QUỐC HỘI VIỆT NAM NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VỀ VIỆC GIẢI THÍCH HIẾN PHÁP, LUẬT, PHÁP LỆNH
[*] 

ThS. Hoàng Văn Tú**

Vụ Pháp luật,  Văn phòng Quốc hội
 

1. Đặt vấn đề

Một trong những yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước ta là pháp luật phải đi vào cuộc sống và được nghiêm chỉnh chấp hành. Để pháp luật được mọi cơ quan, tổ chức và công dân chấp hành nghiêm chỉnh thì bên cạnh việc tổ chức, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xử lý nghiêm những người vi phạm pháp luật, việc giải thích pháp luật giúp cho các cơ quan áp dụng pháp luật hiểu đúng ý tứ và tinh thần của văn bản pháp luật nói chung và của từng điều luật nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì từ trước tới nay, chúng ta chưa có một văn bản cụ thể nào để quy định về thủ tục, trình tự giải thích.

Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có quy định về thẩm quyền, việc soạn thảo, thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (các Điều 13, 52 và 53). Những quy định về vấn đề này của Luật cũng chỉ định ra những nguyên tắc cơ bản có tính chất chung, chứ không xác định cụ thể những chủ thể có quyền  trình kiến nghị, thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh đã trở nên bức xúc và đóng một vai trò hết sức quan trọng.

 2. Thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

2.1. Tại sao Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được giao thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh?

Theo quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 thì thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (Điều 91 của Hiến pháp năm l992).

Nghiên cứu các Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ cho thấy, việc quy định về cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh hầu như không thay đổi. Theo Hiến pháp năm 1959, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có nhiệm vụ giải thích pháp luật (Điều 53). Hiến pháp năm 1980 quy định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước - cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên của Quốc hội (Điều 100). Như vậy, trừ Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên của nước ta chưa có quy định về thẩm quyền giải thích và cũng chưa quy định cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, còn trong các Hiến pháp kế tiếp - từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh đều được giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (mặc dù tên gọi và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này có thay đổi và khác nhau theo quy định của các Hiến pháp).

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu về hoạt động lập pháp thì việc giải thích pháp luật thuộc chức năng của chính cơ quan ban hành pháp luật. Theo quan điểm này, người làm ra luật, hơn ai hết, có khả năng hiểu và xác định đúng nhất hiệu lực, phạm vi áp dụng của đạo luật[1]. Ở nước ta, Quốc hội không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Việc giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền này là xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta: “Nguyên tắc tập quyền”. Theo quy định tại Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 thì “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính chất tập quyền được thể hiện không chỉ trong việc ban hành mà cả trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội một số thẩm quyền về lập pháp như ban hành pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh không làm mất đi tính tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội vì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không là cơ quan nào khác mà chính là cơ quan thường trực của Quốc hội. “Việc thành lập ra cơ quan thường trực của cơ quan lập pháp giữa hai kỳ họp có thẩm quyền to lớn để giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp bằng cách thông qua các pháp lệnh và các quyết định khác là một loại cơ quan đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa”[2].


 

Mặt khác, việc giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh cũng xuất phát từ thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta là hoạt động không thường xuyên. Hơn nữa, việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thi hành, cần phải được tiến hành kịp thời theo yêu cầu của cơ quan kiến nghị và là hoạt động mang tính chất thường xuyên, nếu phải chờ đến kỳ họp của Quốc hội mới giải quyết thì không đáp ứng được yêu cầu kịp thời trên đây.

Từ cách đặt vấn đề đó, có thể hiểu rằng hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện là hoạt động lập pháp của cơ quan quyền lực nhà nước.

2.2. Bản chất của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

 Có thể nói, những quy định trong văn bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh cũng quan trọng như chính quy định của Hiến pháp, của đạo luật hoặc pháp lệnh được giải thích, là chuẩn mực cho việc hiểu một quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh như thế nào là đúng và có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với mọi đối tượng, từ các cơ quan nhà nước ở trung ương đến mọi công dân.

Có thể phân định hoạt động giải thích thành những dạng khác nhau căn cứ vào các cơ sở phân loại khác nhau. Xét theo chủ thể giải thích pháp luật thì có thể có giải thích của cơ quan lập pháp (Quốc hội), giải thích của cơ quan tư pháp (Toà án), giải thích của cơ quan hành pháp (Chính phủ). Các nhà khoa học pháp lý cũng đóng vai trò nhất định trong việc giải thích luật. Theo từ điển pháp luật[3] thì giải thích pháp luật có thể phân thành “giải thích đích thực” và “giải thích thông thường”. “Giải thích đích thực” là giải thích bằng văn bản của cơ quan lập pháp. “Giải thích thông thường” là những giải thích được tiến hành trong quá trình áp dụng thực tiễn mà không được ghi thành văn bản. Căn cứ vào giá trị pháp lý thì có thể phân loại hoạt động giải thích pháp luật thành giải thích pháp luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức.

Giải thích pháp luật không chính thức là giải thích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào không có thẩm quyền giải thích pháp luật. Đây là loại giải thích pháp luật phổ biến nhất, đa dạng nhất, nhưng cũng tuỳ tiện và thường không có tính thống nhất nên dễ dẫn đến xung đột trong nhận thức và thực hiện các quy định của pháp luật. Thực tế đã có không ít trường hợp các nhà khoa học, các giáo viên giảng dạy pháp luật, các nhà thực tiễn, các luật sư... tranh luận và không đi đến thống nhất trong việc nhận thức và thực hiện một số quy định của pháp luật. Giải thích pháp luật chính thức là giải thích của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích văn bản pháp luật đó. Giải thích pháp luật chính thức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quan hệ với những chủ thể pháp luật khác với những đòi hỏi khắt khe và chặt chẽ nhất. Nó liên quan trực tiếp tới lợi ích, tính mạng, tài sản... của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

Với cách đặt vấn đề trên đây, văn bản giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là giải thích chính thức. Văn bản giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có các đặc điểm sau đây:

- Không bị giới hạn những vấn đề cần giải thích;

- Có giá trị bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân;

- Duy nhất có hiệu hiệu lực pháp luật so với các văn bản giải thích khác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

So sánh thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, có thể nhận thấy có nhiều điểm giống nhau. Trước hết, cơ quan có thẩm quyền giải thích và cơ quan ban hành pháp lệnh đều là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Về mặt giá trị pháp lý của văn bản thì những quy định của pháp lệnh cũng như các quy phạm giải thích đều có hiệu lực pháp lý rất rộng, nghĩa là được áp dụng đối với mọi đối tượng trong xã hội, trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, giữa thẩm quyền giải thích và ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có những điểm khác nhau. Chẳng hạn, nếu như hoạt động giải thích không bị hạn chế về những vấn đề được đưa ra giải thích thì việc ban hành pháp lệnh lại bị hạn chế bởi chương trình lập pháp được Quốc hội thông qua. Những hạn chế này được quy định tại khoản 1, Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 “Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh”; và tại khoản 4, Điều 91 quy định: “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”.

So sánh giữa hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và lập pháp của Quốc hội, có thể nói hoạt động giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong tình hình hiện nay là hoàn toàn bị động theo yêu cầu của các cơ quan kiến nghị giải thích và không được định trước trong kế hoạch hay chương trình giải thích pháp luật.

3. Tình hình giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở nước ta trong thời gian qua

Trong những năm qua, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua được nhiều luật, pháp lệnh. Những quy định của các văn bản pháp luật này đã góp phần vào việc quản lý đất nước và xã hội. Tuy nhiên, có nhiều quy định của luật, pháp lệnh còn mang tính chất định hướng chung chung, không rõ ràng. Nguyên nhân của những tồn tại này là do từ một cơ chế cũ tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, có những văn bản được ban hành để phục vụ cho việc chuyển đổi đó đối với chúng ta lại còn có quá ít kinh nghiệm. Hơn nữa, tình trạng chồng chéo, thậm chí còn mâu thuẫn giữa các quy định trong các văn bản vẫn còn khá phổ biến. Việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài về cùng lĩnh vực còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật của chúng ta còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn, đặc biệt pháp luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động xây dựng pháp luật chưa được tốt. Về chương trình xây dựng pháp luật chưa chuẩn bị một cách khoa học. Việc soạn thảo và trình các dự án luật, pháp lệnh cũng không bảo đảm tiến độ.

Từ thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, do không quy định cụ thể, rõ ràng nên các cơ quan bảo vệ pháp luật, người thực thi công vụ, thi hành pháp luật và những người chấp hành pháp luật đã có sự nhận thức không thống nhất về một quy phạm pháp luật dẫn đến việc áp dụng hoặc không đúng, hoặc có tranh chấp trong quá trình thực thi. Ví dụ:

Tại khoản 3, Điều 38 của Luật Đất đai năm 1993 quy định: “Các tranh chấp về quyền sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do toà án giải quyết”. Quy định này có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhau:

a. Đối với quy định “các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền” có các ý kiến khác nhau như sau:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: “giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền” cần được hiểu là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo đúng quy định tại các Điều 23, 24 và các quy định khác của Luật Đất đai, còn các giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước đã cấp trước đây trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam thì không được coi là “giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền” quy định tại khoản 3, Điều 38 của Luật Đất đai.

 Loại ý kiến thứ hai lại cho rằng: “Giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” cần được hiểu là ngoài giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo đúng quy định tại các Điều 23, 24 và các quy định khác của Luật Đất đai, còn bao gồm các giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định pháp luật tương ứng với thời kỳ cấp (trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam). Tuy nhiên, khi xem xét tính hợp pháp và giá trị pháp lý của các giấy chứng nhận này cần phải quán triệt tinh thần của quy định tại khoản 2, Điều 2 của Luật Đất đai: “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.

b. Đối với quy định: “Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó” có các ý kiến khác nhau như sau:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: “đất đó” là đất có tài sản mà không cần điều kiện đã có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng: “đất đó” là đất có tài sản và đã có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thế nào là giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phụ thuộc vào sự giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo một trong hai cách hiểu tại điểm a của Tờ trình này) với lý do toà án chỉ giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất trong trường hợp việc sử dụng đất đó là hợp pháp.

Phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua, việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa được thường xuyên và còn rất ít. Nguyên nhân của những tồn tại này là do, các cơ quan áp dụng pháp luật và những người thi hành pháp luật chưa chủ động đặt vấn đề trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giải thích. Trong một vài trường hợp đã có đề nghị giải thích thì việc giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng chưa được kịp thời, có thể do công tác chuẩn bị các phương án giải thích chưa được tốt, song phải thẳng thắn đánh giá rằng, việc giải thích không kịp thời đã gây ảnh hưởng cho công tác áp dụng và thi hành pháp luật. Ví dụ: khoản 3, Điều 38 của Luật Đất đai quy định: “tranh chấp về quyền sử dụng đất đai đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó, thì do Toà án giải quyết”. Có thể nói rằng, quy định này trong thực tiễn áp dụng pháp luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật khác nhau, thậm chí các luật gia trong cùng một cơ quan còn có các cách hiểu khác nhau. Cụ thể trong ngành Toà án nhân dân khi đưa quy định này ra thảo luận để hướng dẫn áp dụng đã có hai quan điểm trái ngược nhau. Để bảo đảm thống nhất trong áp dụng pháp luật, Toà án nhân dân tối cao đã có Tờ trình số 332/NCPL, ngày 19/5/1994 trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giải thích quy định này, sau đó Toà án nhân dân tối cao có tiếp hai Công văn đề nghị được giải thích. Thế nhưng, cho đến nay quy định này vẫn chưa được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải thích và trong thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân gặp không ít khó khăn khi áp dụng quy định đó.

Hơn thế nữa, một trong những nguyên nhân quan trọng của việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa có hiệu quả cao, đó là do chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật để quy định một cách cụ thể, chi tiết thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Mặc dù, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng đã dành ra hai điều để quy định về thủ tục, trình tự và thông qua một nghị quyết về giải thích luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, những quy định này mới chỉ dừng lại ở những nét chính, đại cương và cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề giải thích luật, pháp lệnh, còn việc giải thích Hiến pháp chưa được đề cập.

Tóm lại, đánh giá tổng quát công việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của chúng ta trong thời gian qua như trên, chúng tôi thấy rằng đã có ảnh hưởng lớn đến thực tiễn áp dụng và thi hành pháp luật, đó là không bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng và thi hành pháp luật, điều đó dễ dẫn đến tuỳ tiện và tiêu cực trong cuộc sống, và không có giải thích hoặc không được giải thích kịp thời cho nên có những quy định của pháp luật không được thi hành, hiệu quả công tác thấp.

4. Việc tổ chức, thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh

4.1. Cơ quan có quyền trình kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh

Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là một quá trình gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Có thể nói giai đoạn đầu của quá trình này là sự xuất hiện kiến nghị về việc giải thích hay còn gọi là sáng kiến giải thích pháp luật.

Nhu cầu giải thích luật có thể đặt ra ở mọi nơi, từ mọi đối tượng. Tuy nhiên, do tính chất của văn bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là văn bản mang tính chất quyền lực nhà nước và có ý nghĩa như một văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, việc xác định cơ quan nào có thẩm quyền kiến nghị là hết sức quan trọng.

Theo chúng tôi, không phải cơ quan, tổ chức, cá nhân nào cũng có thể có quyền trình kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Quyền này chỉ nên tập trung vào một số cơ quan, tổ chức mà ngoài việc có thẩm quyền trình dự án luật thì chính các cơ quan, tổ chức này cũng có trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Với cách đặt vấn đề như vậy thì chủ thể có quyền trình kiến nghị giải


 

thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chỉ thuộc về Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Sở dĩ chúng tôi muốn xác định một số cơ quan như đã nêu trên, chứ không xác định tất cả các chủ thể có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội quy định tại Điều 87 của Hiến pháp năm 1992 đều trở thành chủ thể có quyền trình kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là vì, trong thời gian qua, chỉ có những cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thực thi các đạo luật, pháp lệnh, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhằm áp dụng các quy định của luật pháp vào cuộc sống thì phát sinh vấn đề có sự hiểu khác nhau, không thống nhất hoặc quy định không được rõ ràng trong các văn bản.

Theo chúng tôi, cơ quan, tổ chức trình kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh có quyền kiến nghị với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề cần được giải thích dưới hình thức một dự thảo nghị quyết giải thích.

Về trình tự, thủ tục trình văn bản kiến nghị giải thích có thể đơn giản và gọn hơn so với trình tự, thủ tục trình dự án luật ra trước Quốc hội. Văn bản kiến nghị giải thích phải ghi rõ vấn đề cần giải thích, lý do cần giải thích và những cách hiểu khác nhau dẫn đến những vướng mắc trong khi áp dụng quy định cần được giải thích.

4.2. Thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích

Giai đoạn tiếp theo của quá trình giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là sự thẩm tra về sự cần thiết và nhất là về các nội dung có liên quan cần phải giải thích.

 Theo quy định tại Điều 53 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đều có trách nhiệm tham gia vào quá trình giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội tiến hành thẩm tra kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh sau khi cơ quan có thẩm quyền trình kiến nghị giải thích văn bản trình đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Việc thẩm tra kiến nghị giải thích có thể được tiến hành theo trình tự sau đây:

- Cơ quan trình kiến nghị giải thích trình bày vấn đề cần giải thích;

- Đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan phát biểu ý kiến;

- Hội đồng Dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội thảo luận;

- Chủ toạ phiên họp kết luận. Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội được gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo thời hạn do pháp luật quy định.

4.3. Thông qua nghị quyết về kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh

 Sau khi văn bản giải thích được soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét. Tại phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan đã có đề nghị giải thích được mời tham dự phiên họp trình bày ý kiến; đại diện cơ quan được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo; đại diện cơ quan thẩm tra trình báo cáo thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích; đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến; các thành viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận; Chủ toạ phiên họp kết luận; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và thông qua văn bản giải thích dưới hình thức ban hành Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được thông qua khi được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh.

5. Một số kiến nghị

Với việc phân tích và đặt vấn đề như đã trình bày trong các phần của bài viết này, chúng tôi xin đề nghị cần phải sớm ban hành một văn bản dưới hình thức luật hoặc nghị quyết của Quốc hội để quy định về trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; trong đó quy định các vấn đề sau đây:

a) Xác định cơ quan có quyền trình kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;

b) Xác định cơ quan có quyền thẩm tra các kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;

c) Quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:

+ Soạn thảo dự thảo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

+ Thẩm tra các vấn đề giải thích;

+ Thảo luận tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

d) Hình thức ban hành văn bản giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là việc ra nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.


 

 


 

[*] Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5/2000.

** Hiện là Tiến sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ Công tác lập pháp, Văn phòng Quốc hội.


 

[1]  Giải thích pháp luật ở Canađa, 1992, tr. 246.

[2]  Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam - những khía cạnh pháp lý theo Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992, Nxb. Pháp lý, 1992, tr.53, 54.

[3]  Black's Law Dictionary của tác giả Henry Campbell Black, M.A.

 

   
Về trang mục lục

Trở về đầu trang