Thưa các bạn
đồng Viện,
Như chúng tôi đã trình
các ngài buổi sáng hôm qua, trong số 380 đại biểu Quốc hội; 3 vị đã mệnh
một. Ngoài ra lại còn một vị mất tích.
Trong lúc chúng ta vui
vẻ gặp nhau và hội họp thân mật như thế này, còn một số các bạn đồng Viện
vắng mặt hoặc ở xa không về kịp, hoặc vì đương tiếp tục công tác ngoài mặt
trận hay ở các địa phương, hoặc vì trong khi phấn đấu cho nền độc lập của Tổ
quốc chẳng may đã sa vào tay quân địch và hiện đương sống trong cảnh giam
cầm, chịu bao nhục hình đau khổ.
Vắng mặt các bạn đó, hôm
nay chúng ta ai chẳng thấy bùi ngùi tấc dạ.
Thưa các ngài,
Trong
phiên họp ngày 2-3-1946, trước khi bế mạc, Quốc hội đã bầu ra một Ban Thường
trực và một Ban dự thảo Hiến pháp.
Chúng tôi xin báo cáo sơ
lược cùng các ngài công việc mà Ban Thường trực đã làm từ ngày 2-3-1946 đến
nay. Về chi tiết rất nhiều, các ngài cần biết thêm điều gì, xin để hỏi sau,
chúng tôi sẽ xin trả lời. Bản dự án Hiến pháp do Ban Hiến pháp khởi thảo sẽ
đem trình các ngài trong một phiên sau.
Chúng tôi sẽ lần lượt
nói về việc tổ chức Ban Thường trực Quốc hội và những công việc mà Ban
Thường trực Quốc hội đã làm trong tám tháng vừa qua.
Trước hết chúng tôi xin
nói sơ lược về cách tổ chức. Sau khi thỏa hiệp với chúng tôi, Chính phủ đã
đặt trụ sở Ban Thường trực Quốc hội ở số 71 phố Hàng Trống.
Trong phiên họp đầu tiên
vào ngày 4-3-1946, Ban Thường trực đã bầu 5 Ủy viên thường vụ:
1-
1 Trưởng ban: Nguyễn Văn Tố.
2-
2 Phó trưởng ban: Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ.
3-
2 Thư ký: Hoàng Minh Giám và Dương Đức Hiền.
Nhưng xem bản danh sách
các uỷ viên trong Ban Thường trực mà Quốc hội đã cử ra, không có vị nào là
đại biểu Nam bộ. Tuy có bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng là người Nam bộ, nhưng
bác sĩ lại là đại biểu tỉnh Nam Định ở Bắc bộ. Sở dĩ thiếu sót như thế là vì
hồi đó các đại biểu Nam bộ không ra kịp do những sự khó khăn ở dọc đường.
Để tỏ rõ ý chí thống
nhất của dân tộc Việt Nam, với sự thỏa thuận của tất cả các ngài, các vị đại
biểu quốc dân Nam bộ sau này đã được cử vào Ban Thường trực Quốc hội:
1-
2 Ủy viên chính thức: Cụ Tôn Đức Thắng và ông Dương Bạch Mai.
2-
2 Ủy viên dự khuyết: Ông Nguyễn Ngọc Bích và ông Huỳnh Tấn Phát.
Cũng trong phiên họp
ngày 4 tháng 3, Ban Thường trực Quốc hội lại thảo một bản nội quy về cách
làm việc.
Về phương pháp tiến hành
công việc thì các ủy viên Ban Thường trực Quốc hội chia ra làm 3 tiểu ban.
- Tiểu ban pháp chính.
- Tiểu ban
kinh tế và tài chính.
- Tiểu ban xã
hội.
Những việc mà
Ban Thường trực Quốc hội đã làm trong tám tháng vừa qua, tôi xin tóm tắt như
thế này:
Đối ngoại,
theo nghị quyết của Quốc hội ngày 2-3-1946, khi muốn tuyên chiến hay đình
chiến, Chính phủ bắt buộc phải hỏi ý kiến Ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 6-3-1946,
Ban Thường trực Quốc hội có họp tại dinh cụ Chủ tịch Chính phủ để nghe Hồ
Chủ tịch báo cáo về chính sách đối ngoại. Sau khi đã nhận định rõ ràng tình
hình quốc tế và tình hình trong nước, và thảo luận kỹ càng về mọi phương
diện Ban Thường trực Quốc hội đã tán thành đường lối chính trị của Chính phủ
và sau đó vài giờ, cụ Chủ tịch Chính phủ Việt Nam và đại biểu Chính phủ Pháp
đã ký bản Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp để mở đầu cho một giai đoạn mới trong
việc giao thiệp Việt - Pháp.
Để gây tình
giao hảo giữa Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Pháp, giữa dân chúng Việt Nam và
dân chúng Pháp, để sửa soạn cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt
- Pháp, ngày 16-4-1946, một phái đoàn Quốc hội khởi hành sang Pháp. Ông đoàn
trưởng Phạm Văn Đồng và phái đoàn luôn luôn cố sức gây mối thiện cảm giữa
hai dân tộc Việt - Pháp. Phái đoàn đã thâu được nhiều kết quả khả quan và
dân chúng Pháp đều ước mong cho hai dân tộc Việt - Pháp chóng đi tới sự thỏa
thuận.
Nhưng trái
lại, ở nước nhà, nhất là ở Nam bộ và Nam Trung bộ, quân Pháp phản động vẫn
luôn luôn có những thái độ khiêu khích phản bội Hiệp định sơ bộ.
Ban Thường trực Quốc hội
đã lớn tiếng phản kháng và tố cáo những hành vi trái tín nghĩa và trước dư
luận thế giới và hô hào quốc dân đồng bào đoàn kết chặt chẽ để sẵn sàng đối
phó. Những lời kêu gọi của Ban Thường trực, quốc dân đồng bào đã hưởng ứng
và chúng tôi tin chắc rằng với tinh thần phấn đấu, đoàn kết và tôn trọng kỷ
luật của toàn dân Việt Nam, nước ta nhất định phải thống nhất và đi tới độc
lập.
Bây giờ, chúng tôi xin
nói về những chủ trương của Ban Thường trực Quốc hội đối với việc nội trị.
Theo lời nghị quyết của
Quốc hội về quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Thường trực, thì Chính phủ chỉ
phải hỏi ý kiến Ban Thường trực Quốc hội khi nào muốn tuyên chiến hay đình
chiến, tức là trong mọi trường hợp khác, Chính phủ được toàn quyền định
đoạt.
Quốc hội sở dĩ ấn định
như vậy là vì khi ấy nước nhà đang vào một tình thế nghiêm trọng đặc biệt.
Muốn tổ chức một việc kháng chiến, Quốc hội đã tạm giao quyền cho Chính phủ.
Sau khi ký kết bản hiệp
định sơ bộ 6-3-1946, tình thế đã xoay chuyển, Ban Thường trực Quốc hội đã
tham gia vào công cuộc kiến thiết.
Chính phủ đã gửi sang để
Ban Thường trực Quốc hội chúng tôi xét 98 dự án sắc lệnh. Những sắc lệnh đó
đều có tính cách các đạo luật. Những đề nghị sửa đổi của Ban Thường trực
Quốc hội, Chính phủ phần nhiều đều nghe theo.
Về pháp chính, có nhiều
dự án sắc lệnh đáng chú ý, như Sắc lệnh về việc hội họp, việc ấn loát v.v..
Về kinh tế, Ban Thường
trực Quốc hội đã can thiệp để sự chuyên chở thóc gạo được dễ dàng.
Về tài chính, Ban Thường
trực đã xét các ngân sách toàn quốc và ngân sách các kỳ.
Về xã hội, đáng chú ý
nhất có dự án sắc lệnh về lao động và giáo dục.
Ngoài ra, chúng tôi còn
tiếp được nhiều đề nghị cải tạo đời sống ở hương thôn. Các đề nghị ấy, chúng
tôi đều xét kỹ lưỡng và chuyển giao cho các cơ quan phụ trách của Chính
phủ.
Đối với toàn thể quốc
dân, Ban Thường trực Quốc hội chủ trương sự thống nhất quốc gia và sự đoàn
kết các tầng lớp nhân dân.
Ngày 3-5-1946, Ban
Thường trực Quốc hội có cụ linh mục Phạm Bá Trực, ủy viên trong Ban Thường
trực Quốc hội cùng đi với phái đoàn Chính phủ vào Trung Bộ giải thích cho
toàn thể đồng bào chính sách quốc gia liên hiệp của Chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngày 14-8-1946, một phái đoàn Quốc hội gồm có hai ông Dương Văn Dự và ông
Nguyễn Tri được cử vào Nam Trung bộ úy lạo các chiến sĩ.
Mỗi lần bọn Pháp phản
động mưu mô chia rẽ dân tộc Việt Nam, Ban Thường trực Quốc hội chúng tôi đều
có tuyên ngôn hiệu triệu quốc dân đoàn kết chặt chẽ để tranh đấu cho nền độc
lập của Tổ quốc và sự thống nhất của quốc gia. Những mưu mô tách Nam bộ ra
khỏi nước Việt Nam, lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị, những việc oanh tạc lương
dân, bắt bớ giam cầm và tra tấn các chiến sĩ và các đại biểu Quốc hội ở Nam
bộ và Nam Trung bộ, chúng tôi đều phản kháng và lần nào cũng được toàn thể
quốc dân ủng hộ.
Riêng về vấn đề Quốc kỳ,
Ban Thường trực Quốc hội, từ lúc được Quốc hội ủy nhiệm đến nay, vẫn giữ
được nguyên lá cờ đỏ sao vàng.
Sau hết, phần
đông dân chúng đều tưởng Quốc hội cũng như một cơ quan hành chính, nên chúng
tôi thường tiếp được nhân dân hoặc tự thân đến trụ sở Ban Thường trực Quốc
hội, hoặc gửi đơn đến khiếu nại về các việc thuộc quyền định đoạt của Chính
phủ. Chúng tôi có giải thích rõ ràng cho nhân dân hiểu biết và các đơn từ
chúng tôi đều chuyển giao các cơ quan phụ trách xét định.
*
* *
Thưa các ngài,
Trong phiên
họp ngày 2-3-1946, Quốc hội có ủy nhiệm cho Ban Thường trực Quốc hội những
quyền hạn, chúng tôi xin nhắc lại, như sau này:
1/ Góp ý kiến
với Chính phủ.
2/ Phê bình
Chính phủ.
3/ Triệu tập
Quốc hội:
a) Khi Chính
phủ yêu cầu.
b) Khi quá nửa
số đại biểu yêu cầu.
c) Khi quá nửa
ủy viên thường trực xét cần triệu tập.
4/
Khi tuyên chiến hay đình chiến, bắt buộc phải được hỏi ý kiến.
5/ Khi ký hiệp
ước với nước ngoài phải triệu tập Quốc hội để chuẩn y.
Nhân danh một
cơ quan đại diện cho toàn thể đồng bào, trong phạm vi quyền hạn do Quốc hội
đã ấn định, chúng tôi đã hết sức góp ý kiến với Chính phủ và làm việc theo
chế độ dân chủ.
Nay xin trình
sơ lược để các ngài rõ.