt kế hoạch 1,8 vạn ha, tăng 3% so với năm 1984, trong đó các loại cây làm nguyên liệu cho sản xuất giấy, sợi tăng 51%, làm gỗ trụ mỏ tăng 37%. Việc chăm sóc, tu bổ và bảo vệ rừng bước đầu có chuyển biến. Nạn cháy rừng đã giảm bớt. Phong trào trồng cây trong nhân dân phát triển mạnh. Việc giao đất, giao rừng cho xã, hợp tác xã và nhân dân quản lý theo quy hoạch được mở rộng.

Ngành Thủy sản vẫn giữ được nhịp độ phát triển khá. Sản lượng cá biển tăng 5,3% so với năm 1984, thu mua tăng 10,6%, xuất khẩu hải sản tăng 15%. Phong trào nuôi tôm, cá nước ngọt, nước lợ phát triển ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các huyện ven biển, nhất là nuôi tôm xuất khẩu.

Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tuy gặp khó khăn về năng lượng, nguyên liệu và phụ tùng, nhưng nhiều xí nghiệp bằng các hình thức liên kết, liên doanh đã chủ động khai thác thêm các nguồn nguyên liệu, cố gắng tự cân đối bảo đảm thực hiện kế hoạch nhà nước. Năm 1985, trong số vật tư, nguyên liệu đã sử dụng, Tổng cục Hóa chất tự cân đối thêm 17%, Bộ Công nghiệp nhẹ 8%, Bộ Thủy sản, Bộ Cơ khí - Luyện kim 20%, thành phố Hà Nội 15%, ngành Tiểu, thủ công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 76%... Mặt khác, kế hoạch nhà nước đã cố gắng tập trung các điều kiện vật chất cần thiết cho những sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế. Nhờ đó, nhiều sản phẩm tăng khá, như điện tăng 6%, thép tăng 8,5%, động cơ điện tăng 10%, phân lân tăng 9%, bơm thuốc trừ sâu tăng 20%, xi măng tăng 9%, đường tăng 12%... Sản xuất công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiếp tục phát triển khá.

Nhiều cơ sở sản xuất bước đầu cải tiến công tác quản lý đạt hiệu quả cao hơn, đã chứng minh khả năng khai thác các tiềm năng.

Khối lượng hàng hóa vận tải tăng 3% so với năm 1984. Ngành Giao thông vận tải đã bước đầu tổ chức phối hợp các phương thức vận tải giữa Trung ương và địa phương, bảo đảm vận chuyển một số mặt hàng quan trọng, nhất là hàng xuất, nhập khẩu, hàng cho các tỉnh biên giới, phân bón phục vụ nông nghiệp. Ngành Bưu điện đã tăng thêm đường dây thông tin phục vụ các tỉnh biên giới phía Bắc, một số huyện ở Tây Nguyên, tăng thêm thông tin nội hạt của thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Trên lĩnh vực xây dựng cơ bản, đã tập trung hơn cho những mục tiêu then chốt của nền kinh tế và các công trình trọng điểm nhà nước cho nên nhiều công trình xây dựng đạt tiến độ thi công, một số công trình hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng như: tổ 3 Nhà máy Điện Phả Lại, Nhà máy Bêtông tấm lớn Xuân Mai, cầu Chương Dương, cầu Thăng Long, cầu Mai Lĩnh, Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô ở Hà Nội... Diện tích trồng mới cao su, cà phê, chè, dừa, diện tích tưới nước, tiêu nước,... cũng được tăng thêm.

Nhiều địa phương đã vận dụng phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trên các mặt như trồng rừng, làm thủy lợi, điều dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, xây dựng các công trình y tế, văn hóa, v.v. đạt kết quả tốt.

Kim ngạch xuất khẩu khá hơn năm 1984. Một số mặt hàng đạt và vượt kế hoạch là cà phê, cao su, thiếc, than đá, và một số mặt hàng thủ công, mỹ nghệ.

Công tác thu mua, nắm hàng và quản lý thị trường có tiến bộ, một số hàng thu mua khá như đỗ tương tăng 23%, lạc tăng 5%, rau quả tăng 3%, cá tươi tăng 2%,... Mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đang được mở rộng.

Về phân bổ lao động và dân cư, số lao động điều cho các vùng kinh tế mới tăng 11% so với năm 1984. Việc phân bổ lại lao động trong từng tỉnh, từng huyện được thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú và có kết quả tốt.

Về nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đã tiếp tục nghiên cứu các chương trình trọng điểm Nhà nước, với nhiều đề tài thuộc các ngành và lĩnh vực khác nhau, trong đó nhiều đề tài đã đưa vào sản xuất thử.

Ngành Giáo dục phổ thông đã tiếp tục phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học, tiến hành việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, thực hiện chương trình cải cách giáo dục ở cấp I. Ngành Đại học, Trung học chuyên nghiệp tiếp tục kết hợp học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.

Các hoạt động Văn hóa, nghệ thuật, thông tin, triển lãm diễn ra sôi nổi và phong phú ở nhiều địa phương trong các ngày lễ lớn. Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ nhất đã đạt kết quả tốt, lập được nhiều kỷ lục mới, động viên được phong trào.

Ngành Y tế tích cực chống dịch, chữa bệnh, và ngăn chặn một số bệnh dịch lan rộng.

Công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng được các ngành, các cấp quan tâm hơn. Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch được chú ý ở các thành phố và một số vùng.

Đáng chú ý là công tác xây dựng huyện đang có chuyển biến khá, đã có 150 huyện làm ăn tốt. Nhiều huyện với tinh thần năng động, tự lực tự cường, đã có những bước tiến bộ rõ trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, củng cố quốc phòng và an ninh, đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng nguồn hàng nông sản xuất khẩu.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, các tỉnh Nam bộ đã hoàn thành cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp, thu hút 85,5% ruộng đất và 87,2% số hộ nông dân vào tập đoàn và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Các tỉnh khu V cũ và miền Bắc tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Công tác dịch vụ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp phát triển ở một số địa phương. Đã có 15 tỉnh, thành phố xây dựng thử mô hình sản xuất, kinh doanh tổng hợp nông - công - thương - tín. Trong cải tạo công thương nghiệp tư doanh, đã vận dụng nhiều hình thức quá độ, bước đầu đạt kết quả tốt; công tác quản lý thị trường và giá cả đã có chuyển biến một bước.

Trong khi đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, chúng ta tiếp tục tăng cường củng cố quốc phòng và an ninh, đánh bại nhiều âm mưu, thủ đoạn lấn chiếm biên giới và phá hoại nhiều mặt của kẻ thù. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên các địa bàn, trước hết là ở các tỉnh biên giới phía Bắc, có những tiến bộ mới.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Với việc thực hiện kế hoạch năm 1985, chúng ta kết thúc kế hoạch 5 năm 1981-1985 do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng xác định và đã trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 6, cuối năm 1982.

Đó là 5 năm phấn đấu gay go, quyết liệt của nhân dân cả nước ta để khắc phục tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất - kỹ thuật, tình trạng căng thẳng về lương thực và hàng tiêu dùng, về năng lượng và nguyên liệu, những hậu quả nặng nề của thiên tai, những sự đối đầu và phá hoại thâm độc của kẻ thù. Đó là những năm mà nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đã giành được nhiều thắng lợi to lớn trên cả hai nhiệm vụ chiến lược, mặc dù trên hoạt động thực tiễn, đã có không ít vấp váp, sai sót, chủ yếu trong sự điều hành của cơ quan nhà nước.

Nếu so sánh mức đạt được năm 1985 với năm 1980 thì thấy rằng có những sản phẩm tăng từ 1 lần rưỡi đến trên hai lần, như lương thực, diện tích các cây công nghiệp dài ngày chủ yếu (cao su, chè, cà phê, dừa), đàn trâu bò, sản lượng cá, đường mật, thuốc lá, vải, giấy, điện, xi măng... Kim ngạch xuất khẩu cả 5 năm 1981-1985 cũng tăng gấp 2 lần so với 5 năm 1976-1980.

Nổi bật nhất là sản lượng lương thực, đúng là còn chậm và thấp hơn mức đáng lẽ phải đạt được, nhưng lương thực từ 14,4 triệu tấn năm 1980 đã tăng lên 18,2 triệu tấn năm 1985, trong điều kiện thiếu thốn vật tư, chưa hoàn chỉnh thủy lợi, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long và trong khi đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ gần như không năm nào khỏi thiên tai ở các mức khác nhau, mỗi năm chúng ta tăng thêm gần một triệu tấn lương thực; đó là con số thật nhiều ý nghĩa. Một số sản phẩm chủ yếu tính theo đầu người đã đạt hoặc vượt mức cao nhất trước đây, sản xuất đã đáp ứng khá hơn yêu cầu tiêu dùng về một số sản phẩm quan trọng mà trước kia phải dựa vào nhập khẩu (như lương thực, đường, giấy...).

Với việc hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp ở Nam bộ và xúc tiến cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập trong các ngành kinh tế và trên phạm vi cả nước.

Hàng trăm công trình trên hạn ngạch và nhiều công trình vừa và nhỏ do Nhà nước và nhân dân cùng xây dựng đã làm tăng thêm năng lực của nền kinh tế quốc dân, cung cấp thêm cho xã hội nhiều sản phẩm quan trọng.

Đời sống của nông dân xét chung được cải thiện và ổn định một mức, nhiều vùng được bảo đảm về ăn, mặc, có nhà ở và đồ dùng khá hơn. Đã giải quyết được việc làm cho hàng triệu người ở thành thị và nông thôn. Sự nghiệp giáo dục, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, y tế, xã hội không ngừng phát triển.

Thắng lợi và tiến bộ có được là kết quả của sự hy sinh phấn đấu, sức lao động sáng tạo của đồng bào và chiến sĩ, của đông đảo cán bộ trong cả nước, sự giúp đỡ và hợp tác to lớn và có hiệu quả của Liên Xô cùng các nước anh em, sự ủng hộ của bầu bạn quốc tế. Thắng lợi và tiến bộ đó chứng tỏ bản chất kiên cường của nhân dân ta, chứng tỏ các mục tiêu cho 5 năm 1981-1985 do Đại hội lần thứ V và các nghị quyết hội nghị Trung ương của Đảng đề ra là phù hợp với cuộc sống thực tế.

Điều đáng chú ý là trong thời gian gần đây, tiếp theo Đại hội lần thứ V của Đảng, các nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, 7 và 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đã vận dụng sát hơn và cụ thể hóa tốt hơn quy luật phát triển của kinh tế - xã hội nước ta trong chặng đường trước mắt. Chúng ta từng bước xác định các quan điểm cơ bản về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, là triệt để xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển mạnh và chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.

Chủ trương và biện pháp cụ thể về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước đã được nhân dân và cán bộ các ngành, các cấp thực hiện khá sôi nổi. Năm 1985, những ngày lễ lớn kỷ niệm 40 năm thành lập nước, 10 năm giải phóng miền Nam... đã thực sự động viên mạnh mẽ khí thế cách mạng của quần chúng theo hướng đó. Nghị quyết 8 được ban hành đã tạo ra lòng tin và sự phấn khởi trong cán bộ và nhân dân lao động, mở ra một cục diện mới trong sản xuất, kinh doanh của cả nước. Đã có nhiều hình mẫu về đổi mới cách làm ăn như: sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại lao động, giảm tiêu hao vật tư và lao động, giảm giá thành, tăng năng suất lao động, kinh doanh thực sự có lãi... đã diễn ra ở Nhà máy Chế tạo công cụ số 1, Nhà máy Dệt 8-3, Công ty Kinh doanh lương thực Thành phố Hồ Chí Minh... Những hình mẫu này địa phương nào cũng có và ngày càng nhiều. Tuy trong việc cải tiến chính sách giá - lương - tiền, có một số khuyết điểm mà dưới đây sẽ trình bày, song đổi mới cơ chế quản lý theo các Nghị quyết 6, 7, 8 thực sự là một nhân tố mới, có tác dụng rất to lớn trong việc khai thác khả năng bên trong và bên ngoài, đưa nền kinh tế nước ta tiến lên mạnh mẽ hơn.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Bên cạnh những kết quả và tiến bộ nói trên, việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1985 còn nhiều mặt yếu, kém:

Trong nông nghiệp, diện tích lúa mùa không ổn định và giảm trên 13 vạn ha so với năm 1984. Sản lượng thóc không đạt kế hoạch. Sản xuất màu mấy năm gần đây dừng lại, chủ yếu do việc thâm canh màu nói chung chưa được chú ý, năng suất màu tăng chậm, việc chế biến, vận tải, tiêu thụ màu chưa có chuyển biến đáng kể.

Trong chăn nuôi, đàn lợn ở miền Bắc giảm, nhất là lợn nái, một phần do lũ lụt, nhưng chủ yếu là do thiếu thức ăn và việc tổ chức thu mua chưa tốt.

Khai thác gỗ giảm 4% so với năm 1984, một mặt do điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, các vật tư cần thiết chưa bảo đảm tương ứng, mặt khác do sự chỉ đạo và quản lý chậm được cải tiến. Việc giao nộp gỗ cho Trung ương chỉ đạt 80% kế hoạch, cho nên việc cung ứng gỗ cho các nhu cầu rất căng thẳng, nhất là cho xây dựng cơ bản. Diện tích rừng bị cháy trong vài năm lại đây tuy có giảm, nhưng tình trạng phá rừng để làm nương rẫy vẫn còn nghiêm trọng. Đã tiến hành giao đất, giao rừng cho hợp tác xã 2,5 triệu ha, nhưng mới có khoảng 10-15% được kinh doanh tốt.

Về sản xuất công nghiệp, tiêu hao vật tư, chi phí trong sản xuất còn quá lớn, giá thành cao, chất lượng sản phẩm kém. Một số sản phẩm quan trọng tăng chưa đáng kể.

Tình trạng phân tán vốn trong xây dựng các công trình dưới hạn ngạch vẫn chưa được khắc phục, nhất là ở các địa phương và một số ngành, trong đó có những công trình vừa thiết kế, vừa thi công hoặc chưa có luận chứng kinh tế - kỹ thuật cũng khởi công, gây nhiều lãng phí, thậm chí có công trình không đưa vào kế hoạch.

Trong vận tải hành khách, việc đi lại của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn.

Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm, mặt hàng xuất khẩu vẫn còn phân tán, chưa tạo được mặt hàng chủ lực có khối lượng lớn, chất lượng hàng xuất khẩu không đáp ứng các hợp đồng đã cam kết và không theo kịp yêu cầu của thị trường thế giới.

Những yếu kém và thiếu sót trên đây có những nguyên nhân diễn ra từ nhiều năm, nhưng nguyên nhân trực tiếp là sự quản lý và điều hành của Hội đồng Bộ trưởng trong công tác kế hoạch hóa, cải tiến cơ chế quản lý và chỉ đạo thực hiện kế hoạch là:

Trong bố trí kế hoạch, chưa bảo đảm cân đối, nhiều chỉ tiêu vẫn chưa được xây dựng từ dưới lên, còn do cấp trên đưa xuống, lại thiếu các biện pháp vững chắc và đồng bộ. Sự chỉ đạo điều hành của Hội đồng Bộ trưởng và của các Bộ tuy đã có tiến bộ, nhưng vẫn thiếu tập trung vào các mục tiêu then chốt, nhất là trong xây dựng cơ bản và cung ứng vật tư. Chưa tổ chức tốt việc nghiên cứu các chính sách đòn bẩy kinh tế để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Tình hình kinh tế cho đến quý III năm 1985 đang có đà phát triển tốt, song từ quý IV do có những khuyết điểm trong khi cải tiến giá - lương - tiền, nên giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến nhiều mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Nghị quyết 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm là do sự chỉ đạo thực hiện mà chủ yếu là của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng. Chúng tôi xin nghiêm khắc tự phê bình trước Quốc hội, tức là trước nhân dân cả nước về những khuyết điểm nói trên. Trong chỉ đạo thực hiện, cũng chưa phải thoạt đầu đã có thể ước lượng tất cả hiệu quả của các biện pháp, về mặt tích cực cũng như tiêu cực, chỉ qua thực tiễn và thời gian, các mặt ấy mới bộc lộ đầy đủ. Vấn đề là đánh giá khách quan diễn biến của tình hình, nhận thức nó một cách nghiêm túc và trách nhiệm, không lấy ý định chủ quan mà lấy tác động thực tế làm tiêu chuẩn, để hoặc phát huy hoặc khắc phục.

Nhìn chung, đến hết kế hoạch 5 năm 1981-1985, bên cạnh những tiến bộ mới, những nhân tố mới cần được khẳng định và ra sức phát huy, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đều chưa ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân còn rất căng thẳng. Sản xuất và xây dựng chưa được sắp xếp lại. Quan hệ sản xuất mới tuy đã hình thành nhưng còn ở trình độ thấp, kinh tế - xã hội chủ nghĩa chưa được củng cố vững chắc. Lao động, đất đai và máy móc, thiết bị hiện có vẫn chưa được khai thác tốt. Chất lượng văn hóa, giáo dục chậm chuyển biến. Pháp chế xã hội chủ nghĩa không được chấp hành nghiêm chỉnh.

Tình hình đó đặt ra trong kế hoạch năm 1986 phải có những chủ trương, biện pháp thật tích cực, để nhanh chóng đưa các mặt hoạt động kinh tế - xã hội vào nền nếp và tiến lên vững chắc.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
CỦA KẾ HOẠCH KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 1986

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng ta bước sang năm 1986, năm mở đầu của 5 năm 1986-1990 với những nhiệm vụ mới rất to lớn. Kế hoạch năm 1986 được xây dựng trên cơ sở tiếp tục quán triệt những nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội lần thứ V của Đảng đã đề ra, từ thực trạng kinh tế - xã hội và trên cơ sở tính toán các khả năng bên trong và bên ngoài có thể khai thác.

Trong 5 năm 1986-1990, chúng ta phải tiếp tục quán triệt đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tập trung rất cao sức của cả nước, của các ngành, các cấp vào việc phát triển nông nghiệp toàn diện, trước hết là giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, phân công và phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước, gắn với việc khai thác toàn bộ đất nông nghiệp và phần lớn đất lâm nghiệp, gắn trồng trọt với chăn nuôi, sản xuất với chế biến, tiêu dùng trong nước và xuất nhập khẩu.

Phải phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng, bảo đảm đủ hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, đủ hàng hóa cần thiết để trao đổi với nông dân và tạo nguồn xuất khẩu quan trọng. Đồng thời, phát triển một số ngành công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Trong sản xuất và xây dựng công nghiệp, phải tập trung vào những sản phẩm thiết yếu nhất (như than, điện, cơ khí, dầu khí, phân bón, xi măng, gỗ, vải, giấy...), kết hợp đầu tư để đồng bộ hóa, đầu tư chiều sâu có chọn lựa nhằm tận dụng các cơ sở hiện có với xây dựng cơ sở mới, kết hợp các loại quy mô, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ, song vẫn bảo đảm kỹ thuật và công nghệ tiến bộ.

Mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế với nước ngoài phải được coi là một nhiệm vụ chiến lược phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Phải đẩy mạnh xuất khẩu, gắn xuất, nhập khẩu với nông nghiệp và công nghiệp trong một cơ cấu. Bảo đảm các cam kết với nước ngoài, cải tiến cung cách làm ăn, đồng thời qua việc ban hành Luật đầu tư mà thu hút thêm vốn bên ngoài.

Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã xây dựng, sử dụng đi đôi với quản lý và cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể trên cơ sở phát huy vai trò nòng cốt của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, hình thành cơ chế quản lý mới, chuyển các hoạt động kinh tế sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trong đó có hai điều quan trọng nhất là phải mở rộng quyền chủ động của cơ sở và phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng sản xuất - kinh doanh.

Như vậy, kế hoạch 5 năm 1986-1990 là bước rất quan trọng để tiến lên kết thúc chặng đường đầu tiên, phải ổn định toàn diện tình hình kinh tế - xã hội, phát triển một bước sản xuất nông - công nghiệp, ổn định thị trường, giá cả, tài chính, tiền tệ, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, hình thành cơ chế quản lý mới, khắc phục các hiện tượng không lành mạnh trong kinh tế - xã hội, chuẩn bị cho bước phát triển mạnh hơn trong những năm sau.

Điều kiện vật chất để bảo đảm nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1986-1990 đến nay đã được xác định tương đối rõ, trong đó nguồn vốn đầu tư từ cộng đồng xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là của Liên Xô, ước tính nhiều hơn 5 năm trước. Nhiều loại vật tư như: xăng dầu nhập khẩu tăng 44%, và đến khoảng giữa kỳ kế hoạch 1986-1990 chúng ta đã sử dụng được phần dầu khí khai thác trong nước. Sắt thép (kể cả sản xuất trong nước) tăng 82%, xi măng tăng gấp đôi. Riêng các vật tư chủ yếu dành cho xây dựng cơ bản trong 5 năm 1986-1990 như xăng, dầu, sắt thép, xi măng... nói chung có thể bố trí tăng khá so với 5 năm trước. Tuy vẫn còn thấp so với nhu cầu bức thiết của nền kinh tế và rồi đây chúng ta còn cần tiếp tục khai thác thêm, nhưng đấy là nguồn vật chất cực kỳ quan trọng cần được sử dụng tốt để tạo ra nhiều sản phẩm và năng lực mới cho nền kinh tế.

Năm 1986 phải là năm mở đầu thắng lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của 5 năm 1986-1990. Để phát huy các khả năng trong nước và sử dụng nguồn vật chất từ bên ngoài đưa vào, điều quyết định là tiếp tục thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các Nghị quyết hội nghị lần thứ 6, 7, 8 của Trung ương Đảng (khóa V) và trước mắt là Nghị quyết hội nghị lần thứ 9. Các nghị quyết đó về thực chất là một hệ thống các chủ trương phản ánh tư duy kinh tế mới và hình thành một cơ chế quản lý tương ứng, nhằm xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, tạo điều kiện thật tốt cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh đi vào hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy kế hoạch làm trung tâm.

Phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch năm 1986 là:

- Tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là tăng nhanh lương thực, thực phẩm, phát triển mạnh hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và các sản phẩm công nghiệp nặng then chốt phục vụ nông nghiệp, công nghiệp tiêu dùng và giao thông vận tải. Đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu và kinh tế đối ngoại.

- Đẩy mạnh phân công và bố trí lại lao động, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất trên địa bàn cả nước, nhất là trên địa bàn 400 huyện, các thành phố, khu công nghiệp lớn và cơ sở, sử dụng tốt lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có để phát triển mạnh sản xuất và kinh doanh.

- Giải quyết tốt các vấn đề phân phối, lưu thông, bảo đảm cho Nhà nước làm chủ thị trường, từng bước ổn định tình hình giá cả, tài chính, tiền tệ và đời sống nhân dân.

- Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong cả nước với những hình thức và bước đi thích hợp. Nâng cao trình độ và chất lượng hợp tác hóa nông nghiệp ở Nam bộ, đẩy mạnh cải tạo công thương nghiệp tư doanh, cải tạo và tổ chức lại tiểu thương, tăng cường khu vực kinh tế - xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ.

- Hình thành cơ chế quản lý mới, đặc biệt là bảo đảm quyền chủ động của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các huyện trong việc tổ chức và quản lý kinh tế.

- Chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, phân biệt chức năng quản lý hành chính với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh, giảm nhẹ biên chế, sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh, bố trí lại cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý.

- Củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm các yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đánh bại các hoạt động lấn chiếm ở biên giới và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.

Thực hiện nhiệm vụ trên đây là nhằm ổn định thêm một bước tình hình kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, tạo nguồn tích lũy, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho những bước phát triển mạnh hơn trong những năm sau.

Trong tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, toàn dân và toàn quân ta phải nâng cao tinh thần tự lực tự cường, khắc phục khó khăn ngay từ mỗi cơ sở, ra sức lao động sản xuất và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tiêu dùng để tích lũy vốn cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Phải hết sức xem trọng cải tiến quản lý, ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí lưu thông, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Trong chỉ đạo điều hành, các ngành, các cấp phải kiên quyết sắp xếp lại tổ chức, bố trí lại cán bộ, sửa đổi lề lối làm việc, tăng cường chế độ trách nhiệm, tính tổ chức và kỷ luật, tăng cường công tác tư tưởng văn hóa.

PHẦN THỨ BA

NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU VÀ BIỆN PHÁP
CHỦ YẾU CỦA CÁC NGÀNH KINH TẾ, XÃ HỘI

I- SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

1. Năm 1986 nông nghiệp tiếp tục được coi là mặt trận hàng đầu. Phải tập trung sức cao nhất của các ngành, các cấp để thực hiện một bước chuyển biến rõ rệt về phát triển nông nghiệp toàn diện, gắn sản xuất với chế biến, trước hết đẩy mạnh sản xuất lương thực và đi đôi với phát triển mạnh các cây công nghiệp và chăn nuôi, nhằm tăng nhanh lương thực, thực phẩm, để giải quyết ổn định vấn đề lương thực và tạo ra nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu.

Nhiệm vụ quan trọng số một là sản xuất lương thực (cả lúa và màu) phấn đấu đạt cho được 20 triệu tấn, đó là mức tối cần thiết cho nhu cầu ăn, chăn nuôi ở mức khá hơn và có thêm dự trữ.

Hướng chính là phải tập trung điều kiện vật chất để đẩy mạnh thâm canh lúa trên các vùng có tỷ suất hàng hóa cao, những diện tích chắc ăn, những vùng có yêu cầu lớn về lương thực nhưng nay đang có khó khăn, đồng thời hết sức chú ý diện đồng đều, tập trung xây dựng vùng lúa cao sản trên 2 triệu ha với sản lượng 9-10 triệu tấn.

Cùng với lúa, phải đẩy mạnh thâm canh và tăng diện tích các loại màu, nhất là ngô, kết hợp với phân bổ lại lao động trong từng vùng, từng địa phương tiến lên sử dụng hết các diện tích có thể trồng màu và các loại cây có bột, bảo đảm tăng diện tích và đạt sản lượng màu cao hơn mức 2,5 triệu tấn (quy thóc) dự kiến cho năm 1986, trong đó ngô tăng 23%, khoai lang tăng 12%, khoai tây tăng 61%. Đồng thời, tổ chức tốt việc thu mua, vận chuyển, chế biến và có chính sách khuyến khích, thay đổi cơ cấu bữa ăn phù hợp với điều kiện sản xuất lương thực của mỗi địa phương, để giảm dần việc điều hòa lương thực từ nơi này qua nơi khác.

Về các biện pháp, đẩy mạnh công tác thủy lợi, nhất là ở các vùng trọng điểm như đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, khôi phục hệ thống kênh mương, đê đập và các công trình tưới, tiêu nước ở các vùng bị bão lụt.

Bổ sung sức kéo và bơm nước để mở rộng diện tích lúa đông xuân và hè thu, đẩy mạnh sản xuất và sử dụng phân chuồng, phân xanh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, bảo đảm giống tốt... Về phân bón và thuốc trừ sâu hiện chưa bảo đảm cân đối, phân đạm mới đáp ứng 69% cho các tỉnh miền Bắc và 48,5% cho các tỉnh miền Nam, địa phương phải lo tự cân đối thêm 31% và 51,5%. Thuốc trừ sâu mới bảo đảm 25% nhu cầu. Cách giải quyết tích cực là các địa phương dành một phần sản phẩm cây công nghiệp, thủy, hải sản để xuất khẩu, nhập thêm phân bón, thuốc trừ sâu hoặc tăng diện tích và tăng sản lượng lúa đặc sản, lúa cao sản, lấy một phần số thóc tăng lên đó để xuất khẩu, cân đối lại cho lương thực. Mặt khác, áp dụng các biện pháp tổ chức quản lý và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả của phân bón, thuốc trừ sâu, hạn chế những lãng phí, tổn thất thường xảy ra.

Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, phải triệt để tiết kiệm lương thực, làm thật tốt công tác huy động lương thực, bảo đảm mức Nhà nước huy động tăng 9% so với năm 1985, thực hiện Nhà nước thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh lương thực. Mặt khác, phát động phong trào tiết kiệm lương thực trong tiêu dùng, chống tệ nấu rượu lậu, hạn chế dùng gạo để chăn nuôi.

Phát triển mạnh cây công nghiệp, nhất là cây công nghiệp ngắn ngày, khoanh vùng chuyên canh để tập trung đầu tư, thâm canh tăng nhanh sản lượng hàng hóa. Năm 1986, dự kiến sản lượng lạc tăng trên dưới 20%, đỗ tương tăng trên dưới 30%, thuốc lá tăng 7%, mía tăng 32%, đay tăng 22-33%, đặc biệt chú trọng trồng bông, dâu tằm, đay, lanh và phát triển cây dứa sợi ở những nơi thích hợp để giải quyết một phần nguyên liệu cho vải mặc.

Đối với cây dài ngày như cao su, cà phê, chè, v.v. phải tập trung đầu tư trên diện tích đã có, đồng thời gắn với việc phân bổ lao động và đất đai, đẩy mạnh phát triển diện tích, trước hết là bảo đảm hiệp định đã ký với các nước; kết hợp quốc doanh, tập thể và gia đình, bảo đảm sản lượng cao su tăng 5%, cà phê 38%, chè 11%. Đẩy mạnh phong trào trồng dừa, cọ dầu, trẩu, hồi, quế và cây ăn quả...

Về chăn nuôi, tăng nhanh đàn lợn và gia cầm đáp ứng nhu cầu thực phẩm và xuất khẩu; phát triển trâu bò, ở tất cả các vùng, nhất là trung du, miền núi và Tây Nguyên. Phải củng cố, từng bước xây dựng chăn nuôi quốc doanh, chú ý chăn nuôi tập thể, khuyến khích mạnh chăn nuôi gia đình; bảo đảm các yêu cầu về thức ăn, con giống và thú y, tăng đàn lợn 11,7%, gia cầm 11%, trâu bò 7-8%.

2. Về lâm nghiệp: phát động rộng rãi phong trào trồng cây, đẩy nhanh tốc độ phủ xanh đồi trọc, bảo vệ vốn rừng hiện có. Kết hợp chặt chẽ lâm nghiệp, nông nghiệp với công nghiệp chế biến; kết hợp trồng rừng với trồng cây đặc sản trẩu, hồi, quế và định canh định cư, khắc phục tình trạng phá rừng làm nương rẫy.

Tiếp tục giao đất, giao rừng cho xã, hợp tác xã, đơn vị quân đội và gia đình; ban hành quy chế quản lý chặt chẽ và chính sách khuyến khích thu hút thêm nhiều lao động vào nghề rừng.

Ngoài vốn đầu tư của Nhà nước cho vùng trồng rừng tập trung, các địa phương phải thu đủ số tiền bán khoán lâm sản và dành tất cả cho việc trồng rừng, nuôi rừng, tái sinh rừng và chăm sóc rừng. Mặt khác, dành một phần ngân sách địa phương cùng với việc huy động vốn của hợp tác xã và nhân dân đẩy mạnh tốc độ trồng rừng.

Thực hiện nghiêm chỉnh việc khai thác gỗ theo quy hoạch, kế hoạch nhà nước, bảo đảm quy trình kỹ thuật, phát triển mạnh việc chế biến gỗ, tận dụng gỗ cành ngọn, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng gỗ. Mức sản lượng gỗ khai thác là 1,4 triệu m3.

3. Thủy sản: tiếp tục phát triển mạnh nuôi, trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm xuất khẩu ở đồng bằng và ven biển, tận dụng và thâm canh tốt diện tích nuôi cá nước ngọt ở khắp các vùng. Tổ chức tốt dịch vụ trên biển phục vụ đánh bắt và thu mua sản phẩm, đẩy mạnh công nghiệp chế biến thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Năm 1986, sản lượng cá 82 vạn tấn, tăng 2%, riêng cá biển 58 vạn tấn; xuất khẩu hải sản tăng 10% so với năm 1985.

Cần hoàn chỉnh sớm chính sách xuất khẩu thủy sản, thống nhất đầu mối chỉ đạo giá cả, thị trường, mua bán trong và ngoài nước. Củng cố các quốc doanh đánh cá nhằm chuyển hoạt động đi vào hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

II- SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP VÀ
TIỂU CÔNG NGHIỆP, THỦ CÔNG NGHIỆP

Ưu tiên bảo đảm cân đối đồng bộ, các điều kiện vật chất cho những sản phẩm trọng yếu nhất, như than, điện, dầu, xi măng, gỗ, phân bón và hàng tiêu dùng thiết yếu nhằm thực hiện cho được kế hoạch đã xác định, đồng thời, tiếp tục tìm kiếm các nguồn để bổ sung kế hoạch, nhất là chuẩn bị điều kiện để tăng hơn nữa trong năm 1987.

Đối với các sản phẩm khác, cố gắng bảo đảm nhu cầu tối thiểu. Mở rộng liên kết kinh tế giữa các ngành và địa phương, giữa xí nghiệp trung ương với các cơ sở có nguyên liệu, tận dụng phế liệu và nguyên liệu tại chỗ, tìm thêm nguyên liệu từ nguồn trong nước và nhập khẩu để huy động hết công suất các nhà máy hiện có, mở thêm mặt hàng mới, giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra sau khi sắp xếp lại sản xuất.

Khuyến khích phát triển mạnh tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp của hợp tác xã và gia đình, nhất là các ngành nghề gia công xuất khẩu, thu hút lao động thành thị chưa có việc làm và lao động dôi ra từ cơ quan, xí nghiệp.

Trong các xí nghiệp, điều cần nhấn mạnh là phải chuyển biến rõ rệt công tác quản lý, đi vào hạch toán kinh tế, triệt để thực hiện tiết kiệm, giảm tiêu hao vật tư, lao động, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, phấn đấu để phần lớn các mặt hàng công nghiệp có lãi, đóng góp vào ngân sách. Đồng thời, phải quản lý chặt chẽ sản phẩm làm ra, chấm dứt tình trạng phân phối vật tư, hàng hóa không theo kế hoạch.

Phải nâng cao sản lượng than, một sản phẩm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế, phấn đấu tăng sản lượng 11% so với năm 1985; khuyến khích khai thác các mỏ than nhỏ ở các địa phương.

Chú trọng bảo đảm cho được đời sống của công nhân mỏ. Bộ Lương thực, Bộ Nội thương phải bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm; Ngân hàng Nhà nước phải bảo đảm quỹ lương tương ứng với sản lượng than, không được để chậm trễ.

Toàn bộ than sản xuất tại khu vực Quảng Ninh phải được đưa vào cân đối và phải tổ chức cung ứng theo kế hoạch.

Cải tiến công tác tổ chức quản lý sản xuất của ngành Than, trước hết là ở vùng Quảng Ninh.

Sản lượng điện tăng 12%. Ngành Điện phải tăng cường công tác quản lý và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để tiết kiệm cho được 5-10% than và dầu. Xúc tiến lắp đặt đồng hồ đo điện cho các hộ tiêu thụ, cải thiện hệ thống đường dây hạ thế để giảm hao phí và thất thoát điện.

Bảo đảm kế hoạch cung cấp dầu và than cho ngành Điện. Ngành Cung ứng than và ngành Vận tải phải bảo đảm mức dự trữ than thường xuyên tại các nhà máy điện.

Sản lượng phân lân các loại tăng 6%. Khuyến khích khai thác các mỏ phốtphoríc nhỏ ở các tỉnh để tăng thêm nguồn phân cho nông nghiệp.

Ngoài ra, cố gắng bảo đảm và tăng hơn năm 1985 các sản phẩm hóa chất như đất đèn, sơn hóa học, ác quy, pin, xút, để đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế.

Sản lượng thép tăng 2,6%, nâng cao tỷ lệ thép tốt. Áp dụng tiến bộ kỹ thuật về gang lò điện, phục hồi các lò luyện thép 5 tấn ở các cơ sở để tăng sản phẩm.

Cơ khí, điện tử: Tăng sản xuất các loại phụ tùng sửa chữa, tăng máy móc, thiết bị và các công cụ phục vụ nông nghiệp, thủy lợi, giao thông vận tải, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, hàng kim khí tiêu dùng... Chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là xe đạp, phụ tùng xe đạp, quạt điện, máy khâu, đồng hồ, đồ dùng bằng gang, nhôm, máy thu thanh, thu hình. Đẩy mạnh việc hợp tác gia công với các nước xã hội chủ nghĩa để có thêm các mặt hàng cơ khí, điện tử xuất khẩu.

Thực hiện sớm việc sắp xếp lại sản xuất, xác định phương án sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của các ngành. Bộ Cơ khí và Luyện kim nghiên cứu ban hành quy chế về chất lượng sản phẩm một số mặt hàng kim khí tiêu dùng, không đưa sản phẩm kém chất lượng ra bán trên thị trường.

Mở rộng công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí, khẩn trương chuẩn bị khai thác, phấn đấu sớm có sản lượng dầu thô. Đưa mỏ khí Tiền Hải C vào hoạt động để tăng sản lượng khí phục vụ việc phát điện và các nhu cầu khác. Bảo đảm tiến độ các hạng mục công trình khu vực Vũng Tàu kịp phục vụ công tác thăm dò, khai thác dầu khí.

Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò các khoáng sản. Ưu tiên các điều kiện vật chất cho việc tìm kiếm, thăm dò các nguyên liệu, khoáng sản đang có yêu cầu cấp bách.

Về xi măng: bảo đảm cung cấp nguyên liệu và điện ổn định cho các nhà máy xi măng, giải quyết đồng bộ các khâu sản xuất, bao bì và vận tải để nâng cao năng lực sản xuất, trước hết là xe vận chuyển xi măng rời để nâng tỷ lệ sử dụng xi măng rời. Cân đối thêm sà lan chuyên dùng để chở đá và cờlanhke. Bộ Giao thông vận tải cùng Bộ Xây dựng có phương án cụ thể vận tải xi măng và cờlanhke từ miền Bắc vào miền Nam.

Chú trọng đẩy mạnh hơn nữa các loại vật liệu xây dựng khác như gạch, ngói, đá chẻ và các vật liệu xây dựng không nung ở tất cả các địa phương, để đáp ứng yêu cầu xây dựng của nhân dân.

Về công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông sản thực phẩm, phải tập trung các điều kiện vật chất cần thiết để sản xuất một số mặt hàng chủ yếu như vải, giấy viết, thuốc chữa bệnh và các sản phẩm xuất khẩu... Đồng thời, phát huy mọi tiềm năng của các xí nghiệp trung ương và địa phương, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, thực hiện liên kết kinh tế để mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng.

Do nguồn bông và sợi hạn chế, nên sản lượng vải giữ mức sản xuất như năm 1985, nhưng tăng mức sản xuất vải màn, khăn mặt và chuyển cơ cấu vải vừa phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội về chủng loại và màu sắc, vừa tăng giá trị sản phẩm. Khôi phục các nghề ươm tơ dệt vải thủ công.

Sản lượng giấy tăng 9%. Bảo đảm đủ giấy viết cho học sinh; đặc biệt chú ý sản xuất giấy in sách, báo. Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Lâm nghiệp và các địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc bảo đảm nguyên liệu cho các nhà máy giấy để tăng sản lượng giấy hơn nữa. Tổ chức lại việc cung cấp nguyên liệu thô (tre, nứa, gỗ) cho Nhà máy Giấy Vĩnh Phú.

Sản lượng đường năm 1986 tăng 5,5%, chè chế biến tăng 16%, đồ hộp tăng 13%, thuốc lá điếu tăng 2%. Tăng mức sản xuất các mặt hàng kim khí tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản phẩm các loại đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ, thủy tinh, đồ nhựa, hàng cói, mây tre, bảo đảm dụng cụ học tập cho học sinh và các mặt hàng thông thường như nón, mũ, giầy dép cho nhân dân.

III- GIAO THÔNG VẬN TẢI VÀ BƯU ĐIỆN

Hoàn thành việc sắp xếp sản xuất và phân bổ lại lao động trong toàn ngành Giao thông Vận tải - Bưu điện.

Phấn đấu tăng năng suất, hạ giá thành, giảm tiêu hao nhiên liệu, vật tư; tổ chức tốt công tác xếp dỡ ở các nút giao thông, nâng cao chất lượng vận tải hàng không. Bảo đảm các điều kiện vật chất để huy động cao nhất các phương tiện vận tải, nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải trong nước, ngoài nước, trước hết, bảo đảm nhiệm vụ vận chuyển những mặt hàng chủ yếu như lương thực, than, xi măng, phân bón, vận tải Bắc - Nam, hàng xuất khẩu, hàng biên giới... Chống mất mát hàng hóa khi vận chuyển. Đồng thời, tổ chức tốt việc đi lại của nhân dân, tránh mọi phiền hà, tiêu cực.

Đối với đường sắt, bảo đảm đủ than cho chạy tàu, huy động tối đa số đầu máy và toa xe hiện có. Tăng thêm kho ở một số ga để nhận hàng lẻ, làm thêm đường ga và nâng cao chất lượng đường sá. Phấn đấu tăng nhanh quay vòng toa xe.

Về đường biển, tiếp tục nạo vét khu vực cảng Hải Phòng, cảng Cửa Lò, các cửa biển và cửa sông. Xác định nguồn hàng để bố trí hợp lý và chủ động các tàu biển chạy trong nước và ngoài nước. Tăng phương tiện biển pha sông vào thẳng cảng Hà Nội và các tỉnh miền Tây Nam bộ.

Chú trọng vận tải đường sông kể cả các phương tiện cơ giới và thô sơ; tận dụng tiềm năng về sức gió, sức nước, luồng lạch, sông ngòi sẵn có. Đưa hàng hóa lên Tuyên Quang, Hòa Bình, Việt Trì, v.v. để tạo chân hàng thuận tiện cho các tỉnh miền núi biên giới.

Tăng nhanh vận tải thô sơ ở các tuyến huyện, xã, v.v. tổ chức tốt đại lý để khai thác hàng hai chiều, khuyến khích kéo moóc. Tiến hành sắp xếp lại lực lượng ôtô hiện có của các cấp, các ngành; chỉ trang bị thêm khi đã tính toán kỹ hiệu quả.

Bảo dưỡng, sửa chữa tốt các phương tiện vận tải của ngành Hàng không dân dụng và cải tiến phục vụ ở sân bay, nâng cao chất lượng phục vụ, mở mang các dịch vụ để tăng thu ngoại tệ.

Phấn đấu tăng giá trị nghiệp vụ bưu điện. Tập trung xây dựng dứt điểm một số công trình bưu điện đưa vào khai thác trong năm 1986 như đường giây thông tin Hà Nội - Minh Hải, đường cáp đối xứng Hà Nội - Quảng Ninh, đài Hoa Sen 2.

Nâng cao chất lượng thông tin liên lạc phục vụ cho nhu cầu sản xuất, đời sống, an ninh, quốc phòng.

IV- ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1986 cần tập trung vào các công trình trọng điểm, chấm dứt tình trạng đầu tư dàn đều. Bằng mọi cách triệt để tiết kiệm, chống lãng phí để giảm ít nhất 10% chi phí xây lắp và các chi phí khác trong xây dựng cơ bản. Đồng thời, động viên các nguồn vốn của địa phương, xí nghiệp, hợp tác xã và của nhân dân "Trung ương và địa phương cùng làm" nhưng phải đưa vào kế hoạch và bảo đảm nguồn vật liệu xây dựng đủ để cân đối, tránh tình trạng dùng vật liệu xây dựng của công trình trọng điểm vào các công trình khác. Huy động lao động nghĩa vụ trong thanh niên và lực lượng quân đội vào việc khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới, trồng rừng, làm đường sá, thủy lợi, xây dựng các trạm thủy điện, các xí nghiệp, bệnh viện, trường học của địa phương. Bằng các biện pháp đó, tuy vốn tập trung của Nhà nước có hạn, nhưng sẽ đạt được khối lượng xây dựng chung của nền kinh tế tăng hơn năm 1985.

Vốn đầu tư năm 1986 được bố trí theo thứ tự như sau:

- Ưu tiên cho các công trình trọng điểm chuyển tiếp quan trọng nhất về than, điện, dầu khí, hóa chất, cơ khí, giao thông vận tải, cho công trình hợp tác với nước ngoài, cho mục tiêu sử dụng lao động, đất đai.

- Chú trọng đầu tư đồng bộ hóa, đầu tư chiều sâu có chọn lựa, bảo đảm tận dụng công suất các xí nghiệp hiện có.

- Kiên quyết đình hoặc dãn tiến độ xây dựng những công trình hoặc hạng mục công trình chưa thật cấp thiết; không đầu tư đối với những công trình chưa có luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt; kiểm tra chặt chẽ việc khởi công công trình mới, kể cả công trình bằng vốn tự có của địa phương và cơ sở để tránh việc phân tán vốn, gây lãng phí. Bảo đảm mức vốn đầu tư cho việc xây dựng Thủ đô Hà Nội.

Theo hướng trên, cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản trong năm 1986 dự kiến như sau:

Vốn đầu tư vào công nghiệp chiếm 39,9% trong tổng số. Tập trung cho nhà máy thủy điện Hòa Bình và Trị An để có thể huy động tổ máy I vào năm 1987, cho công trình dầu khí Vũng Tàu và các mỏ than. Tiếp tục đầu tư các Nhà máy Điện Phả Lại, xi măng Hà Tiên, cơ khí trung tâm Cẩm Phả, sửa chữa ôtô mỏ, sợi Huế, liên hiệp thiếc Quỳ Hợp...

Vốn đầu tư vào nông, lâm nghiệp năm 1985 chiếm 24,2%, năm 1986 chỉ mới nâng lên được đến 26,5%, trước hết nhằm thực hiện mục tiêu lương thực và phân bổ lao động, khai hoang trồng cây công nghiệp dài ngày. Ưu tiên vốn trước hết cho thủy lợi, bảo đảm hoàn thành công trình theo đúng tiến độ đã xác định cho năm 1986; vốn của Trung ương tập trung cho các công trình đầu mối và hỗ trợ một phần vật tư để các địa phương làm các kênh mương cấp 3, kênh mương, cống nội đồng. Huy động mọi nguồn vốn bảo đảm diện tích trồng mới cao su, cà phê, chè, cây đặc sản, diện tích trồng rừng, điều dân đi xây dựng vùng kinh tế mới và định canh, định cư.

Về giao thông vận tải và bưu điện liên lạc: vốn đầu tư cho giao thông vận tải và bưu điện chiếm 16%, chủ yếu tập trung cho các đầu mối giao thông, các tuyến đường phục vụ quốc phòng, mở mang các vùng kinh tế lớn.

Trong các lĩnh vực khác, bảo đảm vốn xây dựng 15 vạn tấn kho lương thực; chú trọng đầu tư cho việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; dành vốn đầu tư xây dựng nhà ở của Hà Nội, của vùng than, và đầu tư cho các tỉnh biên giới, Tây Nguyên. Các ngành, các cấp cần rà xét kỹ danh mục đầu tư, tập trung điều kiện cho các công trình chủ yếu nhất.

V- XUẤT, NHẬP KHẨU VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ
VỚI NƯỚC NGOÀI

Coi trọng việc đầu tư để tạo thêm năng lực mới hoặc công suất mới sản xuất hàng xuất khẩu trong nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp, bảo đảm cung ứng vật tư cho sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu, tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các chính sách đã ban hành về xuất, nhập khẩu và kinh tế đối ngoại, để khuyến khích mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu.

Sắp xếp và tổ chức tốt công tác xuất, nhập khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong xuất, nhập khẩu.

Dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng ít nhất 14%, kim ngạch nhập khẩu tăng 6%. Mức xuất khẩu này còn thấp xa so với yêu cầu và khả năng, cần tiếp tục khai thác các nguồn để bổ sung. Những mặt hàng chiến lược quan trọng như cao su, cà phê, chè, lạc, dầu dừa, v.v. địa phương có nhiệm vụ giao sản phẩm cho Trung ương theo kế hoạch để bảo đảm các cam kết quốc tế. Nhà nước bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho người sản xuất và các địa phương.

Xúc tiến thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa theo các hiệp định đã ký kết trong kế hoạch 5 năm 1986 -1990. Mở rộng hợp tác kinh tế với Lào và Campuchia trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau; các hoạt động hợp tác liên kết giữa hai nước và giữa các tỉnh, thành của ta với các tỉnh, thành của bạn đều phải được thể hiện và cân đối trong kế hoạch của các cấp.

Khuyến khích các ngành sản xuất vay vốn bên ngoài hoặc liên kết với các địa phương để tăng thêm khối lượng và mặt hàng xuất khẩu. Mọi hoạt động xuất, nhập khẩu của địa phương và ngành đều phải được quản lý chặt chẽ, đưa vào kế hoạch. Hết sức tiết kiệm ngoại tệ, cấm nhập hàng xa xỉ, hàng tiêu dùng cao cấp và những mặt hàng mà khả năng trong nước có thể sản xuất và cung cấp, dành ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất là chủ yếu.

Thay đổi quy chế, thủ tục nhập cảnh, cải tiến dịch vụ hàng hải, hàng không để vừa bảo đảm an ninh, vừa tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh công tác du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ. Chấn chỉnh lại công tác xuất khẩu lao động kỹ thuật, tổ chức tốt công tác kiều hối để thu hút người nước ngoài và Việt kiều bỏ vốn kinh doanh, sản xuất hoặc gửi ngoại tệ về nước phục vụ sản xuất.

VI- PHÂN PHỐI, LƯU THÔNG VÀ ĐỜI SỐNG

Tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng đắn các chủ trương của Đảng và Nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề về giá - lương - tiền. Trước mắt phải:

- Trên cơ sở phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, Nhà nước làm chủ thị trường, phấn đấu nhanh chóng ổn định giá cả để ổn định đời sống và thúc đẩy sản xuất phát triển.

Giữ hệ thống giá mới do Nhà nước vừa quy định. Phải trên nguyên tắc lấy giá thóc làm chuẩn và quan hệ tỷ giá đúng đắn giữa nông sản và hàng công nghiệp mà tiếp tục xác định các loại giá và sửa lại một số giá không hợp lý. Trung ương cũng như các địa phương phải quản lý và kiểm tra chặt chẽ các cơ quan và các tổ chức sản xuất, kinh doanh trong việc quy định giá và chấp hành giá; phải công bố giá bán vật tư, giá bán những mặt hàng tiêu dùng của Nhà nước cho người tiêu dùng biết; bảo đảm bán đúng giá đã quy định; nghiêm trị bọn đầu cơ, nâng giá, phá giá, gây rối loạn thị trường.

- Tổ chức và sắp xếp lại thương nghiệp, giảm mạnh khâu trung gian, tổ chức lại công tác thu mua để Nhà nước nắm được phần lớn hàng hóa nông, lâm, thủy sản và hàng thủ công nghiệp, nắm toàn bộ sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh... bảo đảm cho Nhà nước làm chủ thị trường, nắm 90% bán buôn và 70% bán lẻ, đối với 30% bán lẻ còn lại cũng phải tổ chức theo các ngành hàng, dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.

Mở rộng mạng lưới bán lẻ và dịch vụ. Các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh liên kết với các tỉnh lân cận, tổ chức tốt việc cung ứng các loại nông sản thực phẩm cung cấp cho thành phố. Đối với các thị trấn, thị xã, mở thêm nhiều cửa hàng cho các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán kinh doanh. Tổ chức phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng với giá cả được công bố rõ ràng.

Với hướng trên, dự kiến hầu hết các mặt hàng thu mua huy động và bán lẻ đều tăng khá so với năm 1985.

- Cải tiến công tác tài chính, ngân hàng, làm cho công tác này thực sự là đòn bẩy, là công cụ phục vụ và thúc đẩy sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân, giảm bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt.

Sửa đổi các chính sách về tài chính nhằm bảo đảm cho ngân sách tập trung được các nguồn thu lớn ổn định; bổ sung chính sách thuế xuất, nhập khẩu, thuế hải quan, thuế hàng hóa, định mức lợi nhuận và phân phối lợi nhuận.

Soát xét chặt chẽ các mức tiêu hao vật tư, năng lượng, lao động và loại trừ các chi phí không hợp lý để giảm ít nhất 10% giá thành và phí lưu thông.

Hết sức tiết kiệm các khoản chi tiêu hành chính. Giảm 15-20% kinh phí hành chính so với năm 1985, giảm đến mức tối đa việc mua sắm trang bị của cơ quan, xí nghiệp.

Quản lý chặt chẽ việc bù lỗ cho sản xuất, kinh doanh. Đối với một số cơ sở trong trường hợp cá biệt còn phải bù lỗ thì cần nhanh chóng sắp xếp lại sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, phấn đấu giảm dần và tiến tới xóa bỏ bù lỗ.

Ngân hàng phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiền mặt cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh và đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ sản xuất và xây dựng cơ bản, nhưng phải quản lý chặt chẽ.

VII- KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT

Tổ chức và sử dụng có hiệu quả hơn tiềm lực khoa học và kỹ thuật hiện có, bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học - kỹ thuật, hướng tập trung vào phục vụ những nhiệm vụ chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách của sản xuất, đời sống và quốc phòng, trước hết là lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu cho xã hội, hàng xuất khẩu và các sản phẩm công nghiệp trọng điểm, tạo ra nguồn nguyên liệu thay thế và vật liệu mới, cải tiến tổ chức và chính sách để có thể áp dụng nhanh chóng vào sản xuất các thành tựu khoa học - kỹ thuật đã có kết luận.

 Xác định các mức tiến bộ kỹ thuật về nông lâm và lâm nông kết hợp, nhằm sử dụng có hiệu quả lao động, đất đai và tài nguyên, phát triển thế mạnh về cây công nghiệp, về chăn nuôi và các đặc sản khác. Đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật trong các lĩnh vực thủy sản và các tài nguyên về biển.

Tiếp tục công tác điều tra cơ bản tổng hợp phục vụ đắc lực việc xây dựng chính sách sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Công tác này cần được tiến hành có định hướng và có trọng điểm, đề xuất cho được những phương án phân vùng, quy hoạch cho từng vùng lãnh thổ, từng huyện.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và thực hiện các biện pháp đồng bộ để sớm có công nghệ thích hợp nhất cho từng ngành, từng cơ sở sản xuất, kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống.

Kiện toàn và tổ chức lại các lực lượng khoa học và kỹ thuật, hoàn chỉnh cơ chế quản lý về khoa học và kỹ thuật, từng bước áp dụng chế độ hạch toán trong các hoạt động khoa học.

Mở rộng quyền chủ động, nhất là về tài chính, cho các cơ quan nghiên cứu khoa học và kỹ thuật theo hướng ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, liên kết và liên doanh với các cơ sở sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy có hiệu quả việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.

VIII- DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG

Năm 1986, phải có một bước chuyển thật mạnh trong việc sử dụng và phân bổ lao động xã hội. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, phải phát huy cao nhất vốn lao động, phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước, tập trung đất đai và phát triển ngành, nghề, làm tăng thêm nguồn vốn cho công cuộc xây dựng kinh tế và đời sống nhân dân.

Năm 1986, phải giải quyết thêm việc làm cho 1,3 triệu người.

Ngay từ đầu năm 1986, phải sắp xếp lại tổ chức và bộ máy của Nhà nước, và các đoàn thể ở Trung ương và các tỉnh, thành phố, tinh giản bộ máy hành chính sự nghiệp và bộ máy gián tiếp của các cơ sở sản xuất, phấn đấu bảo đảm cho mọi người có sức lao động đều có việc làm, và làm với năng suất, chất lượng, hiệu quả. Các ngành, các địa phương và cơ sở cần khẩn trương soát xét lại tổ chức bộ máy theo hướng gọn nhẹ, xóa ngay cấc cấp trung gian, chuyển số người dôi ra sang khu vực sản xuất, dịch vụ.

Đi đôi với việc sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý, cần tăng cường quản lý chặt chẽ lao động, đồng thời giải quyết các chính sách cụ thể như sửa chế độ biên chế cố định, thực hiện chế độ hợp đồng lao động, khuyến khích công nhân viên chức đi các vùng kinh tế mới...

Các thành phố, thị xã cần mở mang công nghiệp địa phương, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, mở rộng việc gia công hàng xuất khẩu, chế biến lương thực, thực phẩm và phát triển mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, v.v. đồng thời, động viên một số lao động đi các vùng ngoại thành, vùng kinh tế mới. Sớm thu hút hết số lao động chưa có việc làm.

Các địa phương còn lao động và còn đất chưa sử dụng cần sắp xếp, sử dụng phần lớn lao động trong nội huyện, nội tỉnh, theo hướng liên kết giữa xã với xã, huyện với huyện, mở thêm cơ sở hợp tác, vừa phát triển kinh tế tập thể vừa phát triển kinh tế gia đình.

Một hướng cực kỳ quan trọng là phải chuyển mạnh trong việc đưa lao động đi khai khẩn các vùng đất mới, theo quy hoạch trong phạm vi cả nước, theo hướng nơi dễ làm trước, nơi khó làm sau "dựa vào sức dân là chính, có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước". Năm 1986, bố trí lực lượng lên trước các địa bàn định mở mang, chủ yếu là Tây Nguyên và các tỉnh biên giới phía Bắc để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất, đồng thời chuyển ngay một số dân lên, song phải chuẩn bị hết sức tích cực để mùa khô năm 1986-1987 và năm 1987, đón dân lên với số lượng lớn hơn. Cơ cấu lao động đưa đi phải bố trí đồng bộ từ cán bộ lãnh đạo Đảng, đoàn thể, quản lý, kỹ thuật đến ngành nghề theo phương hướng sản xuất của mỗi vùng.

Năm 1986, sẽ điều 65-70 vạn người đi các vùng kinh tế mới, trong đó đi trong nội tỉnh, nội huyện 45-50 vạn người, đi ngoài tỉnh 20 vạn người. Cũng trong năm 1986, định canh định cư 28 vạn đồng bào dân tộc với khoảng 5 vạn hộ, tăng trên 5.000 hộ so với năm 1985.

Những công việc cần làm để phân bổ lao động năm 1986 có hiệu quả và chuẩn bị cho các năm sau là:

- Xúc tiến việc chuẩn bị để sớm ban hành Pháp lệnh nghĩa vụ lao động và các chính sách khác nhằm bảo đảm mọi người trong độ tuổi lao động và có sức lao động đều có việc làm và phải làm việc có ích cho xã hội.

- Phân công rõ địa bàn để tổ chức việc liên kết giữa các huyện, tỉnh của đồng bằng Bắc bộ, khu IV, khu V với các huyện của ba tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh biên giới phía Bắc. Khi xác định địa bàn, trước hết phải ưu tiên cho công tác định canh, định cư của đồng bào dân tộc.

- Sửa đổi chính sách đầu tư theo hướng phân cấp cho tỉnh, huyện, dùng vốn của địa phương và nhân dân đóng góp là chủ yếu theo phương châm "Trung ương và địa phương cùng làm", "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Vốn của Trung ương sẽ tập trung hỗ trợ cho các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, cho nhiệm vụ lấn biển và một số địa phương gặp nhiều khó khăn. Giao cho các địa phương quản lý thống nhất trên toàn địa bàn các nguồn vốn nông, lâm nghiệp, thủy lợi, định canh, định cư, kinh tế mới, xây dựng cơ sở hạ tầng...

- Cải tiến công tác chỉ đạo thực hiện việc phân bổ lao động. Sớm hình thành tổ chức để phụ trách thống nhất công tác này ở Trung ương và địa phương.

Quy định rõ trách nhiệm: Trung ương xây dựng kế hoạch, chính sách và chỉ đạo thực hiện; tỉnh, huyện là cơ quan trực tiếp điều hành phân bổ lao động trong nội địa và đi xa. Ban hành những chính sách cụ thể để có thể thu hút công nhân viên chức, quân nhân hết hạn nghĩa vụ, lao động kỹ thuật và gia đình họ đến xây dựng các vùng kinh tế mới.

Tăng thêm các điều kiện, phương tiện cần thiết và bổ sung các chế độ, chính sách để giảm mạnh tốc độ tăng dân số năm 1986.

IX- GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO, VĂN HÓA, XÃ HỘI

Về giáo dục, tiếp tục thực hiện tốt chương trình cải cách giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục, đẩy mạnh hơn nữa giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề ở các trường phổ thông trung học. Tổng số học sinh đến tuổi vào trường tăng 2%.

Về đào tạo, tiếp tục triển khai việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, phân công đào tạo hợp lý theo tinh thần Nghị quyết 73 và Chỉ thị 110 của Hội đồng Bộ trưởng.

Cải tiến chế độ tuyển sinh cho năm học 1986-1987 nhằm gắn chặt hơn nữa đào tạo với bố trí sử dụng ở các vùng, các địa phương, cán bộ của cấp huyện do cấp huyện tự chọn lựa và cử đi học phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi huyện.

Dự kiến năm học 1986 -1987 tuyển sinh đào tạo đại học và cao đẳng tăng 8%, trung học chuyên nghiệp tăng 7%, công nhân kỹ thuật tăng 19%.

Về văn hóa và thông tin, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa và nghệ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nhiệm vụ giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người mới. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin và tuyên truyền theo nội dung hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng nếp sống mới xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống hủ tục mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội.

Quản lý chặt chẽ hơn nữa công tác xuất bản và sử dụng giấy in, phấn đấu tăng thêm sách giáo khoa cho học sinh, tăng mức xuất bản báo Nhân dân, Quân đội nhân dân. Dự kiến sách, báo xuất bản tăng 5% so với năm 1985.

Về y tế, xã hội, nâng cao chất lượng phục vụ của mạng lưới y tế hiện có, tăng cường vệ sinh phòng dịch, kịp thời phát hiện và dập tắt các ổ dịch, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Cố gắng đáp ứng các nhu cầu vật chất cho các cơ sở y tế, bảo đảm cho các trạm y tế có thể quản lý, khám bệnh, chữa bệnh kịp thời cho nhân dân. Mở rộng việc khám bệnh, chữa bệnh tại nhà. Bảo đảm nhu cầu cho các cơ sở nuôi dưỡng thương binh. Tổng số giường bệnh tăng 4,6% so với năm 1985.

Phát triển mạnh cây dược liệu để sản xuất các loại thuốc thông thường chữa bệnh cho nhân dân, đồng thời, dành một số ngoại tệ cần thiết để nhập thêm nguyên liệu sản xuất thuốc kháng sinh.

Thực hiện tốt các chính sách, chế độ và các biện pháp về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, người về hưu, giúp đỡ những người có khó khăn trong đời sống.

 Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng nhà trẻ. Năm 1986, phấn đấu bảo đảm cho 1,2 triệu cháu được thu nhận vào nhà trẻ, tăng 4,3% so với năm 1985.

Về thể dục thể thao: phát huy thắng lợi của Đại hội thể dục thể thao lần thứ nhất, mở rộng cuộc vận động rèn luyện thân thể trong nhân dân, chú trọng các môn thể thao truyền thống. Từng bước xây dựng các đội tuyển quốc gia, tạo điều kiện cho các cuộc thi đấu quốc tế. Chú ý xây dựng các cơ sở thể dục thể thao phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương.

X- VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG

Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội phải tích cực tạo nên sức mạnh bảo đảm an ninh quốc phòng. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1986.

Phấn đấu bảo đảm cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho các lực lượng vũ trang. Các mặt hàng sản xuất và cung cấp cho nhu cầu quốc phòng phải được ưu tiên cân đối vật tư, năng lượng như những sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Cải tiến mặt hàng sản xuất, cung cấp cho quân đội phù hợp với yêu cầu chiến đấu, thuận tiện sử dụng, vận chuyển, bảo quản.

Tổ chức tốt việc quân đội làm kinh tế trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, xây dựng cơ bản, xây dựng thủy lợi, thủy điện, xây dựng các công trình văn hóa ở địa phương, có kế hoạch và bảo đảm tính toán hiệu quả kinh tế, giao nộp sản phẩm hàng hóa và nộp ngân sách nhà nước. Tổ chức lại sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất của các xí nghiệp quốc phòng để vừa sản xuất cho quốc phòng, vừa sử dụng thích đáng năng lực của các xí nghiệp quốc phòng và lao động kỹ thuật để sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu.

*
*       *

Nhìn chung lại, kế hoạch năm 1986 được bố trí theo hướng cân đối đồng bộ, tập trung cho những sản phẩm trọng yếu và các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm của nền kinh tế quốc dân. Ngoài phần Trung ương cân đối, sẽ mở cơ chế để các ngành, địa phương tự cân đối thêm để tăng sản phẩm. Nhưng kế hoạch này chưa tính toán được hết hiệu quả của việc sắp xếp lại sản xuất và đẩy mạnh tiết kiệm của địa phương và cơ sở. Đây là một nhược điểm lớn và sẽ được bổ sung trong quá trình điều hành kế hoạch.

Với kế hoạch bố trí như trên, dự kiến giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 8,8% so với năm 1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8,9%, kim ngạch xuất khẩu tăng 14%..., tổng sản phẩm xã hội tăng 7,9%, thu nhập quốc dân tăng 8,8%.

PHẦN THỨ TƯ

ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HÓA, TĂNG CƯỜNG
CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Để bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nêu trên, về mặt tổ chức, quản lý, cần triển khai đồng thời và làm tốt những việc có tính chất cấp bách sau đây:

1. Kế hoạch năm 1986 chưa phát huy đúng mức các tiềm năng của cơ sở và huyện, vì vậy phải thực hiện một bước đổi mới rõ rệt công tác kế hoạch hóa gắn với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, rà xét lại và bổ sung kế hoạch. Ủy ban Kế hoạch nhà nước sớm có hướng dẫn về việc này.

 Trước mắt, sửa đổi bổ sung một số điểm như sau:

 - Xác định lại danh mục các sản phẩm trọng yếu và các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm Nhà nước, để tập trung cân đối đồng bộ và chặt chẽ hơn.

 - Sửa đổi, bổ sung chế độ kế hoạch hóa và hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh nhằm bảo đảm quyền chủ động của cơ sở và huyện, trên cơ sở bảo đảm cho Trung ương nắm các chỉ tiêu chủ yếu, có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế quốc dân.

 Tinh thần trên đây phải được thể hiện ngay trong việc chuẩn bị xây dựng kế hoạch năm 1987 của các ngành, các địa phương, nhất thiết phải bảo đảm cho kế hoạch thực sự xây dựng cơ sở, huyện lên. Kế hoạch của mỗi tỉnh, thành phố phải bao gồm đủ hai bộ phận: một bộ phận là tổng hợp kế hoạch của các huyện và một bộ phận là tổng hợp kế hoạch của các ngành.

 2. Trong năm 1986, phải hình thành được cơ chế quản lý mới trên hai mặt: bảo đảm quyền chủ động của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, xác định và tăng cường chức năng quản lý hành chính - kinh tế của bộ máy nhà nước các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đây là biện pháp quan trọng bậc nhất để bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1986 và các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong những năm tới.

 3. Tăng cường công tác chỉ đạo và điều hành thực hiện kế hoạch.

Kế hoạch đã được Quốc hội thông qua trở thành một đạo luật. Vì vậy, phải chỉ đạo và điều hành theo kế hoạch, tập trung đồng bộ cho những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch, chấm dứt việc điều hành không theo kế hoạch. Thống nhất và tập trung điều hành vào Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban nhân dân các cấp.

Chỉ đạo chặt chẽ việc sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, xây dựng gắn với việc cải tạo, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và phân công, phân cấp trong từng ngành kinh tế, kỹ thuật và trên từng vùng lãnh thổ.

Tổ chức nghiên cứu và ban hành gấp một số chính sách, trước hết là chính sách về xuất khẩu và quản lý ngoại tệ, chính sách về khuyến khích thực hành tiết kiệm trong sản xuất và xây dựng, chính sách khuyến khích sử dụng lao động, đất đai, khai thác các vùng kinh tế mới...

Kiện toàn hệ thống thông tin kinh tế, phản ảnh kịp thời, đầy đủ, chính xác các hoạt động sản xuất, kinh doanh làm cơ sở cho việc xây dựng và điều hành kế hoạch.

4. Năm 1986, phải thi hành các nghị quyết của Đảng về kiện toàn tổ chức bộ máy, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ, sửa đổi lề lối làm việc của các Bộ, Tổng cục và từng cơ sở. Có chính sách thu hút cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế đi xuống cơ sở, đi tới các vùng kinh tế mới, miền núi, Tây Nguyên. Thực hiện ngay việc tinh giản bộ máy hành chính, biên chế gián tiếp ở cơ sở, thực hiện sự phân cấp quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới của cơ chế quản lý. Sắp xếp lại bộ máy các cơ quan các cấp, xóa ngay các cấp trung gian, bỏ các tổ chức bất hợp lý, chuyển cán bộ tăng cường cho huyện, quận và cơ sở.

5. Phát động rộng rãi phong trào cách mạng của nhân dân lao động, của các cấp quản lý, nhằm phát huy ý chí tự lực tự cường, ra sức lao động sản xuất và thực hiện triệt để tiết kiệm trong sản xuất và đời sống, học tập và vận dụng những kinh nghiệm tốt và cách làm hay của những huyện và cơ sở, động viên sức mạnh tổng hợp của Nhà nước và nhân dân, khai thác tốt nhất các khả năng thực tế về lao động, đất đai, v.v. khuyến khích các ngành và địa phương chủ động tìm kiếm ngoại tệ, vật tư, nguyên liệu, v.v. để tăng sản xuất, góp phần giải quyết các mất cân đối của nền kinh tế.

Phát huy vai trò và trách nhiệm của toàn thể nhân dân trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, phối hợp chặt chẽ hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể để đẩy mạnh ngay từ đầu năm phong trào thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1986.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh năm 1986, năm mở đầu của kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, nhiệm vụ ấy rất lớn và cấp bách. Các ngành, các địa phương, các cơ sở và huyện phải tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, 7, 8 và 9 của Ban Chấp hành Trung ương, toàn dân và toàn quân ta phải phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực tự cường và đoàn kết quốc tế, với ý thức hết sức năng động, sáng tạo, tích cực tìm kiếm các nguồn, khai thác tận lực các khả năng, để tiếp tục bổ sung kế hoạch năm 1986 đạt những mức phát triển cao hơn.

Hội đồng Bộ trưởng không cho rằng nhiệm vụ đã đề ra trong kế hoạch là đơn giản trong thực tế tình hình khách quan và chủ quan của đất nước ta. Tuy nhiên, cũng không phải là những chỉ tiêu mà Hội đồng Bộ trưởng xin ý kiến Quốc hội lại không hiện thực. Đúng ra, như ở phần đầu báo cáo chúng tôi đề cập, những động lực dẫn đến tiến bộ của một số địa phương và xí nghiệp sau Nghị quyết 8 có cái không hoàn toàn thuộc phạm trù kinh tế, một cải cách nhỏ về hành chính và quản lý, một thay đổi nhỏ về nhân sự có thể cho một xí nghiệp đà vươn lên rõ rệt. Trong thực tế, có những xí nghiệp, địa phương chỉ qua một số thay đổi về tổ chức quản lý đã giảm được giá thành, tăng mức sản xuất, chất lượng tốt hơn. Nghĩa là, chúng ta còn một vùng đất khá rộng để thi thố, để phát huy.

Kế hoạch năm 1986 trình bày trước Quốc hội hôm nay còn có chỗ chưa đủ tích cực và vững chắc, chúng tôi còn tiếp tục bổ sung trong quá trình thực hiện. Có thể có đồng chí đại biểu Quốc hội hoài nghi về triển vọng của việc thực hiện kế hoạch 1986 do sai sót như vừa qua của cơ quan điều hành. Chúng tôi không dám hứa sẽ không phạm sai sót nữa, nhưng chúng tôi dám hứa: mọi sai sót một khi được báo hiệu sẽ được phân tích, phê phán và khắc phục trên tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình với ý thức trách nhiệm của những người điều hành, trước hết của chúng tôi - Hội đồng Bộ trưởng.

Có lẽ chúng ta đều nhất trí với nhau rằng kỳ họp Quốc hội lần này sẽ thiết thực chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta bằng tinh thần đó.

Xin cám ơn các đồng chí.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.