Thưa Cụ Chủ
tịch,
Thưa các vị
đồng Viện,
Bản báo cáo
của tôi về vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chuyên nói
về việc giao thiệp của chúng ta với Chính phủ Pháp.
Đối với cường
quốc như Anh, Mỹ, chúng ta bao giờ cũng hết sức thân thiện và tin chắc rằng
một ngày không xa sẽ có những sự giao thiệp chính thức và mật thiết giữa hai
cường quốc ấy với chúng ta về mọi phương diện.
Đối
với Trung Hoa là nước mà xưa nay có quan hệ nhiều với nước ta về địa lý và
lịch sử, văn hóa chúng ta bao giờ cũng coi như người bạn rất tốt và khẩu
hiệu Liên - Hoa mà nhân dân Việt Nam hô to trong cuộc kháng chiến chống kẻ
thù chung ngày ngày càng thực hiện.
Gần đây đối
với nước Ấn Độ độc lập chúng ta bắt đầu có những mối quan hệ có ý nghĩa về
tương lai.
Trong những
nước láng giềng chúng ta, chúng ta nhớ đến nước Xiêm
vì kiều bào ta ở đấy rất đông và rất giàu lòng ái quốc.
Bán đảo Mã Lai,
nước Diến Điện,
quần đảo Nam Dương
là những nước trước đây cùng ở trong một cảnh ngộ như chúng ta, ngày nay tuy
kẻ chóng người chậm, nhưng đều tiến mạnh trên con đường giải phóng. Đối với
những nước ấy chúng ta rất thân thiện về tinh thần và mong đợi ngày thực
hiện được tình thân thiện ấy.
Về phía Đông
quần đảo, Phi Luật Tân
là cái cầu thiên nhiên trên con đường tiến triển của chúng ta ra ngoài hướng
về châu Mỹ hay châu Úc.
Nhìn qua con
đường tiến triển của chúng ta về ngoại giao với các nước, chúng ta quay lại
vấn đề chính là sự giao thiệp của ta với Chính phủ Pháp.
Cuộc giao
thiệp giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp từ lúc Chính phủ thành lập,
nhất là từ tháng 3-1946 đã trải qua mấy giai đoạn rất rõ rệt:
Bản Hiệp định
sơ bộ ngày 6-3-1946;
Cuộc đàm phán
trù bị Đà Lạt đồng thời với sự hoạt động của phái đoàn Quốc hội ở Pháp.
Cuộc đàm phán
Fontainebleau đi đến bản thỏa hiệp tạm thời ngày 14-9. Mỗi giai đoạn kể trên
là một bước tiến thủ của nước Việt Nam trên con đường tranh thủ tự do và độc
lập.
Tôi xin lần
lượt trình bày cùng Quốc hội sự cố gắng và sức phấn đấu của Chính phủ Việt
Nam trên con đường ấy.
Trước hết tôi
xin nói về: Bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946.
Nhắc lại bản
Hiệp định sơ bộ 6-3 nghĩa là nhắc lại cả tình thế của nước Việt Nam lúc bấy
giờ.
Ngày 19-8 cuộc
tổng khởi nghĩa thắng lợi giành lại chính quyền cho nhân dân Việt Nam suốt
Trung Nam Bắc: chính thể dân chủ cộng hòa thành lập. Nhưng sau đó một tháng
vì quân đội Pháp muốn chiếm lại xứ Nam bộ thân mến của chúng ta cho nên
chiến tranh đã xảy ra giữa Pháp và ta ở đó.
Ngày ... tháng 8
đồng bào Nam bộ đã tranh thủ được tự do ở trong tay quân phát xít Nhật. Lẽ
nào đồng bào Nam bộ để tự do quý báu ấy lọt lại trong tay người Pháp và trở
lại chế độ nô lệ ngày xưa.
Đồng bào Nam
bộ không có súng đạn đầy đủ.
Đồng bào Nam
bộ không có bộ đội thao luyện.
Đồng bào Nam
bộ không ngờ đến chiến tranh và không chuẩn bị chiến tranh với người Pháp.
Trái lại bộ
đội Pháp thì sẵn vũ khí tối tân, giàu kinh nghiệm trên bao nhiêu chiến
trường ở châu Phi và châu Âu; họ tưởng chiến thắng dễ dàng dân quân của
chúng ta; chinh phục mau chóng xứ sở chúng ta.
Họ đã lầm to.
Cuộc kháng
chiến anh dũng xảy ra hồi tháng 9 đã kéo dài đến đầu năm 1946.
Trong sáu
tháng bao nhiêu máu mủ đã nhuộm đỏ miền Nam đất Việt, nhưng anh chị em Nam
bộ được sức ủng hộ của đồng bào toàn quốc vẫn trơ như đá vững như đồng quyết
giữ gìn chủ quyền cho dân tộc.
Đó là nguyên
nhân chính của Hiệp định sơ bộ ngày 6-3, bản hiệp định đầu tiên thừa nhận
nền tự chủ của nước Việt Nam.
Nguyên nhân
thứ hai là sự bất mãn của nhân dân Pháp, của dư luận Pháp đối với một cuộc
chiến tranh thực dân hao tốn và phiêu lưu, một cuộc chiến tranh vì chính
nghĩa đối với một nước dân chủ cộng hòa mới thành lập sau 5 năm kháng Nhật
đồng thời với các nước đồng minh.
Đó là về phần
người Pháp.
Về phần chúng
ta, dân ta và Chính phủ ta từ tháng 9 đến nay vì vận mệnh của nước nhà mà
phải chiến đấu, ở Nam bộ, nay có cơ hội trở lại hòa bình, mà đồng thời cũng
đi đến được độc lập; mục đích cuối cùng vẫn đạt được mà lại tránh được bao
nhiêu sự hy sinh đau đớn.
Hồ Chủ tịch
trước khi cùng đại diện chính phủ Pháp ký bản Hiệp định sơ bộ đã cân nhắc
lợi hại gần xa của dân tộc một cách rõ như thế. Trong hai con đường đưa đến
độc lập, Hồ Chủ tịch đã chọn con đường đỡ hao tổn mà cũng chắc chắn hơn.
Xét qua nội
dung của bản Hiệp định sơ bộ, chúng ta phải chú ý mấy điều sau này:
1- Trước hết bản Hiệp định ấy là một bản Hiệp định đình chiến.
Xin các bạn
đồng Viện nghe lại câu này: "Các điều khoản kể trên đây sẽ được tức khắc thi
hành. Sau khi ký hiệp định, hai Chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách
cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại
vị trí hiện thời và để gây một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở
ngay cuộc điều đình thân thiện và thành thực".
Ai cũng biết
người Pháp không làm đúng theo điều đã ký. Và đồng bào Nam bộ đã trả lời một
cách đích đáng cho họ rằng con đường ấy là con đường sai lầm.
Bẩy tháng sau
khi bản Hiệp định sơ bộ này đã ký và hôm nay đúng ngày 30-10 là ngày bắt đầu
thi hành bản Thỏa hiệp tạm thời vừa ký, chúng ta nên nhắc lại cho người Pháp
câu tục ngữ: Xe trước đã đổ, xe sau phải coi chừng; để kêu gọi người Pháp
thi hành cho đúng khoản thứ 9 trong bản Thỏa hiệp tạm thời, khoản nói về Nam
bộ.
2- Điều quan trọng trong bản Hiệp định sơ bộ mà chúng ta nên nêu ra là điều
thừa nhận "nước cộng hòa Việt Nam là một nước tự do có Chính phủ, Nghị viện,
bộ đội, tài chính riêng của mình".
Trong lúc bản
Thỏa hiệp tạm thời ngày 14-9 sắp đem ra thi hành cũng nên nhắc lại điều này
trong bản Hiệp định sơ bộ vì đó là điều quyết định nền tự chủ của Việt Nam
về vấn đề tiền tệ và quan thuế.
3- Về vấn đề Nam bộ, bản Hiệp định sơ bộ đã chủ trương: Trưng cầu dân ý để
cho người Việt Nam ở Nam bộ tự quyết định số phận của mình, nghĩa là tự
quyết định muốn trở lại làm nô lệ cho người Pháp hay nhất định làm công dân
tự do của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Lúc bấy giờ có
người hỏi: sao Cụ Hồ ký nhận điều ấy? Nhưng thật ra nếu chúng ta không dùng
võ lực, không dùng chiến tranh thì chỉ có cách trưng cầu dân ý để giải quyết
vấn đề thống nhất Trung Nam Bắc.
Lúc bấy giờ có
người lo: Trưng cầu dân ý trong lúc quân đội Pháp chiếm đóng nhiều nơi quan
trọng trong Nam, trong lúc họ dùng khủng bố để áp bức, ép buộc thì e bất lợi
cho ta. Nhưng Hồ Chủ tịch đã tin tưởng chắc chắn vào lòng ái quốc, chí dũng
cảm; sức tranh đấu của toàn thể đồng bào Nam bộ, và toàn thể đồng bào
Nam bộ mặc dầu đại bác liên thanh, mặc
dầu thiết giáp xe tăng đã trả lời cho người Cha già của dân tộc Việt Nam
rằng: đây là đất nước Việt Nam, đây là dân tộc Việt Nam, cùng một
nguồn, cùng một gốc, một tiếng nói, một chí hướng và cùng như lời anh Nguyễn
Văn Tạo đã nói: đại bác, liên thanh, xe tăng, thiết giáp không thể chia rẽ
giang sơn đất Việt.
Quân đội Pháp
chiếm đóng nhiều nơi ở Nam bộ; bộ máy chính quyền người Pháp có nhiều lợi
khí ủng hộ cho dã tâm của mình nhưng đến nay họ vẫn chưa chịu tổ chức cuộc
trưng cầu dân ý. Thế là nghĩa gì? Thế nghĩa là: Nam bộ là miền Nam đất Việt
và đồng bào Nam bộ là người Việt miền Nam; và vũ khí tối tân không có thể
thay đổi gì về điều thiên nhiên ấy.
Về cuộc trưng
cầu dân ý có người lo ngại nếu tình thế này kéo dài tôi e càng ngày càng
thiệt thòi vì đồng bào Nam bộ phần bị khủng bố, phần bị mua chuộc, phần mệt
mỏi. Chúng ta có nên quá lo ngại thế không? Khủng bố, thì kể sao cho xiết,
và thật là vô cùng dã man tàn ác, mua chuộc cũng có, nhưng chỉ thu phục được
một nhóm người không đáng kể; còn mệt mỏi thì không, nhất định không. Không,
đồng bào Nam bộ không những không mệt mỏi mà trái lại càng kháng chiến càng
thêm phấn khởi càng bị khủng bố càng quyết sống chết với tự do. Và ai cũng
phải công nhận rằng người Pháp càng dùng những thủ đoạn tàn khốc bất chính
để chia xé Nam bộ thì phong trào chia rẽ càng thụt lùi và phong trào thống
nhất càng tiến bước không chỉ ở thôn quê, mà đến các đô thị, tại trung tâm
Sài Gòn. Người Pháp càng kéo dài tình thế này chừng nào thì số đồng bào đã
giác ngộ lại giác ngộ thêm; số rất ít người chưa giác ngộ sẽ dần dần giác
ngộ cho nên cuộc trưng cầu dân ý nếu người Pháp sợ nó mà hoãn lại thì chỉ
giúp cho sự thắng lợi của chúng ta càng vẻ vang thêm.
Tóm
lại trên con đường tranh thủ độc lập của chúng ta, Hiệp định sơ bộ 6-3 là
bước đầu đã nêu cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và mở
đường cho cả một cuộc tiến triển về sau.
Ngoài ra bản
Hiệp định sơ bộ đã dự phòng giữa hai chính phủ Pháp và Việt những cuộc đàm
phán chính thức để giải quyết những vấn đề quan trọng này:
- Quyền lợi
kinh tế và văn hóa của người Pháp;
- Chế độ tương
lai của Liên bang Đông Dương;
- Sự quan hệ
về ngoại giao của nước Việt Nam với nước ngoài.
Ngày
24-3-1946, Hồ Chủ tịch hội đàm với Đô đốc D'Argenlieu tại vịnh Hạ Long. Đến
ngày 1-4-1946, các báo có đăng lời tuyên bố sau này của Cụ:
1) Vào độ
trung tuần tháng tư một đoàn phái bộ đại biểu Quốc hội Việt Nam sẽ đi Pháp
để tỏ tình thân thiện giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam đối với Quốc hội và
nhân dân Pháp;
2) Cùng trong
thời gian đó sẽ có một phái bộ chừng độ 10 người từ Pháp qua Việt Nam sửa
soạn các tài liệu cần thiết;
3) Đến hạ tuần
tháng năm, phái bộ ta sẽ qua Pháp để mở cuộc đàm phán chính thức.
HỘI NGHỊ TRÙ BỊ ĐÀ LẠT
Thế là ngày
16-4 tại trường bay Gia Lâm phái đoàn Việt Nam bay đi Đà Lạt để cùng phái
đoàn Pháp mở cuộc đàm phán trù bị Đà Lạt.
Cuộc đàm phán
ấy khai mạc ngày 19-4 và bế mạc ngày 11-5 tính được 22 ngày và đã xét qua
tất cả những vấn đề mà bản Hiệp định sơ bộ đã nêu ra chính trị, kinh tế, tài
chính, văn hóa, quân sự. Trong đó vấn đề trưng cầu dân ý ở Nam bộ đã làm sôi
nổi hội nghị và dư luận.
Đây tôi xin
thuật qua tình hình đàm phán về các vấn đề ấy: (xem văn kiện).
Hội nghị trù
bị Đà Lạt chỉ cốt để cho đôi bên bày tỏ lập trường của mình và ai cũng thấy
rằng lập trường ấy còn xa nhau nhiều và không dễ gì đi đến sự thỏa thuận
toàn vẹn và nhanh chóng.
PHÁI ĐOÀN QUỐC HỘI SANG
PHÁP
Đồng thời một
ngày với phái đoàn đàm phán đi Đà Lạt thì phái đoàn Quốc hội từ Gia Lâm bay
sang Pháp.
Công việc phái
đoàn Quốc hội đã làm bên Pháp có thể tóm tắt trong bản thông cáo này:
"Từ giã Hà Nội
ngày 25 phái đoàn chúng tôi đến Ba-lê.
Ở nước Pháp được 20 ngày, hôm 16-5 chúng tôi đáp máy bay về nước, đến ngày
23 chúng tôi về tới Hà Nội.
"Nhiệm vụ của
phái đoàn Quốc hội Việt Nam là sang tỏ lòng thân thiện với Quốc hội Pháp và
nhân dân Pháp. Chúng tôi tin rằng chúng tôi làm trọn nhiệm vụ đó.
"Vì nghĩ rằng
tình thân thiện giữa hai dân tộc cần được xây trên nền tảng vững vàng nên
chúng tôi đã mạnh bạo nêu lên tất cả những vấn đề phân tranh giữa Việt và
Pháp, nhất là về vấn đề Nam bộ. Chúng tôi đã tiếp xúc với nhiều nghị viên
Quốc hội Pháp, với các chính đảng, các nhà báo, cùng các nhân sĩ có danh của
nước Pháp, đâu đâu chúng tôi cũng thấy mối cảm tình với nước Việt Nam và sự
nhận xét thỏa đáng về vấn đề Nam bộ. Do sự hoạt động của chúng tôi mà người
Pháp nhận thấy rõ ràng nếu nước Việt Nam cần thân thiện với nước Pháp thì
nước Pháp cũng cần thân thiện với nước Việt Nam, và muốn thực hiện tình thân
thiện ấy được hoàn toàn thì phải giải quyết vấn đề Nam bộ cho hợp với ý
nguyện của toàn thể dân tộc Việt Nam.
"Chúng tôi
không bao giờ quên thái độ lịch sự và cảm tình mật thiết của nhân dân Pháp
đối với chúng tôi."
Trong lúc ở Đà Lạt hai phái đoàn Việt và Pháp họp nhau lại để chứng kiến
nhiều chỗ phân tranh hơn chỗ thỏa thuận thì phái đoàn Quốc hội sang Pháp đã
cùng với những người đại diện của Quốc hội Pháp, các giới chính trị Pháp,
các cơ quan ngôn luận Pháp, các đoàn thể dân chúng Pháp chứng kiến nhiều chỗ
thỏa thuận hơn chỗ phân tranh và chúng ta đã nhận thấy rằng nước Pháp của
cuộc Đại Cách mệnh
1789, nước Pháp vừa thoát khỏi cuộc ngoại xâm tàn khốc đã hiểu và sẵn lòng
ủng hộ hai nguyện vọng chính đáng và tha thiết của dân tộc Việt Nam là thống
nhất và độc lập.
Vì thế cho nên
chúng ta không nên vì những việc xảy ra ở Nam bộ hay ở Hải Phòng, những việc
đã xảy ra hôm qua và có thể xảy ra ngày mai mà quên nước Pháp mới đương tiến
mạnh trên con đường dân chủ và hòa bình, nước Pháp sẵn lòng thân thiện với
ta và chúng ta quyết tâm thân thiện.
Lúc chúng tôi
ở Pháp, có nhiều nghị viên Quốc hội Pháp tỏ ý rồi đây nghị viện Pháp sẽ gửi
một phái đoàn sang để đáp lễ chào mừng của Quốc hội Việt Nam. Cho nên chúng
tôi mong rằng: rồi đây nghị viện Pháp bầu xong chúng ta sẽ được hân hạnh
tiếp đón phái đoàn nghị viện Pháp sang nước ta để xây đắp cho được vững bền
thêm tình thân thiện giữa hai nước cùng nhau phụng sự dân chủ và hòa bình.
Thưa các bạn đồng Viện,
Từ ngày
6-3-1946 chúng ta mong đợi, ngày mà Chính phủ Việt Nam sẽ phái một phái đoàn
để cùng với Chính phủ Pháp chính thức đàm phán tại Pháp.
Ngày ấy đã
đến.
Và ngày ấy,
không chỉ có một phái đoàn Việt Nam sang Pháp, Hồ Chủ tịch vị lãnh tụ yêu
quý của dân Việt Nam và đồng thời là người bạn chân thành của dân Pháp, cũng
sang Pháp.
Lần đầu tiên
đối với thế giới, nước Việt Nam đã xuất hiện dưới hình ảnh một ông già tiêu
biểu cho ý chí của 20 triệu con người quyết tâm giành địa vị xứng đáng của
mình trong gia đình các nước dân chủ trên thế giới.
Thưa các bạn
đồng Viện, Hồ Chủ tịch đã đem lại cho dân tộc Việt Nam một ảnh hưởng sâu xa
và rộng rãi cho nên tôi xin diễn đạt lòng hâm mộ toàn dân mà tỏ hoan nghênh
đối với vị lãnh tụ yêu quý của chúng ta, tại thủ đô nước Pháp cũng như ở Hà
Nội, cũng như xưa kia trong rừng núi, bao giờ cũng thiết tha tận tụy với dân
tộc, cương quyết và khôn khéo tranh thủ quyền lợi tối cao của quốc gia, luôn
luôn sáng suốt dìu dắt vận mệnh nước nhà trên con đường Tự do, Độc lập, Hạnh
phúc.
Quay lại cuộc
đàm phán Fontainebleau, chúng tôi không khỏi bùi ngùi hổ thẹn vì nếu Quốc
hội hỏi chúng tôi mang lại cái gì xứng đáng với sự hy sinh phấn đấu của quốc
dân trong một năm nay thì chúng tôi phải thú nhận rằng chúng tôi đã không
thực hiện được những hy vọng mà quốc dân đã đặt vào chúng tôi.
Quả thật chúng
tôi chưa mang về được cái gì đảm bảo cho sự thống nhất ba kỳ, chúng tôi chưa
mang về được chữ ký của chính phủ Pháp thừa nhận nền độc lập của Việt Nam,
nhưng về mặt tinh thần chúng ta thu được những thành tích rất quan trọng và
quý báu là sự đồng tình, và sức ủng hộ của nhân dân Pháp, dư luận Pháp,
nhiều chính giới, các đoàn thể dân chúng Pháp đối với vị Chủ tịch của nước
Việt Nam và đối với nước Việt Nam của vị Chủ tịch ấy.
Cho nên sau
khi ở Pháp về, Hồ Chủ tịch mạnh dạn tuyên bố:
Nước Việt Nam
phải thống nhất.
Nước Việt Nam
phải độc lập.
Bây giờ tôi
xin báo cáo về cuộc đàm phán ở Pháp từ Fontainebleau đến bản Thỏa hiệp tạm
thời 14-9-46.
Từ
Fontainebleau đến bản Thỏa hiệp tạm thời có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là cuộc đàm phán chính thức ở Fontainebleau giữa hai phái
đoàn Việt - Pháp từ buổi khai mạc 6-7-46 đến ngày 1-8 là ngày cuộc đàm phán
tạm hoãn, nguyên nhân là
vì phái đoàn Việt Nam phản kháng về việc triệu tập hội nghị liên bang ở Đà
Lạt.
Giai đoạn thứ
hai là giai đoạn Hồ Chủ tịch trực tiếp với nhân viên trọng yếu trong chính
phủ Pháp để thỏa thuận về cách mở lại hội nghị Fontainebleau cho có hiệu
quả. Giai đoạn này kéo dài trong suốt tháng tám.
Giai đoạn thứ
ba là giai đoạn đi đến bản Thỏa hiệp tạm thời 14-9 là giai đoạn tạm thời kết
thúc cuộc đàm phán chính thức của chúng ta ở Pháp.
Giai đoạn thứ
nhất là giai đoạn đàm phán chính thức giữa hai phái đoàn, trong những phiên
họp toàn thể hai phái đoàn và những phiên họp các tiểu ban chính trị, kinh
tế, tài chính, văn hóa và quân sự. Trong những phiên họp này, trừ vấn đề Nam
bộ ra, các vấn đề khác đều đem ra bàn cãi, nhưng trong đó nên chú ý những
vấn đề này:
- Địa vị nước
Việt Nam trong khối Liên hiệp nước Pháp;
- Vấn đề ngoại
giao của nước Việt Nam;
- Vấn đề Liên
bang Đông Dương.
Giai đoạn thứ
hai là giai đoạn Hồ Chủ tịch thương thuyết để thỏa thuận với chính phủ Pháp
về những điều căn bản có thể mở lại cuộc đàm phán Fontainebleau một cách
thuận tiện để đi đến một bản hiệp định dứt khoát. Chính lúc này là lúc cụ Hồ
Chủ tịch nêu ra hai vấn đề thiết cốt của dân tộc Việt Nam và hết sức tranh
thủ sự đồng tình của chính phủ Pháp.
Một là vấn đề
chính phủ Pháp thừa nhận nền độc lập của nước Việt Nam trong khối Liên hiệp
Pháp.
Hai là vấn đề
tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam bộ.
Vì vấn đề thứ
nhất, căn bản chính phủ Pháp không có lý do gì phản đối và chỉ vì hoàn cảnh
chính trị nước Pháp lúc bấy giờ mà chưa giải quyết được.
Thật thế chính
phủ nước Pháp cộng hòa không thể có lý do căn bản gì không thừa nhận công
nhiên trước thế giới nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chúng
ta ngạc nhiên vì sao chính phủ Pháp đối với chúng ta còn quá e lệ rụt rè
trong lúc chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận nền độc lập của Phi Luật Tân,
chính phủ Anh thừa nhận nền độc lập của Ấn Độ.
Vấn đề thứ hai
là vấn đề tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam bộ. Về vấn đề này Hồ Chủ tịch có
trao cho chính phủ Pháp một bản đề nghị chủ trương cách tổ chức và cơ quan
phụ trách việc trưng cầu dân ý. Về vấn đề này cũng thế, căn bản chính phủ
Pháp cũng không có lý do gì phản đối việc tổ chức trưng cầu dân ý, nhưng
chính phủ Pháp cũng chỉ viện ra những lẽ e ngại lo sợ về việc trị an chưa
hoàn toàn khôi phục mà tổ chức cuộc trưng cầu dân ý thì có chỗ chưa thích
hợp, thuận tiện.
Vì hai vấn đề
căn bản này đôi bên không thỏa thuận được nên việc mở lại hội nghị
Fontainebleau: nghĩa là việc hoãn hội nghị Fontainebleau còn kéo dài, nhưng
sẽ kéo dài đến chừng nào? Đó là một vấn đề mà hai Chính phủ đều lưu tâm,
nhưng chính đó là vấn đề quan hệ Việt - Pháp mà hai chính phủ không thể
không giải quyết, nếu không toàn bộ giải quyết thì cũng phải giải quyết
những điều cấp bách và cần thiết.
Đứng về nội
dung mà nói thì bản Thỏa hiệp tạm thời 14-9 có thể phân thành hai phần: một
phần đặc biệt quan thiết đến quyền lợi kinh tế và văn hóa người Pháp ở Việt
Nam, một phần đặc biệt quan thiết đến tình hình chính trị ở miền Nam Trung
bộ và nhất là ở Nam bộ ngoài ra có vấn đề đặt lãnh sự ở những nước láng
giềng mà chúng ta cùng quan tâm. Phân ra như thế để cân phần nặng nhẹ, chứ
thật ra người Việt chúng ta cũng cần ổn định tình hình kinh tế chung ở miền
Bắc như người Pháp cũng cần ổn định tình hình chính trị chung ở miền Nam.
Tình hình kinh tế chung ở Bắc tốt đẹp thêm thì Pháp và Nam đều có lợi. Tình
hình chính trị chung ở Nam yên ổn thì người Nam cũng như người Pháp đều có
lợi. Chúng ta phải nói rõ chỗ này để cho mọi người nhận thấy rằng: quyền lợi
của người Việt và người Pháp mật thiết liên quan với nhau từ kinh tế đến
chính trị và từ Bắc vào Nam; quyền lợi này đều liên đới quan hệ với nhau.
Muốn lợi cho mình phải nhớ đến lợi người; muốn làm hại người phải nhớ rằng
người có thể làm hại mình. Quên điều này, làm trái điều này, nghĩa là muốn
lợi mình hại người sẽ không thành và có hại.
Cố nhiên: Đối
với bản Thỏa hiệp tạm thời chúng ta không ca khải hoàn mà hoan nghênh nó
nhưng chúng ta cũng không lấy gì làm bi quan.
Kẻ bi quan
trong sự nhận xét bản Thỏa hiệp tạm thời cũng như kẻ bi quan trong công cuộc
chung của quốc gia dân tộc đều không đúng.
Kẻ bi quan ấy
lo ngại rằng bản Thỏa hiệp tạm thời lúc thi hành ra sẽ lợi cho Pháp nhiều
hơn lợi cho ta vì người Pháp sẽ tìm hết cách để thi hành đầy đủ những điều
lợi cho họ và đồng thời dùng đủ thủ đoạn để ngăn sự thi hành những điều lợi
cho ta.
Nhưng có đạo lý nào lại như thế. Đối với chính phủ Pháp, chính phủ Việt Nam
tin tưởng vào lòng tín nghĩa của kẻ nắm quyền bính một nước văn minh. Đối
với người Pháp ở xứ ta, chúng ta tin cậy vào sự nhận thức quyền lợi của họ
một cách cho thích hợp.
Về kinh tế, văn hóa, chúng ta sẵn sàng khôi phục trong vòng những hiệp định
đã ký, quyền lợi của người Pháp, và chúng ta còn hoan nghênh họ phát triển
thêm, nhưng không một phút nào chúng ta không bao giờ quên đảm bảo chủ quyền
của nước Việt Nam, của chính phủ Việt Nam về nền kinh tế và văn hóa của quốc
dân.
Ví dụ như về
quan thuế, người Pháp lâu nay muốn nhập nền quan thuế Việt Nam vào khuôn khổ
chế độ quan thuế Liên bang nghĩa là dưới quyền người Pháp điều khiển, chúng
ta đã trả lời bằng lời nói và hành động: không được, nhất định không được
muốn gì thì muốn chứ không được. Chúng ta cần duy trì nền quan thuế tự chủ
của chúng ta cũng như chúng ta cần duy trì bộ máy hô hấp quan yếu đến tính
mệnh của chúng ta vậy.
Về vấn đề đặt
lãnh sự, bản Thỏa hiệp tạm thời thừa nhận quyền đặt lãnh sự của chúng ta là
một điều hiển nhiên chỉ còn thỏa thuận với người Pháp những vấn đề thủ tục.
Trong lúc Ấn
Độ đương đặt sứ thần ở nhiều nước lớn và đặt lãnh sự tại nhiều nơi, nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng phải bắt đầu đặt lãnh sự ở những nước lân cận
để xây đắp con đường ngoại giao về tương lai.
Nhưng đối với
chúng ta vấn đề cốt yếu trong bản Thỏa hiệp tạm thời là vấn đề Nam bộ và
miền Nam Trung bộ.
Vì vấn đề Nam
bộ, bản Thỏa hiệp tạm thời đã ghi những điều rất minh bạch và dứt khoát:
Phải đình
chiến hẳn;
Phải tha chính
trị phạm và người bị tù trong lúc giao chiến;
Phải thi hành
các tự do dân chủ;
Phải có người
đại diện chính phủ Việt Nam vào Nam cùng với viên Thượng sứ trông nom sự thi
hành bản Thỏa hiệp tạm thời.
Đấy! chưa có
trưng cầu dân ý nhưng chúng ta có tất cả điều kiện thuận tiện để đi đến sự
tiến hành cuộc trưng cầu dân ý ấy theo ý muốn của đôi bên, nhất là theo ý
muốn của chính phủ Pháp vì chính chính phủ Pháp cho là phải khôi phục lại
trị an thì mới tổ chức được cuộc đầu phiếu thành thực.
Những người lo
ngại cho số phận bản Thỏa hiệp tạm thời, lo ngại nhất cho sự thi hành những
điều khoản này:
Những người ấy
nhắc lại bản Hiệp định sơ bộ chủ trương lập tức đình chiến mà chiến sự vẫn
không đình.
Những người ấy
nhắc lại tiểu ban do hội nghị trù bị Đà Lạt tổ chức ra để nghiên cứu về
phương pháp đình chiến mà đến nay vẫn chưa làm được việc gì thực tế.
Những người ấy
còn kể thêm bao nhiêu hành vi trái Hiệp định sơ bộ của người Pháp từ đó đến
nay rải rác khắp xứ Việt Nam.
Nào là chiếm
cứ cao nguyên Nam Trung bộ.
Nào là thành
lập nước Nam Kỳ tự trị.
Nào là chiếm đóng một
đôi nơi ở Bắc bộ.
Rồi những người ấy hỏi
chúng ta: Chuyến này người Pháp sẽ thành thực đến chừng nào, sẽ quyết tâm
thi hành đến đâu những điều khoản thuộc về Nam bộ trong bản Thỏa hiệp tạm
thời.
Lo ngại, kể ra đáng lo
ngại.
Kinh nghiệm đã qua làm
cho chúng ta lo ngại, đã đành.
Những việc hiện đương
xảy ra cũng còn nuôi sự lo ngại ấy trong lòng ta.
Nhìn đến tương lai và
nhớ đến sự tham vọng không bờ bến của một số người Pháp đối với Nam bộ chúng
ta không thể yên tâm dễ dàng.
Nhưng lần đầu
xe tăng thiết giáp đã không chinh phục được Nam bộ cho nên mới có bản Hiệp
định sơ bộ. Lần thứ hai xe tăng thiết giáp cũng không chinh phục được Nam bộ
cho nên mới có bản Thỏa hiệp tạm thời 14-9.
Nghĩa là kẻ
quyết định số phận Nam bộ cuối cùng không phải người Pháp, quyết định số
phận Nam bộ cuối cùng là đồng bào Nam bộ, nhân dân Việt Nam và Chính phủ
Việt Nam. Đồng bào Nam bộ, nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam sẽ đủ sức
lực và thủ đoạn tranh thủ thắng lợi cuối cùng, tranh thủ cho kỳ được Nam bộ
ở trong vòng thân ái của Tổ quốc Việt Nam.
Đó là công
việc của chúng ta trong những ngày sắp tới.