BÁO CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1985
(Do ông Võ Văn Kiệt, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa VII, ngày 21-12-1984)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Thưa các vị khách quốc tế,
Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin trình bày trước Quốc hội bản báo cáo về "phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1985".
Báo cáo gồm ba phần:
1. Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984.
2. Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1985.
3. Một số biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1985.
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1984
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Năm 1984 thực sự là một trong những năm thiên tai gay gắt nhất đối với nhân dân ta, kể từ ngày đất nước ta hoàn toàn giải phóng. Thiên tai xảy ra ở cả ba miền: trận lụt ở Nam bộ tuy mức nước chưa cao bằng trận lụt năm 1978, nhưng nước rút chậm, ngập kéo dài; gió xoáy ở miền Trung và úng lụt ở đồng bằng Bắc bộ và Hà Nội đã gây nên những thiệt hại to lớn. Nếu tính cả những thiệt hại do đầu năm rét đậm kéo dài và sâu bệnh tràn lan thì có thể nói năm nay là một năm thiên tai nặng nề nhất. Lúa chiêm xuân mất ước 17 vạn tấn, vụ mùa mất khoảng 60 đến 70 vạn tấn, chưa kể những tài sản khác thiệt hại tới hàng chục tỷ đồng. Cùng với khó khăn của thiên tai, kẻ địch không ngừng tăng cường các thủ đoạn của loại chiến tranh phá hoại nhiều mặt và từ tháng 4 năm 1984, chúng tiến hành kiểu chiến tranh lấn chiếm trên tuyến biên giới phía Bắc, gây thêm những khó khăn cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của nhân dân ta. Thế nhưng, toàn dân ta đã vững vàng vượt qua thử thách một cách thắng lợi: nổi bật nhất là sau những tai biến lớn đó, sản xuất được khôi phục và đời sống được ổn định nhanh chóng, trật tự, an ninh được giữ vững.
Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nói chung có phát triển hơn so với năm 1983.
Trên mặt trận nông nghiệp, sản xuất lương thực vụ đông - xuân và hè - thu tăng hơn 1 triệu tấn so với cùng kỳ năm 1983, nhưng thiên tai vụ mùa quá nặng nên sản lượng lương thực cả năm chỉ tăng trên 30 vạn tấn so với năm 1983, và đạt 96% kế hoạch.
Diện tích cây công nghiệp tuy mới đạt 86% kế hoạch, nhưng tăng 9% so với năm 1983. Một số cây quan trọng tăng khá như lạc tăng 23%, thuốc lá tăng 28%, cao su tăng 32%, cà phê tăng 36%...
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhìn chung đạt và vượt kế hoạch, nhất là chăn nuôi gia đình. Đàn lợn đạt 100% kế hoạch, đàn trâu đạt 99,6%, đàn bò đạt 102%, đàn gia cầm đạt 101%. So với năm 1983, đàn lợn tăng 7%, đàn trâu tăng 4%, đàn bò tăng 7%, đàn gia cầm tăng 10%.
Sản lượng cá đạt 102,7% kế hoạch và tăng 6,3% so với năm 1983, trong đó cá biển đạt 102% và tăng 5%, cá nước ngọt, nước lợ tăng 10%. Phong trào nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển, diện tích nuôi tôm xuất khẩu tăng khá nhanh.
Diện tích trồng rừng tập trung vượt kế hoạch 29%, tăng 15% so với năm 1983, trong đó các loại cây làm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất giấy, sợi tăng 48%, làm gỗ trụ mỏ tăng 30%. Đã giao trên 2 triệu ha đất rừng cho các hợp tác xã quản lý, một số nơi trồng và bảo vệ rừng khá tốt.
Như vậy, mặc dầu gặp thiên tai nặng nề, nông nghiệp vẫn giành được thắng lợi trên cả các mặt: lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, trồng rừng, nghề cá phát triển đồng đều và có nhịp độ cao hơn các năm trước. Đáng chú ý là sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp có bước phát triển mới, hình thành rõ nét các vùng cao sản lúa, các vùng tập trung chuyên canh cây công nghiệp. Có nhiều hợp tác xã, nhiều huyện xây dựng được các mô hình nông - lâm kết hợp, phân công lại lao động, phát triển ngành, nghề mới.
Trong sản xuất công nghiệp, tuy gặp nhiều khó khăn về năng lượng, nguyên liệu, phụ tùng, nhưng nhiều sản phẩm quan trọng vẫn đạt và vượt kế hoạch như điện đạt 101,5%, sà lan vận tải 138%, động cơ điện 117,6%, động cơ điêden 102%, sợi, vải và giấy đạt 100%, một số sản phẩm khác tuy không đạt kế hoạch nhưng vẫn tăng hơn năm 1983 như: phân lân đạt 85% (tăng 28% so với năm 1983), xi măng đạt 83,5% (tăng 46% so với năm 1983), thuốc lá điếu đạt 91% (tăng 10% so với năm 1983). Riêng than sạch đạt 81% kế hoạch và cũng chỉ bằng 84% sản lượng than năm 1983.
Điều đáng chú ý là sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V), Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành 20 văn bản chính sách và chế độ quản lý nhằm tháo gỡ những vướng mắc và phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của các ngành, địa phương và cơ sở; các chính sách này đã cụ thể hoá một bước nội dung và tinh thần của Nghị quyết 6, đã được các địa phương và cơ sở hưởng ứng rộng rãi nên đã góp phần tạo nên không khí mới, phong cách làm ăn mới và nảy nở nhiều mô hình mới về liên kết kinh tế, hợp tác sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chủ động tìm thêm nguồn vật tư, tận dụng công suất máy móc, thiết bị, phát triển mặt hàng mới. Thể hiện rõ rệt là giá trị sản lượng công nghiệp quý III/1984 so với quý III/1983 tăng 20%. Công nghiệp quốc doanh, nhất là quốc doanh Trung ương, đang đi vào thế phát triển ổn định hơn và đang tích cực vươn lên đáp ứng những nhu cầu ngày càng lớn của nông nghiệp về tư liệu sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm. Công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp của nhiều địa phương có bước chuyển biến mới. Giá trị sản lượng công nghiệp Hà Nội tăng 13%, Thành phố Hồ Chí Minh tăng 16,3% so với năm 1983.
Ngành Giao thông vận tải đã cố gắng cải tiến tổ chức và quản lý, tập trung sức giải quyết các khâu yếu, các mặt hàng và tuyến đường quan trọng. Khối lượng vận tải trong nước đạt 99% (nhưng so với năm 1983 tăng 6%), vận tải Bắc - Nam đạt 86,6% (so với năm 1983 tăng 13%). Riêng vận tải hàng nhập khẩu đạt 102% (so với năm 1983 tăng 12%).
Trên lĩnh vực xây dựng cơ bản, với số vốn và vật tư rất hạn chế, chúng ta đã tập trung hơn cho những mục tiêu then chốt của nền kinh tế và các công trình trọng điểm Nhà nước, nhiều công trình đạt được tiến độ thi công, chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả đầu tư. Năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên đáng kể, nhất là điện, xi măng, giấy, sợi, tăng năng lực tưới tiêu, tăng diện tích trồng mới cao su, cà phê, dừa...
Trong tình hình kinh tế và đời sống còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn cố gắng dành dụm để xây dựng những công trình lớn, có ý nghĩa cho nhiều năm sau, đó là các nhà máy thuỷ điện và nhiệt điện (như Sông Đà, Trị An, Phả Lại, Cầu Đỏ), là công trình dầu khí, các nhà máy xi măng cỡ lớn (như Bỉm Sơn và Hoàng Thạch), mở rộng các nhà máy sản xuất phân bón (apatít, phân lân), v.v.. Đối với ngành Than, cũng đã đầu tư một số vốn không nhỏ để cố gắng chặn mức sa sút về sản lượng. Về giao thông vận tải, cũng đang khẩn trương thi công cầu Thăng Long, cầu Chương Dương. Trong nông nghiệp, đáng chú ý là đầu tư để hình thành những vùng sản xuất lớn về cao su. Đó là mới kể những công trình đầu tư bằng vốn của Trung ương. Bên cạnh đó, các địa phương đều đã tập trung vốn cho việc xây dựng thuỷ lợi, làm đường sá, cầu cống, mở mang các cơ sở chế biến nông sản, làm hàng xuất khẩu và nhiều công trình phúc lợi. Có thể nói: tiếp sau năm 1983, trong năm 1984, phương châm "Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương cùng làm" đã được thể hiện khá nổi bật trong xây dựng cơ bản.
Việc phân bố lại lao động và dân cư được đẩy mạnh gắn liền với việc quy hoạch phân vùng kinh tế. Số lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới tăng 30% so kế hoạch và gần gấp đôi năm 1983, tập trung bảo đảm lao động cho các mục tiêu quan trọng như cao su, cà phê, các cây công nghiệp khác ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ. Đồng thời, việc phân bố lại lao động tại chỗ cũng được coi trọng trên địa bàn từng tỉnh, từng huyện. Giải quyết việc làm cho nhân dân ở các thành phố và thị xã có bước tiến triển mới, tích cực hơn.
Xuất khẩu mới đạt 89% kế hoạch, nhưng tăng 3% so với năm 1983, một số mặt hàng xuất khẩu tăng khá như lạc, đậu tương và đậu các loại, quả đông lạnh, đay và sản phẩm bằng đay, tôm, cá...
Công tác thu mua, nắm hàng quản lý thị trường và giá cả có tiến bộ rõ, nên mặc dù khối lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên do Nhà nước phải chi một số tiền lớn để trợ cấp đắt đỏ cho tiền lương (50 - 70% lương) và chi cho những vùng bị thiên tai nặng, nhưng giá cả không biến động nhiều so với các năm trước đây kể cả so với năm 1983. Một số mặt hàng thu mua tăng khá như thịt lợn, lạc, thuốc lá, cói, cá biển, cá nước ngọt, lợ... Cùng với việc nắm hàng, các địa phương đang tích cực tăng cường hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (cả quốc doanh và hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tiêu thụ), từng bước thực hiện Nhà nước thống nhất quản lý và kinh doanh những mặt hàng thiết yếu cho đời sống và cho xuất khẩu.
Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật đã có bước chuyển hướng thiết thực hơn nhằm phục vụ sản xuất, xây dựng và đời sống. Các tiến bộ kỹ thuật đang tiếp tục áp dụng có hiệu quả, nhất là việc ứng dụng giống mới cho một số cây trồng, vật nuôi. Hầu hết các chương trình khoa học - kỹ thuật trọng điểm đều được triển khai, nhiều đề tài đã được kết luận, một số tiến bộ kỹ thuật được đưa vào kế hoạch các cấp, các ngành.
Ngành Giáo dục phổ thông đã cố gắng phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học, bước đầu có chuyển biến trong việc giáo dục đạo đức cách mạng và giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, thực hiện chương trình cải cách giáo dục. Đã tiến hành một bước việc sắp xếp lại các trường đại học và trung học chuyên nghiệp theo hướng tập trung quản lý, tinh giản bộ máy, thu gọn chương trình và nâng cao chất lượng cho phù hợp với thực tiễn của đất nước. Ngành Đại học đã cố gắng kết hợp học tập, giảng dạy với nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất. Hơn một nghìn cán bộ đã được Hội đồng Bộ trưởng phong chức vụ giáo sư và phó giáo sư.
Ngành Văn hóa - thông tin đã cố gắng phổ biến và tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành kế hoạch nhà nước. Đã chú ý tăng cường các hoạt động văn hóa - nghệ thuật phục vụ đồng bào và chiến sĩ các tỉnh biên giới phía Bắc, tu bổ các di tích lịch sử. Nhiều nghệ sĩ và cán bộ được tặng danh hiệu nghệ sĩ nhân dân và nghệ sĩ ưu tú.
Ngành Y tế đã tích cực khắc phục khó khăn đẩy mạnh vệ sinh phòng bệnh kết hợp đông y với tây y trong công tác điều trị, nhờ vậy không xảy ra những dịch bệnh lớn. Cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình được chú ý hơn.
Cùng với việc phát triển kinh tế và văn hóa xã hội, một thành tựu nổi bật trong năm 1984 là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh và đưa lại nhiều kết quả tích cực. Trong nông nghiệp, các hợp tác xã đang tiếp tục cải tiến và mở rộng hình thức khoán sản phẩm đạt hiệu quả tốt hơn. Ở Nam bộ, đã hoàn thành cơ bản việc điều chỉnh lại ruộng đất; phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đang triển khai khá, thu hút 52% số hộ nông dân và 44% diện tích vào các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, đặc biệt như Tiền Giang đã hoàn thành về cơ bản việc tập thể hoá nông nghiệp với hình thức tập đoàn sản xuất. Đáng chú ý là cuộc vận động xây dựng huyện đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với cơ cấu nông - công nghiệp, nông - lâm - công nghiệp - một chủ trương lớn có ý nghĩa chiến lược đang có xu thế phát triển đi lên. Đã có gần 100 huyện nổi lên như những điển hình toàn diện, làm ăn khá và giỏi, rất năng động và sáng tạo, từ miền núi phía Bắc, đến miền Trung và Nam bộ, tỉnh nào cũng có huyện tiêu biểu về phân công lại lao động, phát triển ngành, nghề, đạt năng suất và sản lượng cao, vừa làm tốt nghĩa vụ vừa cải thiện đời sống nhân dân trong huyện.
Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư doanh được tiếp tục đẩy mạnh từ giữa năm 1984 không chỉ ở các thành phố lớn mà trên diện rộng ở nhiều tỉnh. Điểm mới nổi bật là có bước kết hợp chặt chẽ cải tạo với xây dựng và tiến hành đồng thời các biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục. Cải tạo được gắn với sắp xếp lại sản xuất đối với từng ngành hàng, tổ chức lại thị trường, trước hết nhằm vào lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu. Nhiều địa phương đã vận dụng tốt các hình thức kinh tế quá độ, đưa thợ thủ công và thương nghiệp tư nhân vào mạng lưới kinh tế xã hội chủ nghĩa, qua đó, vừa tăng cường lực lượng và vai trò chủ đạo của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, vừa nắm hàng, nắm tiền, vừa bảo đảm quản lý thị trường và giá cả, góp phần ổn định đời sống, đồng thời, đấu tranh chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.
Trong khi tập trung sức lao động xây dựng đất nước, Đảng, Quân đội và nhân dân ta không ngừng nâng cao cảnh giác, nắm vững nhiệm vụ củng cố quốc phòng, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Từ đầu tháng 4-1984, bọn bành trướng... đã tiến hành bước leo thang mới về quân sự, liên tục bắn phá nhiều vùng và lấn chiếm một số điểm thuộc lãnh thổ nước ta trên biên giới phía Bắc. Nêu cao tinh thần yêu nước và khí phách anh hùng của dân tộc, quân và dân ta đã kiên quyết trừng trị quân xâm lược, bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc. Đồng bào 6 tỉnh biên giới phía Bắc vừa chiến đấu giỏi vừa sản xuất đạt kết quả tốt, tăng sản lượng lương thực 35.000 tấn so với năm 1983, nhiều loại cây công nghiệp và chăn nuôi cũng đều phát triển khá. Cuộc chiến đấu dũng cảm của các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc ở các tỉnh biên giới phía Bắc đã cổ vũ mạnh mẽ đồng bào ta trong cả nước hăng hái trong lao động sản xuất và nhắc nhở chúng ta làm tốt hơn nữa nghĩa vụ đối với tuyến đầu của Tổ quốc. Nhân dịp này, tôi đề nghị Quốc hội nhiệt liệt biểu dương những thành tích xuất sắc trong chiến đấu dũng cảm để bảo vệ Tổ quốc và trong lao động quên mình để xây dựng đất nước của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trên 6 tỉnh biên giới thân yêu - tuyến đầu của cả nước.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trên đây tôi đã báo cáo những nét chủ yếu về tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1984. Nếu chỉ căn cứ vào việc các chỉ tiêu kế hoạch đạt hay không đạt, thì cũng khó có thể đánh giá đúng động thái phát triển của nền kinh tế, của công cuộc chiến đấu giữ vững an ninh và quốc phòng cũng như những chuyển biến sâu xa đang diễn ra trong các lĩnh vực hoạt động xã hội của nước ta hiện nay. Vấn đề cần làm sáng tỏ ở đây không chỉ là hiện trạng của nền kinh tế - xã hội, mà còn phải thấy rõ bối cảnh cũng như xu thế phát triển của nó.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, lại chịu hậu quả của 30 năm chiến tranh ác liệt. Đó là nguồn gốc của những khó khăn, mà nhân dân ta còn phải khắc phục trong nhiều năm; hoàn toàn không thể xem nhẹ. Không những thế, bốn năm qua, bọn bành trướng... câu kết với đế quốc Mỹ và các loại phản động khác trực tiếp xâm lược hoặc ráo riết phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, đặc biệt trong năm 1984, chúng tăng cường hoạt động quân sự ở biên giới phía Bắc, tiến hành chiến tranh lấn chiếm đất đai, nhiều lúc rất ác liệt. Mặt khác, địch vẫn không ngừng tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. Vụ gián điệp do bọn bành trướng... và tình báo lục quân Thái Lan tổ chức và chỉ huy đã bị ta trừng trị vừa qua là một sự kiện nóng hổi. Do đó, công cuộc xây dựng kinh tế trong điều kiện phải hết sức cảnh giác, chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh, không thể không chịu những ảnh hưởng nhất định. Đây cũng là vấn đề cần phải tính đến khi xem xét, đánh giá việc làm của chúng ta.
Bên cạnh những thiên tai và địch hoạ mà thiệt hại được liệt vào những năm nặng nề nhất như đã báo cáo ở trên, năm 1984 cũng như 4 năm qua viện trợ quốc tế và nguồn vay bên ngoài đã không tăng mà còn có mức giảm. Hơn thế nữa, giá cả trên thị trường quốc tế biến động lớn theo hướng không thuận lợi cho nền kinh tế của nước ta: giá hàng công nghiệp tăng lên, giá nông sản giảm xuống, đã hạn chế khả năng nhập khẩu nguyên liệu, năng lượng và thiết bị của chúng ta. Thêm vào đó, tốc độ tăng dân số của nước ta trong những năm qua còn quá cao, mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu người, chỉ tính từ năm 1976 đến nay tăng thêm 12 triệu người.
Đó là những khó khăn trong bước đường tiến lên. Không thấy hết khó khăn thì không đánh giá đúng mức các thành tựu, không thấy hết cái giá phải trả cho mỗi thắng lợi. Cũng như trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, nhân dân ta không chịu lùi bước trước khó khăn, trái lại, có đủ quyết tâm và dũng khí đi lên. Năm 1984, quân và dân ta đã bảo vệ thắng lợi biên giới của Tổ quốc, giai cấp công nhân, nông dân và trí thức đã khắc phục khó khăn về đời sống, lao động sáng tạo, nỗ lực thực hiện kế hoạch năm 1984, làm cho nhiều chỉ tiêu vẫn đạt và vượt, một số chỉ tiêu tuy không đạt, nhưng so với năm 1983 vẫn tăng hơn, thậm chí, có mức tăng khá như đã nêu trên.
Năm 1984, khó khăn đến mức như vậy mà Tổ quốc vẫn an ninh, xã hội vẫn ổn định, sản xuất vẫn có mức đi lên. Điều đó chứng tỏ thế của đất nước ta là vững vàng và trên đà phát triển. Trong điều kiện vốn và nguồn vật tư còn rất thiếu so với yêu cầu hiện tại của đất nước, chúng ta lại không thể chỉ lo cho yêu cầu của kế hoạch từng năm và 5 năm, mà đã phải vừa chiến đấu bằng xương máu để bảo vệ Tổ quốc, vừa thắt lưng buộc bụng, dành dụm đầu tư cho những công trình trọng điểm có ý nghĩa lớn cho nhiều thế hệ tiếp sau.
Chỉ trong 5 - 10 năm nữa, sẽ có những công trình quy mô lớn đi vào hoạt động, như một hệ thống các nhà máy điện (kể cả thuỷ điện và nhiệt điện, quy mô lớn, vừa và nhỏ), các cơ sở dầu khí và hoá dầu, các nhà máy xi măng, phân bón, cơ sở khai thác than, kim loại mầu, v.v.. Trên đất nước ta, hình dáng của sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa đang từng tháng, từng ngày hiện lên rõ nét. Đó là hàng trăm xí nghiệp công nghiệp quy mô lớn, hàng trăm huyện với cơ cấu nông - công nghiệp với những vùng chuyên canh cỡ 50 vạn đến 1 triệu hécta về cao su, dừa, cà phê, mía, trẩu, v.v.. Trong ánh sáng tương lai của đất nước, có xương máu của chiến sĩ và đồng bào các dân tộc ở biên giới, có mồ hôi của công nhân và nông dân, có chất xám của đội ngũ trí thức, có sự chắt chiu, dành dụm của nhân dân ta ngay trong sự thiếu thốn hiện nay. Thành quả ấy được tạo nên chủ yếu bằng tinh thần tự lực, tự cường của chính chúng ta trong điều kiện khó khăn gay gắt - đáng cho chúng ta vui mừng và tự hào.
Thắng lợi trên là kết quả của sự phấn đấu rất kiên cường, tinh thần lao động sáng tạo và gian khổ của nhân dân ta; là sự nỗ lực vượt bậc của cơ sở, của địa phương và sự cố gắng của các ngành ở Trung ương. Nó khẳng định một điều hết sức có ý nghĩa là vượt qua mọi gian lao, thử thách, nhân dân Việt Nam ta vẫn đứng vững và đi lên bằng sức lao động của chính mình và bằng chủ yếu tiềm năng bên trong của đất nước ta.
Thắng lợi giành được cũng đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra từ các Đại hội lần thứ IV, thứ V và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, các chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, về đổi mới kế hoạch hoá và quản lý. Đặc biệt là từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 khoá IV đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 khoá V của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đáp ứng đúng với đòi hỏi thực tiễn của đất nước ta hiện nay, được các cấp nhất trí cao và đang tích cực thực hiện, góp phần tháo gỡ khó khăn, phát huy tính chủ động sáng tạo của các ngành, các cấp theo hướng tiếp tục xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, chuyển mạnh sang hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đem lại nhiều kết quả cụ thể.
Thắng lợi thu được còn là kết quả của sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước thành viên khác trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, của liên minh đặc biệt ngày càng phát triển vững chắc giữa ba nước Đông Dương, của sự hợp tác kinh tế cùng có lợi đối với các nước khác.
Chúng ta cần thấy hết ý nghĩa của thắng lợi để phấn khởi và vững bước đi lên, đồng thời cũng cần thấy hết khó khăn để lường trước và ráng làm tốt hơn nữa trong thời gian tới, để tránh những nhận thức mơ hồ mà từ đó có thể nảy ra những đòi hỏi quá với khả năng của nền kinh tế cho phép.
Trước tiên cần nói đến là, cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế nước ta đang còn ở mức thấp kém, trước mắt trong vài năm nữa, năng lượng, vật tư và ngoại tệ còn khá căng thẳng. Khó khăn này còn kéo dài, nếu chúng ta không cố gắng dành dụm thêm nữa để thực hiện được công nghiệp hóa, trước hết là biết tập trung thích đáng cho một số ngành công nghiệp nặng, đủ sức cung ứng cho nhu cầu phát triển của một nền nông nghiệp toàn diện gồm cả công nghiệp chế biến phong phú và công nghiệp nhẹ đa dạng.
Về thiên tai, chúng ta chỉ dự báo được một chừng mực nào đó mà chưa có khả năng chế ngự. Kinh nghiệm cho thấy cứ một năm thuận lợi thì một năm có thiên tai cục bộ và thỉnh thoảng từ 3 đến 5 năm lại có thiên tai lớn trên nhiều vùng hoặc cả nước (như năm 1983 và 1984). Chúng ta vẫn phải có những biện pháp tích cực để sẵn sàng ứng phó chủ động hơn nữa.
Kẻ địch còn nhiều âm mưu chống phá cách mạng nước ta, đặc biệt là bọn phản động... Âm mưu và tham vọng của chúng đối với nước ta không hề thay đổi. Đây là ngoài sự mong muốn của chúng ta. Chúng ta tha thiết được yên ổn để xây dựng đất nước, nhưng quyết không bao giờ mất cảnh giác.
Cuối cùng là những khó khăn, yếu kém về quản lý. Chúng ta biết rằng quản lý là một lĩnh vực mới mẻ, nhất là đối với nước ta, quản lý trong khi nền kinh tế - xã hội có những đặc thù đòi hỏi sự nghiên cứu, phân tích thật sâu sắc. Từ mấy năm nay, đặc biệt là từ Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IV), chúng ta đã bước đầu đề ra một số điểm cải tiến cơ chế quản lý, tập trung vào việc xóa bỏ tệ hành chính quan liêu, bao cấp, phê phán tình trạng tổ chức, kỷ luật không nghiêm, tinh thần trách nhiệm và tinh thần chấp hành Nghị quyết không đầy đủ. Vừa qua, vận dụng tinh thần các nghị quyết của Đảng và các chính sách của Nhà nước, các cơ sở, địa phương và ngành đã có nhiều hoạt động sáng tạo, năng động, mang lại những kết quả rõ rệt, do hàng ngày cọ xát với cuộc sống và hàng ngày phải xử lý những việc cấp thiết diễn ra trong thực tiễn. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng việc đổi mới một cơ chế quản lý từ quan liêu, bao cấp đã thành bệnh kinh niên chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa là một quá trình phức tạp, vừa phải năng động, sáng tạo, nhạy bén, vừa phải cân nhắc, tính toán nhiều mặt.
Yếu kém là không tránh khỏi. Do yếu kém về quản lý nên chúng ta đã có những khuyết điểm trên nhiều lĩnh vực như kế hoạch, sản xuất, phân phối, lưu thông, thị trường và giá cả, gây ra những khó khăn thêm cho đời sống của những người ăn lương mà lẽ ra có thể làm giảm bớt. Những nhược điểm, khuyết điểm trong cơ chế quản lý đã được chỉ ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, tuy có khắc phục được một bước, nhưng nhìn chung việc sửa chữa còn chậm; tệ hành chính quan liêu, bao cấp, tư tưởng bảo thủ, trì trệ vẫn còn nặng. Việc sắp xếp và tổ chức lại sản xuất - lưu thông tuy có thay đổi một bước rất có ý nghĩa nhưng cũng mới là bước đầu chưa làm được bao nhiêu. Công tác kế hoạch hóa chưa được thật sự đổi mới, chưa phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động, sáng tạo và nguồn khả năng còn phong phú của các địa phương, các ngành và của cơ sở, và cũng chưa lường hết các khó khăn, có những cân đối chưa đủ vững chắc. Mặt khác, trong quá trình điều hành lại thiếu các biện pháp đồng bộ, có hiệu quả. Việc sửa đổi, bổ sung các chính sách cũ không còn phù hợp, cũng như việc ban hành các chính sách mới còn chậm. Hiện tượng làm ăn không tính toán hiệu quả, không tôn trọng các tiêu chuẩn và định mức, làm dối, làm ẩu, gây lãng phí lớn chưa được đấu tranh, xử lý nghiêm khắc và kịp thời. Những biểu hiện kém ý thức tổ chức kỷ luật, cục bộ, địa phương chưa được khắc phục triệt để.
Đáng quan tâm là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chuyển biến chậm, chưa kịp thời kiện toàn những tổ chức yếu kém, chậm giải quyết việc sắp xếp tổ chức, tinh giản bộ máy; bố trí cán bộ ở các ngành, các địa phương và cơ sở trọng yếu không đáp ứng được các yêu cầu cải tiến và xây dựng cơ chế quản lý mới, dẫn đến tình trạng thực hiện chậm và còn sai lệch các nghị quyết của Đảng.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Hội đồng Bộ trưởng và của các Bộ tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn là một khâu yếu mà biểu hiện chủ yếu là thiếu tập trung, thiếu kiên quyết, chưa theo dõi chặt chẽ và tổng kết kịp thời những sáng tạo mới, những kinh nghiệm phong phú của địa phương và cơ sở, chưa tổ chức tốt việc nghiên cứu các chính sách kinh tế để giải quyết kịp thời những vấn đề nóng bỏng của đất nước theo tinh thần của Nghị quyết 6.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1985
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Năm 1985 là năm kết thúc kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, đồng thời chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải là năm có những chuyển biến tích cực trong tình hình kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng, đang có những đòi hỏi phải giải quyết cấp bách.
Phải phấn đấu thực hiện cho được bốn mục tiêu kinh tế - xã hội và các chỉ tiêu chủ yếu của Đại hội V, đưa nền kinh tế đi dần vào thế ổn định. Phải khẩn trương xúc tiến các công việc chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, như: tổng kết việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, đề ra chiến lược kinh tế dài hạn, chuẩn bị về đầu tư xây dựng cơ bản, phối hợp kế hoạch với các nước trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý mới để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế quốc dân, chuẩn bị tốt về tổ chức và cán bộ.
Kế hoạch nhà nước năm 1985 phải quán triệt hơn nữa tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) mà quan trọng nhất là:
- Kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục xem mặt trận sản xuất nông nghiệp là hàng đầu, trọng tâm là lương thực, thực phẩm. Phải phát triển nhiều hơn nữa hàng tiêu dùng trong nước và hàng xuất khẩu, đồng thời tăng cường các cơ sở công nghiệp nặng then chốt phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, bảo đảm phát triển hợp lý cơ cấu công - nông nghiệp, làm cho công nghiệp ngày càng có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp, và thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Phải xem việc ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân, trước hết là nhân dân các vùng thiên tai nặng, đồng bào các tỉnh biên giới và các dân tộc ở vùng cao, giải quyết một bước có ý nghĩa cho đời sống lực lượng vũ trang, công nhân, viên chức, là mục tiêu số một, đồng thời phải dành phần thích đáng cho tích luỹ để tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Kiên quyết hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở Nam bộ và đối với công thương nghiệp tư doanh trong cả nước với những hình thức, bước đi thích hợp, củng cố và tăng cường khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải nắm vững phương châm: cải tạo kết hợp với xây dựng, lấy xây dựng làm chính.
- Kết hợp tốt hơn kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, bảo đảm yêu cầu củng cố quốc phòng và an ninh, đấu tranh có hiệu quả làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, nhất là trên mặt trận kinh tế; tăng cường toàn diện ở các tỉnh biên giới phía Bắc, sẵn sàng đối phó với thủ đoạn thâm độc và xâm lấn của địch.
- Tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý bằng những chính sách và biện pháp cụ thể, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phát huy tính chủ động sáng tạo của các cấp, các ngành, nhất là cơ sở; khắc phục tệ quan liêu, bao cấp, bảo thủ trì trệ, coi năng suất, chất lượng, hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các mặt công tác khác. Đồng thời ngăn chặn những biểu hiện tự do, vô tổ chức, vô kỷ luật.
- Thực hiện bằng được trong cả nước chủ trương Nhà nước làm chủ thị trường, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý thị trường, nắm hàng, nắm tiền, giải quyết đồng bộ và vững chắc những vấn đề cấp bách về tiền lương, giá cả, tài chính, tiền tệ.
- Trong việc bố trí kế hoạch, phải bảo đảm tính hiện thực và vững chắc, dựa trên cơ sở cân đối với điều kiện vật chất hiện có, tích cực khai thác bốn nguồn khả năng. Hết sức tập trung vào các trọng điểm, đồng thời phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng, các cơ sở, phấn đấu đạt cho được một nhịp độ phát triển thích hợp và hiệu quả kinh tế cao hơn. Muốn vậy, phải phát huy ý chí tự lực, tự cường cao hơn nữa, khơi dậy mạnh mẽ phong trào cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao động, của cán bộ, đảng viên, của các ngành, các địa phương, các cơ sở; động viên sức mạnh tổng hợp của Nhà nước và nhân dân, khuyến khích các cơ sở, địa phương, ngành nỗ lực khai thác tốt nhất các tiềm năng về lao động, đất đai, ngành, nghề, cơ sở vật chất sẵn có, mở rộng hợp tác, liên kết kinh tế, để bảo đảm sự cân đối giữa mục tiêu và biện pháp.
- Kế hoạch phải được xây dựng theo tinh thần triệt để thực hành tiết kiệm, mau chóng áp dụng các tiến bộ kỹ thuật; hết sức xem trọng các chỉ tiêu về số lượng cũng như chất lượng để tăng nhanh sản lượng, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, bảo đảm sản xuất có hiệu quả kinh tế cao.
Sau đây là những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần giải quyết:
1. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện
Trọng tâm số một là đẩy mạnh sản xuất lương thực (cả lúa và màu) đạt cho được 19 triệu tấn, bảo đảm nhu cầu lương thực của toàn xã hội ở mức ổn định và tăng thêm dự trữ. Hướng chính là đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ và năng suất, phải hết sức chú ý diện đồng đều, vừa có tập trung xây dựng các vùng lúa cao sản, đồng thời mở rộng diện tích, mở rộng đến đâu thâm canh đến đó.
Đi đôi với việc khai thác các điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh sản xuất lương thực ở miền Nam, nhất là đồng bằng sông Cửu Long; cần tập trung sức hơn nữa tăng nhanh sản lượng lương thực ở miền Bắc, nhất là đồng bằng sông Hồng.
Ngoài các biện pháp về thuỷ lợi, tăng lượng phân chuồng, phân xanh, bảo đảm sức kéo, cung cấp đủ giống tốt, phải đặc biệt chú trọng áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp. Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, các ngành Trung ương cùng với địa phương bằng mọi biện pháp có hiệu lực bảo đảm đủ và kịp thời phân hoá học, thuốc trừ sâu và các vật tư cần thiết khác cho sản xuất lương thực, nhất là những vùng trọng điểm lúa.
Cần khắc phục nhanh sự sút kém về sản xuất màu. Ngoài việc khuyến khích tận dụng đất đai trồng xen, trồng gối vụ, cần xây dựng các vùng màu tập trung, thâm canh cao về ngô, sắn làm nguyên liệu cho công nghiệp và thức ăn gia súc bằng cách bảo đảm nhu cầu về vật tư cho sản xuất, vận tải, chế biến, bảo quản và tiêu thụ màu. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất lương thực phải làm thật tốt công tác huy động lương thực. Nhà nước phải nắm cho được tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa và thực hiện cho được chính sách Nhà nước thống nhất quản lý và kinh doanh lương thực.
Trong khi xem sản xuất lương thực là trọng tâm số một, đồng thời phải phát huy thế mạnh của từng vùng để phát triển sản xuất nông nghiệp, tức là phải phát triển nông nghiệp toàn diện. Phải tận dụng hết đất đai để sản xuất lương thực, nhưng làm lương thực không được phá rừng, không được lấn vào diện tích cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Một số nơi còn thiếu lương thực nhưng có thế mạnh khác thì không nhất thiết phải chạy theo lúa, màu mà phải tìm cách giải quyết lương thực bằng thế mạnh của mình. Thực tiễn của nhiều địa phương đã chỉ rõ nếu chỉ tập trung cho lương thực mà coi nhẹ cây công nghiệp, chăn nuôi, v.v., thì việc phát triển lương thực cũng bị hạn chế. Năm 1985, phải phát triển nhanh cây công nghiệp, nhất là cây công nghiệp ngắn ngày, tiếp tục trồng cao su, cà phê, chè và những cây dài ngày khác, đưa diện tích cây công nghiệp tăng 24% so với năm 1984, trong đó, cây công nghiệp ngắn ngày tăng 32%, cây công nghiệp dài ngày tăng 12,6%, thực hiện phương châm "lấy ngắn nuôi dài". Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thông báo sớm cho nông dân về định mức vật tư sản xuất, giá cả thu mua và chính sách thưởng hiện vật cho các cấp quản lý có nhiều nông sản hàng hóa bán cho Nhà nước.
Về chăn nuôi, phải được phát triển mạnh để bảo đảm nhu cầu thực phẩm, phân bón và xuất khẩu. Đàn trâu sẽ tăng 4% so với năm 1984, đàn bò tăng 8%, và đàn lợn tăng 8%, chú trọng các vành đai thực phẩm của các thành phố, khu công nghiệp và các tỉnh biên giới phía Bắc.
Cần giải quyết tốt các khâu bảo đảm đủ giống tốt, xây dựng cơ sở thức ăn ổn định, phát triển mạng lưới thú y; khuyến khích chăn nuôi gia đình, khôi phục và phát triển chăn nuôi tập thể và chăn nuôi quốc doanh.
Về lâm nghiệp, kết hợp chặt chẽ lâm nghiệp với nông nghiệp, mở rộng kinh doanh tổng hợp, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng phá rừng, cháy rừng và lãng phí lâm sản. Bảo vệ vốn rừng hiện có là nhiệm vụ khẩn thiết có ý nghĩa lớn lao về kinh tế, bảo vệ môi trường và về xã hội, an ninh, quốc phòng. Có chính sách khuyến khích người làm nghề rừng; thực hiện tốt chủ trương giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và nhân dân quản lý, kết hợp với định canh, định cư. Năm 1985, trồng 11 vạn hécta rừng tập trung. Ngoài ra, vận động nhân dân trồng khoảng vài chục vạn hécta cây lấy gỗ, lấy củi, cây đặc sản, cây mọc nhanh để tăng màu mỡ đất đai, phủ xanh đồi trọc.
Gỗ khai thác sẽ tăng 6% so với năm 1984, nhưng phải theo đúng quy hoạch và quy trình kỹ thuật. Đi đôi với vận chuyển bằng cơ giới; phải hết sức coi trọng dùng voi, trâu kéo gỗ, triệt để tận dụng sông, suối vận chuyển gỗ, phát triển phương tiện vận chuyển gỗ ven biển. Nhanh chóng thực hiện chủ trương thống nhất quản lý việc chế biến gỗ vào ngành Lâm nghiệp, nhằm tạo ra nguồn vốn để lấy rừng phát triển rừng và đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế về gỗ, đồ dùng bằng gỗ và các lâm sản khác.
Về thuỷ sản, tiếp tục phát triển mạnh nghề đánh cá biển, đồng thời khai thác nguồn lợi về cá tôm nước ngọt, nước lợ. Mở rộng nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi tôm xuất khẩu, phát triển diện tích nuôi cá ở các vành đai thành phố và khu công nghiệp tập trung. Tận dụng và thâm canh diện tích cá nuôi ở khắp các vùng. Ngành Thủy sản cần chỉ đạo tốt việc quy hoạch sản xuất, cung cấp cá giống và cùng với các ngành hữu quan xây dựng chính sách, khai thác nguồn tiềm năng sẵn có ở từng địa phương để cung cấp thực phẩm tại chỗ. Sản lượng cá biển năm 1985 tăng 4% so với năm 1984; xuất khẩu thuỷ sản tăng 28%.
2. Sản xuất công nghiệp
Phải phấn đấu cho sản xuất công nghiệp đạt được mức cao hơn năm 1984.
Hướng sản xuất trước hết tập trung vào những sản phẩm và những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống, phục vụ xuất khẩu, đầu tư thích đáng cho các ngành Điện, than, cơ khí, xi măng, phân bón, là những ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Áp dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư. Mở rộng việc liên kết nhằm khai thác tối đa các nguồn nguyên liệu tại chỗ, tận dụng công suất thiết bị của các cơ sở công nghiệp và thủ công nghiệp.
Sản lượng điện năm 1985 phấn đấu tăng 9% so với năm 1984. Mức này còn thấp hơn so với nhu cầu; vì vậy, phải tìm mọi cách giảm tỷ lệ điện tổn thất, tiết kiệm trong tiêu dùng để tăng điện cho các cơ sở sản xuất. Trong phân phối điện, trước hết phải dành cho các sản phẩm trọng yếu và các cơ sở sản xuất ưu tiên; có chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất ca ba và dùng điện vào giờ thấp điểm, khuyến khích và khen thưởng thích đáng các đơn vị có sáng kiến hoặc biện pháp tận dụng các nguồn năng lượng khác phục vụ cho sản xuất và nhu cầu đời sống; đồng thời, xử lý nghiêm khắc các trường hợp sử dụng điện trái phép. Phát huy năng lực thuỷ điện, tận dụng tốt nguồn khí đốt để phát điện, phát triển nhanh thuỷ điện nhỏ, phát điện bằng khí mê tan, v.v..
Phải nâng cao sản lượng than, một nguồn năng lượng có ý nghĩa cực kỳ trọng yếu đối với nền kinh tế nước ta, cho nhu cầu khẩn cấp hiện nay và cho cả lâu dài. Phải khắc phục khuyết điểm nghiêm trọng trong chỉ đạo và điều hành của Hội đồng Bộ trưởng để ngay từ năm 1985 này, làm cho ngành Than vốn là ngành năng lượng lớn của quốc gia được khôi phục, củng cố và phát triển. Sản lượng than năm 1985 phấn đấu tăng 14% với chất lượng tốt hơn. Cần có những biện pháp đồng bộ, giải quyết những khó khăn trong việc sản xuất than, trước hết là cải tiến lại tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, bảo đảm các loại vật tư, thiết bị phụ tùng nhập khẩu và giải quyết tốt hơn đời sống công nhân.
Bảo đảm đúng tiến độ các mỏ đang xây dựng; hoàn thành cải tạo các cảng rót than nội địa để tăng năng lực rót than.
Để bảo đảm cho sản xuất gang thép, cần mở rộng hợp tác để tạo điều kiện nhập một số vật tư nguyên liệu cần thiết (điện cực, graphít, gạch chịu lửa, phụ tùng...), đồng thời tổ chức tốt việc thu mua, cung cấp đủ thép vụn, bảo đảm điện cho các cơ sở luyện thép.
Về cơ khí, nhiệm vụ hàng đầu là sản xuất phụ tùng, sửa chữa máy móc phục vụ nông nghiệp, điện, than, dệt vải, giao thông vận tải, sản xuất các thiết bị chế biến lương thực, thực phẩm cỡ nhỏ, vừa, tăng sản phẩm cơ khí tiêu dùng.
Đẩy mạnh sản xuất phân lân, thuốc trừ sâu, bảo đảm cung cấp pirít, than cốc để phát huy hết công suất của nhà máy supe và các nhà máy phân lân nung chảy. Khuyến khích sử dụng phốt phát nghiền. Năm 1985, sản lượng phân lân tăng 23% so với năm 1984.
Ngoài ra, cần mở rộng sản xuất xút và các loại hoá chất theo quy mô vừa và nhỏ, các loại phụ tùng bằng cao su, sản xuất sơn, que hàn, đất đèn, bột nhẹ, v.v. để giảm mức nhập khẩu và đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế.
Năm 1985, các loại vật liệu xây dựng cần được sản xuất nhiều hơn nữa. Đối với hai Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, cần giải quyết đồng bộ các khâu sản xuất, bao bì và vận tải để huy động cao nhất năng lực sản xuất. Sản lượng xi măng năm 1985 dự tính tăng 27% so với năm 1984. Tăng cung cấp than để tăng sản xuất gạch ngói của các cơ sở sản xuất quốc doanh.
Đẩy nhanh tiến độ thi công các giếng khoan tìm kiếm, thăm dò dầu khí trên thềm lục địa phía Nam. Triển khai xây dựng các công trình phục vụ khai thác và công trình phụ trợ khu công nghiệp dầu khí Vũng Tàu. Hoàn thành việc xác định trữ lượng khí vùng Tiền Hải.
Về công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, tập trung các điều kiện cho việc sản xuất một số mặt hàng chủ yếu như vải, giấy viết, thuốc chữa bệnh, xà phòng giặt, và các sản phẩm xuất khẩu, các sản phẩm có nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, tận dụng nguyên liệu và công suất của công nghiệp địa phương, tiểu, thủ công nghiệp để tăng sản lượng các mặt hàng tiêu dùng, nhằm cung ứng nhiều hơn các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu hàng ngày cho nhân dân.
Sản lượng vải, lụa năm 1985 sẽ tăng 19% so với năm 1984. Các mặt hàng khác như vải màn, khăn mặt, quần áo dệt kim, chỉ khâu giữ mức sản lượng cần thiết. Để giải quyết nguyên liệu, cần mở rộng phát triển trồng bông, đay, tơ tằm, lanh và các nông sản khác để xuất khẩu nhập thêm bông sợi. Các địa phương khôi phục và phát triển các nghề ươm tơ, dệt vải bằng thủ công để giải quyết một phần vải mặc.
Sản lượng giấy sẽ tăng 12% so với năm 1984, bảo đảm nhu cầu giấy viết cho học sinh. Cần thu hồi giấy vụn đưa vào cân đối một phần nguyên liệu.
Phát triển mạnh các cơ sở sản xuất đường, quy mô vừa và nhỏ với nhiều loại đường để thoả mãn nhu cầu của từng địa phương, sản lượng đường năm 1985 tăng 12% so với năm 1984.
Thuốc lá điếu tăng 20% so với năm 1984, chè chế biến tăng 8%, sữa hộp tăng 56%. Đối với các hàng tiêu dùng khác, tăng sản xuất phụ tùng xe đạp, quạt điện, đồng hồ để bàn, máy khâu. Mở rộng mặt hàng và nâng cao chất lượng các loại đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ thuỷ tinh, hàng cói, mây tre, dụng cụ học tập, dụng cụ lao động và các mặt hàng tiêu dùng thông thường khác.
3. Giao thông vận tải và bưu điện
Khối lượng vận tải hàng hóa trong nước sẽ tăng 7% so với năm 1984. Phải tập trung sức bảo đảm vận tải trên các tuyến, các mục tiêu chủ yếu, nhất là trên tuyến Bắc - Nam, các tỉnh biên giới phía Bắc, lương thực, phân bón, xăng dầu, than đá, xi măng, gỗ và hàng xuất khẩu, vận chuyển cho nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Phát triển mạnh vận tải đường biển, vận tải đường sông, huy động cao nhất năng lực vận tải đường sắt, đường hàng không. Sắp xếp hợp lý và sử dụng có hiệu quả vận tải ô tô, hết sức hạn chế ô tô vận tải đường dài và ô tô vận tải một chiều.
Phát triển mạnh vận tải ven biển bằng tàu cỡ nhỏ, sà lan và các loại thuyền để tự đảm nhiệm các yêu cầu vận tải của địa phương và hỗ trợ một phần cho Trung ương. Bố trí phương tiện biển pha sông để vận chuyển thẳng hàng hóa vào các cảng sông.
Tăng cường quản lý vận tải nhằm khai thác tốt hơn năng lực vận tải hiện có, tăng năng suất các phương tiện từ 5% đến 10%. Chú trọng phát triển rộng rãi và có chính sách khuyến khích vận tải thô sơ. Lập lại trật tự và an toàn giao thông trên các tuyến và khu đầu mối vận tải trọng điểm. Triệt để tiết kiệm, chống mất cắp, lãng phí xăng dầu, kiên quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực trong vận tải, xếp dỡ hàng hóa và mọi phiền hà trong việc đi lại của nhân dân.
Về thông tin bưu điện, khai thác tốt năng lực mạng lưới bưu chính và điện chính với chất lượng tốt và an toàn. Hoàn thành quy hoạch mạng thông tin liên lạc thống nhất, gắn mạng thông tin quốc gia với mạng thông tin chuyên dùng của các ngành, phục vụ tốt hơn một số ngành và địa bàn trọng yếu. Bảo đảm thông tin thông suốt từ Trung ương đến các huyện, thị biên giới phía Bắc. Nâng cao chất lượng mạng điện thoại ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng; giảm mất mát, thất lạc bưu phẩm, bưu kiện đến mức thấp nhất. Giá trị nghiệp vụ bưu điện năm 1985 tăng 19% so với năm 1984.
4. Bố trí xây dựng cơ bản tập trung và có hiệu quả
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1985 rất hạn chế, chỉ bằng mức của năm 1984, nên phải đầu tư vào những công trình có hiệu quả cao nhất. Trước hết, cần ưu tiên tập trung cho nông nghiệp, thuỷ lợi và lâm nghiệp, trong đó đầu tư thoả đáng cho việc thâm canh lúa, màu, chăm sóc và khai thác tốt diện tích cao su, cà phê, chè đã có; phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày.
Trong công nghiệp, ưu tiên đầu tư cho công nghiệp hàng tiêu dùng, trong đó chú ý đồng bộ hoá và đầu tư chiều sâu các cơ sở hiện có để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng nhanh sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Trong công nghiệp nặng, đầu tư thích đáng cho các ngành trực tiếp liên quan đến nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và giao thông vận tải, đặc biệt là các công trình trọng điểm Nhà nước có tính cấp bách, nhanh chóng hoàn thành các công trình chuyển tiếp có điều kiện đưa vào sản xuất và có hiệu quả, các công trình gối đầu của kế hoạch 5 năm 1986 - 1990.
Kế hoạch năm 1985 cũng dự tính dành một phần vốn đầu tư để xây dựng nhà ở tại các thành phố, trước hết là Hà Nội và các khu công nghiệp tập trung. Coi trọng đầu tư để cải tạo, sửa chữa nhà ở cũ, xây dựng các công trình hạ tầng và công trình phục vụ công cộng. Xây dựng thêm bệnh viện, trường học tại các tỉnh miền núi, các tỉnh Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Cửu Long và các nơi khác bằng phương thức kết hợp vốn của Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Để khắc phục những thiếu sót trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của kế hoạch, cần đưa vào kế hoạch ngay từ đầu năm toàn bộ vốn ngân sách nhà nước bao gồm vốn của ngân sách trung ương và vốn ngân sách địa phương, bố trí theo đúng mục tiêu, có danh mục công trình, có cân đối vật tư và lực lượng thi công. Tiến hành rà xét kỹ danh mục đầu tư (cả công trình trọng điểm Nhà nước), tập trung hoàn thành các công trình có đủ điều kiện để đưa vào sản xuất và sử dụng; kiên quyết đình, hoãn những công trình hoặc hạng mục công trình chưa cấp thiết hoặc xây dựng xong nhưng không đủ điều kiện đưa vào sản xuất.
5. Phấn đấu cao nhất để tăng nhanh xuất khẩu và mở rộng các quan hệ kinh tế với nước ngoài
Kim ngạch xuất khẩu năm 1985 tăng 11% so với năm 1984, trong đó chủ yếu là tăng nông sản, nông sản chế biến và hải sản. Tập trung nguồn hàng cả nước để thực hiện cho được cam kết quốc tế và bảo đảm nhập cho được những vật tư chủ yếu phục vụ sản xuất và đời sống.
Có thực hiện tốt xuất khẩu thì mới có điều kiện mở rộng nhập khẩu. Hơn nữa, có xuất khẩu mới trả được nợ và tạo khả năng vay thêm vốn bên ngoài. Chính vì vậy mà xuất khẩu là một biện pháp hàng đầu có tính chất quyết định để giải quyết các cân đối của kế hoạch.
Để thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu, vấn đề quyết định là phải cân đối đủ vật tư, hàng hóa và có biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Cần đầu tư thích đáng để tạo các mặt hàng chủ lực như lạc, đỗ tương, cao su, cà phê, chè, dừa, thuốc lá, hải sản, v.v.. Cân đối đủ các điều kiện vật chất, bảo đảm thoả đáng quyền lợi của người sản xuất và các cấp quản lý chỉ đạo sản xuất, thu mua. Bên cạnh đó, phải sửa ngay tỷ giá hối đoái, khắc phục ngay tình trạng càng xuất nhiều, càng lỗ nhiều đối với các ngành và địa phương.
Cần xoá dần tình trạng bao cấp trong sử dụng hàng nhập khẩu. Từng tỉnh tuỳ theo hoàn cảnh với mức độ khác nhau phải phấn đấu vươn lên cân đối số vật tư Nhà nước phải nhập cho địa phương tương ứng với giá trị hàng xuất khẩu của địa phương.
Cùng với việc tăng nhanh khối lượng hàng xuất khẩu, cần mở rộng các hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ, có chính sách khuyến khích hợp lý kiều hối. Nghiên cứu mở rộng các hình thức thiết thực và có hiệu quả về hợp tác kinh tế với các nước trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, với Lào và Campuchia. Nghiên cứu mở rộng sự hợp tác kinh tế và tranh thủ tín dụng của các nước khác.
6. Phấn đấu tạo sự chuyển biến có ý nghĩa trong lĩnh vực phân phối, lưu thông
Để thực hiện được mục tiêu số 1 là ổn định đời sống, ngoài việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, phải giải quyết đồng bộ các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối, lưu thông.
Vấn đề quan trọng bậc nhất là Nhà nước nắm hàng, nắm tiền, quản lý cho được thị trường và giá cả. Đây là tiền đề để cải tiến tiền lương và ổn định đời sống, là mũi nhọn đấu tranh chống sự phá hoại của kẻ địch và đấu tranh giữa hai con đường trên mặt trận kinh tế. Phải khẩn trương cải tạo công thương nghiệp, mở rộng hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa để nắm toàn bộ khâu bán buôn, đại bộ phận bán lẻ và dịch vụ. Nhà nước thống nhất quản lý và kinh doanh lương thực, hàng công nghiệp thiết yếu do quốc doanh sản xuất và gia công. Phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ giao nộp sản phẩm đối với các cơ sở quốc doanh, nắm phần lớn hàng tiểu, thủ công nghiệp và huy động cho được từ 80 đến 90% nông sản hàng hóa.
Ngành Nội thương phải chuyển mạnh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, có kế hoạch nắm cụ thể đối với từng mặt hàng, bảo đảm đủ hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, cân đối hàng hóa trên từng địa bàn để bảo đảm thu mua, mở rộng kinh doanh những mặt hàng tiêu dùng bán rộng rãi để phục vụ đời sống nhân dân và ổn định thị trường.
Mức huy động lương thực năm 1985 dự kiến tăng 24% so với năm 1984, bảo đảm thu đủ thuế, công cày máy, thuỷ lợi phí. Chuẩn bị đầy đủ tư liệu sản xuất, vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ và hàng hóa để thu mua theo hợp đồng hai chiều. Phải hết sức tiết kiệm tiêu dùng, giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ hao hụt, mất mát trong các khâu vận chuyển, xay xát, bảo quản, có kỷ luật nghiêm khắc chống tệ tham ô, vô trách nhiệm gây ra hư hỏng lương thực.
Về tài chính, tiền tệ, phải có bước chuyển biến vượt bậc trong việc tăng nhanh các nguồn thu ngân sách và tiền mặt, tận thu thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp, thu nợ, bảo đảm nhu cầu chi tiêu hợp lý của nền kinh tế quốc dân, phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách.
Cần khẩn trương xây dựng các chính sách tài chính nhà nước nhằm thực hiện đúng chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền tự chủ tài chính của cơ sở, khuyến khích người lao động làm việc hăng hái, có năng suất, chất lượng và hiệu quả, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển sản xuất và xuất khẩu. Chính sách tài chính phải có tác dụng điều tiết thu nhập, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các tầng lớp dân cư và sự hài hoà giữa các loại lợi ích: của toàn xã hội, của tập thể và của người lao động; lợi ích của Trung ương, địa phương và cơ sở.
Ngân hàng phải xóa bỏ chế độ bao cấp, chuyển mạnh sang cơ chế kinh doanh hạch toán, tăng nhanh vòng quay của đồng tiền. Có biện pháp phát triển mạnh các hình thức tín dụng, sửa lại lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Xoá bỏ mọi thủ tục rườm rà, phiền phức khi gửi tiền và rút tiền nhằm thu hút nhanh số tiền mặt trong nhân dân. Định lại thời hạn công trái, lãi suất và sửa đổi cách tổ chức phát hành công trái để động viên được mạnh hơn.
Bộ Tài chính cùng với các ngành có liên quan hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện đúng đắn chế độ hạch toán giá thành và phí lưu thông, kiên quyết loại trừ những chi phí không hợp lý và không hợp lệ, chấm dứt tình trạng làm ăn không hiệu quả, lãng phí, chi tiêu tuỳ tiện trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong hành chính sự nghiệp.
Phải thể chế hoá phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm" không để cho mỗi nơi quy định chế độ huy động sức dân một cách tuỳ tiện.
Về giá cả, vấn đề đặt ra hiện nay là hình thành một bước tương đối hợp lý về mặt bằng giá mới, có căn cứ khoa học và sát với tình hình kinh tế - xã hội nước ta để tạo điều kiện đi dần vào thế ổn định. Trong khi chưa có phương án điều chỉnh giá, các ngành, các cấp và cơ sở sản xuất, kinh doanh phải tìm mọi biện pháp để duy trì và phát triển sản xuất, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật giá của Nhà nước, nghiêm cấm việc lợi dụng chênh lệch giá để thu lãi bất hợp pháp và tăng thu cho xí nghiệp hoặc cho ngân sách địa phương. Cơ quan vật giá các cấp phải đi sát thực tế, xử lý kịp thời vướng mắc về giá cả trong thu mua và tiêu thụ sản phẩm của cơ sở, các cấp, các ngành và trong từng khu vực.
Bằng các biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục, quản lý chặt chẽ giá cả thị trường. Các cơ quan nhà nước, các địa phương phải chấp hành đúng quy định về quản lý giá cả, đồng thời, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải phát triển nhanh, đủ sức làm chủ thị trường, làm chủ giá cả.
Dựa trên cơ sở phát triển sản xuất và các biện pháp tổng thể về tài chính, tiền tệ, giá cả nói trên, kế hoạch năm 1985 đã chú trọng đặt vấn đề ổn định một mức đời sống nhân dân, trước hết là của lực lượng vũ trang và những người ăn lương. Hướng chủ yếu là tập trung sức lo một số nhu cầu thiết yếu nhất của nhân dân về ăn, mặc, chữa bệnh, nhà ở và các hàng tiêu dùng thông thường khác; chú trọng toàn diện các mặt kinh tế và văn hóa, xã hội. Trên cơ sở sản xuất đã bố trí thì vấn đề quyết định là nắm cho được hàng, quản lý được thị trường, giá cả; thực hiện phân phối công bằng đến người tiêu dùng.
Về ăn, với mức sản lượng lương thực đã bố trí, mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm có khá hơn năm 1984. Tuy vậy, lương thực trong khu vực Nhà nước vẫn còn có khó khăn. Phải tích cực thu mua, tổ chức tốt các khâu vận chuyển, xay xát, phân phối, bảo đảm cung ứng lương thực đều đặn, đúng tiêu chuẩn, định lượng, quan tâm đến chất lượng; cung cấp đúng kỳ hạn các mặt hàng thực phẩm theo định lượng và phấn đấu bán thêm thịt, cá, trứng, đậu phụ, v.v. cho công nhân, viên chức theo giá lẻ ổn định.
Về mặc, với sản lượng vải sản xuất trong nước và các nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho công nhân, viên chức, các lực lượng vũ trang, đồng bào miền núi, nhất là 6 tỉnh biên giới phía Bắc, Tây Nguyên, và một số vùng thiếu vải.
Về hàng tiêu dùng, bán cho nhân dân một số mặt hàng dự tính tăng từ 20% đến 25% so với năm 1984, có phân phối ưu tiên đối với các tỉnh miền núi và Tây Nguyên. Ngoài ra, có thể bán bình thường các mặt hàng thông thường như dụng cụ gia đình, hàng sành sứ thuỷ tinh, đồ gỗ, đồ dùng học tập, v.v..
Về nhà ở, diện tích xây dựng năm 1985 tăng hơn năm 1984 khoảng 3%. Ngoài diện tích xây dựng mới, còn dành vốn để cải tạo, sửa chữa nhà cũ và đồng bộ hoá các công trình công cộng như nhà trẻ, cửa hàng, trường học, trạm xá, v.v.. Vật liệu xây dựng bán cho nhân dân được tăng thêm, đặc biệt đối với đồng bằng sông Cửu Long dự kiến tăng 20% vừa để giải quyết nhà ở cho nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hàng hóa để thực hiện thu mua hợp đồng hai chiều với nông dân.
Về đi lại, trong khi khả năng xăng dầu và phương tiện còn rất hạn chế, cần tổ chức việc đi lại cho nhân dân một cách hợp lý hơn, đặc biệt là nâng cao chất lượng phục vụ hành khách.
Về tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đang xúc tiến nghiên cứu để trong năm 1985, thực hiện một bước cải tiến tiền lương, coi đây không chỉ là yêu cầu cấp bách về đời sống của người ăn lương mà còn là nhân tố quan trọng để đẩy mạnh sản xuất và ổn định tình hình kinh tế - xã hội nói chung. Cải tiến tiền lương phải đi đôi với việc nắm hàng, nắm tiền, quản lý thị trường, quản lý giá cả, chống đầu cơ, nâng giá, bảo đảm tiền lương thực tế.
7. Dân số và lao động
Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số năm 1985 xuống còn 1,9%. Đẩy mạnh cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, các ngành, các địa phương và đơn vị cơ sở cần có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể và thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phân bổ lại lao động và dân cư trong tỉnh, huyện, điều động lao động và dân cư vào Nam bộ cho những nơi còn thiếu lao động và thưa dân, cho vùng kinh tế mới Tây Nguyên. Đây vừa đáp ứng yêu cầu khai hoang mở thêm diện tích vừa để vợi bớt mật độ dân cư ở những vùng dân cư quá đông như đồng bằng Bắc bộ. Tìm mọi cách giải quyết việc làm cho những người chưa có việc làm: ở các vùng nông thôn là đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tận dụng đất đai, mở rộng diện tích, phát triển ngành, nghề...; ở các thành phố, thu hút vào các ngành tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ... Việc giải quyết việc làm phải dựa chủ yếu vào quận, huyện để vừa giải quyết tại chỗ, đồng thời tranh thủ đưa lao động đi các vùng kinh tế mới. Năm 1985, lao động đi vùng kinh tế mới phải tăng ít nhất 6% so với năm 1984. Phấn đấu thực hiện tốt các nghị quyết của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc và Tây Nguyên.
Đối với lao động khu vực Nhà nước thuộc các ngành sản xuất, kinh doanh, phải tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lấy năng suất lao động, hiệu suất công tác làm chính, hạn chế tăng lao động mới. Phấn đấu đưa năng suất lao động của công nghiệp quốc doanh tăng 6% so với năm 1984, ngành xây dựng tăng 8%, vận tải tăng 5%... Đối với các cơ quan hành chính, phải kiên quyết tinh giản bộ máy, giảm biên chế và khống chế quỹ lương. Có biện pháp và tạo các điều kiện tốt đồng thời bắt buộc mọi người trong bộ máy nhà nước, cơ sở quốc doanh làm việc đủ 8 giờ có hiệu quả. Chuyển một bộ phận dư thừa trong lĩnh vực hành chính qua các ngành thương nghiệp, dịch vụ, có các chính sách thoả đáng để khuyến khích cán bộ đến công tác ở các vùng như Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
8. Khoa học - kỹ thuật
Công tác khoa học - kỹ thuật phải tập trung phục vụ đắc lực và có hiệu quả cao hơn cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, làm cho khoa học - kỹ thuật thực sự trở thành một yếu tố không thể thiếu của sản xuất và đời sống, là một nội dung bên trong của các kế hoạch kinh tế - xã hội.
Phải kế hoạch hoá và tự bản thân các ngành khoa học phải kế hoạch hóa việc nghiên cứu ứng dụng rộng rãi và nhanh chóng những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật, nhất là những đề tài đã được kết luận vào sản xuất và đời sống, xúc tiến có hiệu quả việc thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt coi trọng công tác tiêu chuẩn hoá đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm; có biện pháp để việc bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hóa thành những quy chế của luật pháp, mọi người sản xuất phải tôn trọng.
Sắp xếp lại hệ thống các viện nghiên cứu theo hướng tập trung cho những chương trình trọng điểm của Nhà nước gắn với cơ sở sản xuất, trực tiếp giải quyết những vấn đề do sản xuất và đời sống đặt ra. Ban hành chính sách khuyến khích các ngành, các cơ sở đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Đẩy mạnh công tác thăm dò địa chất, điều tra cơ bản, công tác dự báo phục vụ việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1986 - 1990 và các năm sau.
9. Giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin và y tế - xã hội
Về giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường, lớp.
Củng cố các trường mẫu giáo hiện có, tăng thêm cơ sở vật chất, dụng cụ học tập cho các trường, lớp. Đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung giáo viên có chất lượng cho các trường mẫu giáo, chú trọng các thành phố, khu công nghiệp tập trung, vùng cây công nghiệp tập trung như cao su, chè, v.v. và các lâm trường, đồng bằng sông Cửu Long và khu kinh tế mới.
Đối với các trường phổ thông, coi trọng giáo dục chính trị, đạo đức, giáo dục hướng nghiệp, giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học. Số học sinh phổ thông có mặt đầu năm học 1985 - 1986 tăng 2% so với năm học trước.
Phát triển mạnh phong trào bổ túc văn hóa, áp dụng các hình thức học tập thích hợp để thanh toán số người không biết chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Hoàn thành việc sắp xếp lại trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Chú trọng đào tạo cán bộ cho ngành Y tế, Giáo dục, Nông, Lâm nghiệp cho các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Số học sinh tuyển mới năm 1985 tăng 8% so với năm 1984, trong đó công nhân kỹ thuật tăng 14%. Mở rộng các lớp dạy nghề ở các quận, huyện, thị xã theo hình thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" thu hút số thanh niên chưa có việc làm vào học, để phát triển ngành, nghề ở đường phố và nông thôn.
Về văn hóa, thông tin.
Công tác văn hóa - nghệ thuật, thông tin phải phổ biến và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và kế hoạch nhà nước, đi sâu vào phong trào quần chúng và đời sống nhân dân. Phát huy tính chiến đấu cao, hướng vào phục vụ công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh giữa hai con đường, tiến hành ba cuộc cách mạng, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, tiết kiệm. Đấu tranh loại trừ văn hóa nô dịch phản động, đồi trụy, bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan và các tệ nạn xã hội. Kịp thời đập tan các luận điệu phản động của kẻ địch trên mặt trận văn hóa tư tưởng, đấu tranh chống những hiện tượng hư hỏng trong xã hội. Phát triển nhanh các nhà văn hóa huyện, cơ sở truyền thanh, đội thông tin và chiếu bóng lưu động. Đưa tổng số trang in báo tăng 5% so với năm 1984, sách giáo khoa phổ thông tăng 14%.
Đi đôi với nhiệm vụ chính trị nêu trên, ngành Văn hóa - Thông tin mở rộng các hoạt động văn hóa nghệ thuật để tăng thu, bảo đảm một phần cho nhu cầu chi cần thiết, tự sản xuất thêm vật tư, thiết bị chuyên dùng, mở rộng hợp tác với nước ngoài để tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho ngành. Tôn tạo, bảo vệ và xây dựng các di tích lịch sử, di tích cách mạng. Củng cố các thư viện, phát triển các cuộc triển lãm có nội dung phong phú và có ý nghĩa tốt như triển lãm đường Trường Sơn, v.v..
Về y tế - xã hội.
Vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh môi trường, kịp thời ngăn ngừa dịch bệnh; tích cực phòng bệnh nghề nghiệp cho công nhân. Chấn chỉnh công tác chữa bệnh, khám bệnh ở các bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế, đưa công tác này vào nền nếp. Nâng cao chất lượng sử dụng giường bệnh, đặc biệt là chất lượng phục vụ người bệnh. Thống nhất quản lý dược liệu, tăng mức sản xuất thuốc chữa bệnh, bảo đảm thuốc chữa bệnh thông thường cho nhân dân và tăng thêm thuốc cho các cơ sở điều trị.
Tăng cường chế độ quản lý, phân phối và sử dụng thuốc ở các cơ sở y tế, bảo đảm hiệu quả chữa bệnh cao và ngăn chặn tiêu cực trong sử dụng và quản lý thuốc. Nghiêm trị bọn sản xuất và buôn bán thuốc giả. Thực hiện thu tiền thuốc và viện phí (có chính sách hợp lý cho từng đối tượng) ở các bệnh viện.
Củng cố và nâng cao chất lượng nhà trẻ. Năm 1985, các cháu được nuôi dạy trong các nhà trẻ tăng 3,2% so với năm 1984.
Thực hiện tốt chính sách thương binh, chú trọng đối với thương binh ở những nơi có nhiều khó khăn, chăm sóc các gia đình liệt sĩ, và gia đình có công với cách mạng, phải thực hiện tốt hơn nữa chính sách hậu phương quân đội.
Về thể dục - thể thao.
Phát động rộng rãi hơn nữa cuộc vận động rèn luyện thân thể trong nhân dân, thật sự thành một phong trào quần chúng. Chuẩn bị để tiến tới Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ nhất. Nâng cao chất lượng các cuộc thi thể thao, luyện tập các môn thể thao truyền thống. Xây dựng các công trình thể thao gắn với các cụm văn hóa ở cơ sở và trên địa bàn huyện. Xây dựng các bộ môn thể thao thích hợp trên từng khu vực và sát với điều kiện nước ta.
10. Kết hợp kinh tế với quốc phòng
Động viên sức mạnh của cả nước tích cực chi viện cho các tỉnh biên giới phía Bắc chiến đấu và xây dựng, chống chiến tranh lấn chiếm của bọn phản động...; bảo đảm các nhu cầu cho quân đội, để nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu. Cải tiến phương thức cung cấp để bộ đội nhận được vật phẩm đúng số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm, tăng số lượng hàng chế biến, thuận tiện cho việc vận chuyển, bảo quản và sử dụng.
Đi đôi với việc huy động quân đội tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, nhất là thực phẩm tại chỗ, bao gồm cả chế biến, cần huy động một bộ phận năng lực công nghiệp, vận tải và lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, xây dựng cầu đường, v.v.. Giải quyết tốt việc bảo đảm vật tư, thiết bị cần thiết cho các yêu cầu trên và có các chính sách khuyến khích quân đội làm kinh tế.
Các hoạt động tham gia xây dựng kinh tế của quân đội phải được thể hiện trong kế hoạch từng ngành, từng cấp và đơn vị cơ sở từ việc cân đối vật tư, năng lượng đến phân phối, sử dụng sản phẩm.
*
* *
Nhìn chung lại, với dự án kế hoạch như trên, năm 1985, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 6,7%, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 7,8% và thu nhập quốc dân tăng 6,9% so với năm 1984. Sản xuất và huy động lương thực về cơ bản trang trải được các nhu cầu trong nước; khối lượng các loại thực phẩm và hàng tiêu dùng tăng khá; tiền lương được cải tiến một bước, thị trường và giá cả được quản lý chắc hơn. Tình hình kinh tế - xã hội và đời sống sẽ được ổn định dần.
Việc bố trí kế hoạch đã cố gắng bảo đảm tập trung các điều kiện vật chất cho những mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu trên, phải có những biện pháp tích cực và có hiệu quả để khai thác các nguồn bổ sung và xử lý kịp thời các mặt mất cân đối nảy sinh trong quá trình thực hiện. Đồng thời, cũng phải tìm kiếm các nguồn từ cơ sở để tăng thêm nguồn vốn bảo đảm đạt và vượt kế hoạch về các chỉ tiêu chủ yếu.
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ THỰC HIỆN THẮNG LỢI KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1985
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Kế hoạch năm 1985 được đặt ra trong tình hình lương thực, năng lượng, ngoại tệ và nhiều loại vật tư khác chưa đủ cân đối so với đòi hỏi của sản xuất và đời sống, thời tiết không loại trừ có thể còn diễn biến phức tạp; kẻ địch còn tiếp tục gây ra không ít khó khăn cho ta. Điều đó đòi hỏi từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở phải phát huy tinh thần làm chủ tập thể, ý chí tự lực, tự cường, khai thác mọi khả năng, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
Điều đó hoàn toàn có cơ sở thực tiễn, nếu toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ tình hình, những thuận lợi, khó khăn của đất nước và Nhà nước có chính sách khuyến khích thích đáng để phát huy cao hơn nữa tính năng động, sáng tạo, trách nhiệm của các ngành, các cấp góp phần khắc phục có hiệu quả các khó khăn.
Trước mắt, cần tập trung thực hiện tốt những biện pháp chủ yếu sau đây:
1. Thật sự đổi mới công tác kế hoạch hóa, triệt để khai thác bốn nguồn khả năng
Kế hoạch nhà nước năm 1985 phải giải quyết nhiều yêu cầu bức bách, trong khi các điều kiện vật chất còn rất hạn chế. Vì vậy, các ngành, các địa phương và cơ sở cần tiếp tục khai thác các nguồn khả năng để đảm bảo và tăng hơn mức cân đối của kế hoạch nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu kinh tế và xã hội. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 và lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương, công tác kế hoạch hóa phải thật sự đổi mới mà nội dung cơ bản của nó là triệt để khai thác bốn nguồn khả năng, tận dụng thế mạnh của các ngành, các cấp. Kế hoạch phải được tổng hợp từ dưới lên và phải thật sự là kết tinh của trí tuệ tập thể của các cơ quan lãnh đạo các ngành, các cấp và phải trở thành công cụ chủ yếu của quá trình quản lý. Kế hoạch cũng phải thật sự là công cụ có hiệu lực để đấu tranh loại trừ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, chống những biểu hiện tự do, phân tán, bản vị, cục bộ trên cơ sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, việc điều hành kế hoạch có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát, bổ sung và điều chỉnh kế hoạch; đó cũng là quá trình bám sát cơ sở, khai thác các nguồn khả năng mới, phát hiện những cách làm ăn mới, tổng kết những sáng kiến mới để kịp thời phát huy những kinh nghiệm tốt và uốn nắn những lệch lạc nhằm chống lãng phí và thực hiện kế hoạch một cách có hiệu quả hơn.
2. Khẩn trương sửa đổi và ban hành gấp một số chính sách và chế độ quản lý
Đây là biện pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các ngành, các cấp thực sự đi vào hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ nhanh chóng cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp.
Các Bộ, các địa phương khẩn trương soát xét lại tất cả những chính sách, chế độ để kịp thời kiến nghị bổ sung, sửa đổi những vấn đề không phù hợp, đồng thời ban hành gấp một số chính sách mới trong phạm vi thẩm quyền cho phép.
Việc sửa đổi, bổ sung và ban hành chính sách mới phải bảo đảm thật sự mở rộng quyền chủ động sáng tạo, năng động của địa phương và cơ sở, đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều hành tập trung thống nhất của Trung ương trong phạm vi cả nước.
Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu sửa đổi, ban hành một số chính sách có quan hệ đến việc phát huy quyền chủ động của địa phương và của cơ sở, khuyến khích cơ sở làm ăn có hiệu quả trong kế hoạch, nghiên cứu các chính sách liên quan tới điều tiết thu nhập trong quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân như thuế, giá cả, tiền lương, v.v. để vừa kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động, vừa tăng nguồn thu cho ngân sách, kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã hội, của tập thể và của người lao động, của Trung ương, địa phương và cơ sở. Nhờ những sửa đổi và bổ sung chính sách mà từng bước hình thành cơ chế mới, có tác dụng tháo gỡ những vướng mắc, khai thác được các thế mạnh về đất đai và lao động, làm nảy sinh những cách làm ăn mới hiệu quả cao hơn, tiết kiệm nhiều hơn, tăng thêm nguồn thu, kể cả nguồn thu tiền mặt đang trôi nổi trên thị trường; trên cơ sở đó đảm bảo cho kế hoạch được cân đối vững chắc hơn.
3. Áp dụng kịp thời các tiến bộ kỹ thuật, triệt để và nghiêm ngặt thực hiện tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong xã hội
Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tiết kiệm tiêu hao vật tư trong sản xuất, kiên quyết tìm mọi cách để khôi phục định mức kinh tế - kỹ thuật hợp lý của những năm trước đây. Đồng thời, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng một hệ thống định mức mới tiến bộ hơn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất. Đặc biệt chú ý đến những tiến bộ kỹ thuật đã được kết luận và đem lại hiệu quả cao, như giống mới trong nông nghiệp, các loại nguyên liệu thay thế để giảm bớt nhập khẩu.
Tiết kiệm là quốc sách không chỉ có ý nghĩa to lớn về khai thác tiềm năng của nền kinh tế, mà còn là phẩm chất, đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, phải có kế hoạch, tổ chức chỉ đạo bằng những chính sách và biện pháp cụ thể và xây dựng thành phong trào quần chúng, phát động dư luận xã hội thật rộng rãi, phê phán mọi sự lãng phí, tạo ra sự chuyển biến và kết quả thật sự trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, cũng như trong sinh hoạt và đời sống xã hội, trước hết là tiết kiệm về lương thực, năng lượng, nguyên liệu, vật liệu và các chi phí hành chính... Có chính sách khuyến khích thích đáng đối với những hành động tiết kiệm, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc đối với tham ô, lãng phí. Chính quyền và đoàn thể các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải tăng cường lãnh đạo đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, phát huy những nhân tố tích cực, lối sống trong sạch, cần kiệm giản dị, văn minh, chống lối sống xa hoa chạy theo đồng tiền, mê tín dị đoan.
4. Cải tiến nhanh công tác tổ chức và cán bộ
Trong năm 1985 phải thực hiện một mức chuyển biến thật sự có ý nghĩa về công tác tổ chức và cán bộ. Phải rà soát lại bộ máy và cán bộ trên những kết quả thực hiện các chính sách của Nhà nước và các nghị quyết của Đảng, theo tiêu chuẩn năng suất, chất lượng, hiệu quả. Kiên quyết tinh giản bộ máy hành chính các cấp, cải tiến lề lối làm việc, điều chỉnh chức năng các ngành và thực hiện sự phân cấp quản lý cho phù hợp với tình hình và yêu cầu đổi mới của cơ chế quản lý. Công tác tổ chức và cán bộ phải nhằm vào việc thúc đẩy để mau chóng hình thành cơ chế quản lý mới với bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực, cùng với sự phân công, phân cấp hợp lý và những cán bộ năng động, biết làm ăn, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của đất nước.
Phải có cách nhìn mới để phát hiện và đánh giá đúng năng lực và phẩm chất cán bộ, khẩn trương đào tạo cán bộ có năng lực quản lý và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mạnh dạn đề bạt những cán bộ trải qua thử thách, có cách nghĩ, cách làm phù hợp với cơ chế mới, kiên quyết thay đổi những cán bộ lãnh đạo và quản lý có tư tưởng bảo thủ, thiếu năng lực và kém phẩm chất.
5. Phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Đẩy mạnh thi đua xã hội chủ nghĩa
Việc thực hiện kế hoạch nhà nước dưới ánh sáng Nghị quyết 6 và Nghị quyết 7 của Ban Chấp hành Trung ương, đòi hỏi mỗi địa phương nhất là ở cơ sở phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi ở mọi nơi, mọi cấp hăng hái lao động, sản xuất và tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và các tiêu cực trong xã hội. Muốn vậy, phải tạo cho được động lực cách mạng trên cơ sở khuyến khích thoả đáng các lợi ích vật chất, gắn lợi ích trách nhiệm và sản phẩm cuối cùng, đi đôi với tăng cường giáo dục giác ngộ xã hội chủ nghĩa, từ đó phát huy tính tích cực, năng động sáng tạo của người lao động, từng cán bộ, nhân viên trong bộ máy Nhà nước. Điều quan trọng là phải nhanh chóng ban hành các chính sách thể chế hoá "cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước quản lý", bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện đầy đủ 4 chế độ: chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân dân. Quy định rõ trách nhiệm của từng người, từng ngành, từng cấp và có thưởng phạt công minh, nhất là đối với cán bộ phụ trách.
Phát huy vai trò các đoàn thể công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, để các tổ chức đó thật sự tiêu biểu cho quyền làm chủ tập thể của quần chúng trong các phong trào hành động cách mạng. Từng phường, xã, quận, huyện tổ chức tốt hơn nữa phong trào nhân dân lao động trực tiếp quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.
Tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân ở trong tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Thủ trưởng các ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp phải quan tâm tổ chức chỉ đạo phong trào, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân, nhằm đạt hiệu quả kinh tế thiết thực.
Đi đôi với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phải chăm lo giải quyết những khó khăn trong đời sống của nhân dân. Phong trào cách mạng của quần chúng phải được duy trì bằng việc tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý kinh tế, khơi dậy tính năng động và sức sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân.
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Bốn năm qua, đặc biệt là năm 1984 thiên tai xảy ra liên tiếp, gây thiệt hại rất nặng nề, các thế lực đế quốc và phản động quốc tế cấu kết với nhau ra sức chống phá ta bằng mọi thủ đoạn xấu xa, thế nhưng nền kinh tế tuy còn những mặt yếu kém nhưng vẫn đứng vững và đi lên, đó là thành tựu rất đáng tự hào của nhân dân ta.
Việc thực hiện kế hoạch năm 1985 đã có những tiền đề vững chắc, đó là các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, gần đây nhất là Nghị quyết các Hội nghị lần thứ 6 và thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đó là phong trào quần chúng ở các địa phương, các cơ sở với các mô hình mới, năng động, sáng tạo, tạo ra thế đi lên rõ rệt.
Chúng ta tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, với tinh thần tự lực, tự cường, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể, và tinh thần đoàn kết quốc tế xã hội chủ nghĩa của các nước anh em và sự giúp đỡ hữu nghị của các nước khác, kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1985 nhất định sẽ được hoàn thành một cách thắng lợi, mở ra triển vọng tốt đẹp cho kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 và các năm sau. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc yêu quý của chúng ta nhất định không ngừng phát triển vững chắc hơn, mạnh mẽ hơn.
Hướng về năm 1985, năm có nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn, chúng ta quyết thể hiện bằng kết quả thực tế sức sống mãnh liệt và tài năng sáng tạo của dân tộc ta.
Xin chúc sức khỏe các đồng chí đại biểu Quốc hội.