Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 67b463a1-7920-90f0-dd35-d983f8dce4e8.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

Quốc hội cần giám sát tối cao và ban hành luật về ODA

01/11/2014

Quốc hội - người chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công, và người dân - chủ thể phải đóng thuế và là người trả nợ cuối cùng gần như đứng ngoài quy trình về ODA. Có ý thức tốt nghiệp ODA thì mới luôn quan tâm đến việc hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA

ODA là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Đến nay ngoại trừ một tỷ lệ nhỏ viện trợ không hoàn lại thì phần nhiều là cho vay ưu đãi có điều kiện. Qua hơn 20 năm, Việt Nam đã thu hút khoảng 78 tỷ USD, bình quân 3 tỷ USD/năm. Chính phủ đã rất nỗ lực và kết quả nguồn vốn này đã đóng góp tích cực vào phát triển KT-XH, nhiều chương trình, dự án đạt chất lượng tốt. Tuy nhiên, thực tế đã phát sinh nhiều bất cập, thậm chí vi phạm và tội phạm, thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong nhiều dự án đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công trình, làm mất uy tín của Việt Nam đối với nhà tài trợ. Điển hình là các vụ PMU 18, vụ Huỳnh Ngọc Sỹ, vụ nghi vấn tiêu cực tại dự án Danida Đan Mạch 2012, vụ JTC đường sắt gần đây. Đáng lưu ý, tuy có nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát nhưng những vụ vi phạm lớn lại chỉ được phát hiện do phía nước ngoài. Chúng tôi cũng rất hoan nghênh việc xử lý khẩn trương của Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về vụ JTC đường sắt vừa qua. Đây cũng là minh chứng cho quan điểm, thái độ nghiêm túc của Nhà nước Việt Nam trong xử lý những sai phạm về ODA.

QH - người chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công, và người dân - chủ thể phải đóng thuế và là người trả nợ cuối cùng gần như đứng ngoài quy trình về ODA

Tôi phân tích một số nguyên nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.

Một là, về hành lang pháp lý, ODA chủ yếu được điều chỉnh bởi Nghị định 38 năm 2013 của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương và quy định của nhà tài trợ. Các quy định này còn phức tạp, phân tán, hiệu lực pháp lý thấp. Việc bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong Nghị định 38 mới chỉ mang tính nguyên tắc mà chưa được cụ thể hóa hết vào quy trình ODA, dẫn đến chưa ngăn chặn được tình trạng xin - cho, cò dự án, tiêu cực, tham nhũng. Đáng lưu ý, pháp lý về ODA đã bộc lộ hai điểm yếu cơ bản nhất là: QH - người chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công, và người dân - chủ thể phải đóng thuế và là người trả nợ cuối cùng gần như đứng ngoài quy trình về ODA. Tôi đề nghị QH ban hành Luật về quản lý và sử dụng ODA, theo đó chú trọng quy định chặt chẽ tiêu chí chấp nhận vốn ODA, công khai, minh bạch toàn bộ số vốn, công khai các dự án và quy trình phân bổ. Buộc phản biện độc lập trước khi quyết định quy định về trách nhiệm của QH về quyền của người dân, Mặt trận, báo chí và Hiệp hội chuyên ngành trong quá trình quyết định và thực thi ODA.

Hai là, về giám sát của QH, với tư cách là một phần của đầu tư công và nợ công, lại tác động đến vị thế và uy tín quốc gia. Nhưng những năm qua cả về pháp lý cũng như thực tiễn, trách nhiệm giám sát của QH về ODA chưa được coi trọng. Thực tế là 20 năm qua, mặc dù đã xảy ra không ít vụ gây chấn động dư luận, nhưng QH chưa một lần giám sát tối cao về ODA. Với tư cách là các cơ quan của QH, phụ trách về kinh tế, ngân sách, nhưng Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách cũng chưa lần nào giám sát về chuyên đề này. Vào các năm 1999, 2003, Ủy ban Đối ngoại có 2 lần giám sát. Năm 2006 khi xảy ra vụ PMU 18, Ủy ban Đối ngoại một lần nữa báo cáo lại các kiến nghị giám sát của lần trước. Đáng tiếc những kiến nghị rất đúng đắn này cho đến nay vẫn chưa được tiếp thu đầy đủ. Đây là một nguyên nhân không nhỏ góp phần làm cho những bất cập, sai phạm trong dùng ODA chậm được khắc phục, góp phần đẩy nợ công lên sát ngưỡng mất an toàn. Chúng tôi đề nghị QH tiến hành giám sát ODA chỉ ra những khiếm khuyết trong chính sách, những nhóm lợi ích liên quan ở cả trong nước và nước tài trợ; phân tích những mặt lợi và bất lợi của ODA, từ đó đề xuất chiến lược sử dụng có chọn lọc theo lộ trình giảm dần tiến đến chấm dứt ODA. Bất cứ quốc gia nào, nếu phụ thuộc lâu dài vào ODA thì đó là thất bại của chiến lược phát triển.

Ba là, về các lĩnh vực ưu tiên sử dụng, đây là vấn đề rất quan trọng để bảo đảm hiệu quả tiền vay. Nhưng Điều 7, Nghị định 38 đã quy định quá rộng, ưu tiên hầu hết các lĩnh vực KT-XH và còn có quy định quét rất tùy nghi tại khoản 9 là một số lĩnh vực khác - quy định này dẫn đến thực tế phân bổ ODA dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, không tập trung được cao cho lĩnh vực mang tính đầu tàu và dẫn đường; đồng thời, không kích thích được nội lực, tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác.

Bốn là, cần nhận thức đúng về ODA và không coi thường khuyến cáo của chuyên gia. Sau khi chúng ta thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp thì ưu đãi giảm đi, điều kiện vay và trả nợ khắc nghiệt hơn. Nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại nhiều hệ lụy. Nhưng điều này đã chưa được nhận thức đúng. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh, người giúp Chính phủ làm đầu mối về ODA đã từng rất bức xúc: tôi dám chắc có một tỷ lệ không nhỏ cán bộ và người dân, đặc biệt là lãnh đạo địa phương còn hiểu một cách rất sơ đẳng rằng ODA là cho không, vay được càng nhiều càng tốt, bất chấp khả năng trả nợ. Đây là thực tế rất đáng lo ngại.

Có ý thức tốt nghiệp ODA thì mới luôn quan tâm đến việc hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA

Các nghiên cứu cho thấy về chủ quan thì do năng lực quản trị khu vực công của chúng ta còn hạn chế, chưa kiểm soát được thất thoát, lãng phí, tham nhũng nên đã góp phần làm cho một số dự án mặc dù vay giá rẻ nhưng đã trở nên vô cùng đắt đỏ. Cùng với xu hướng thích dùng ODA lại gắn với lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích ở một số nơi đã và đang khiến công trình ODA xuất hiện rất nhiều, nhưng một số công trình chất lượng, hiệu quả thấp. Chúng ta biết một số công trình suất đầu tư bị đội lên quá cao, cao hơn nhiều so với các nước.

Về khách quan, nhiều nghiên cứu quốc tế về ODA đã chỉ ra 3 điểm cơ bản khiến nước tiếp nhận có khả năng chịu bất lợi. Một là nước tài trợ tạo ra và duy trì một nhu cầu viện trợ giả tạo, ví dụ như tích cực vận động hoặc tư vấn cho nước nhận về những dự án chưa cần thiết, không phù hợp với điều kiện KT-XH của nước nhận. Hai là đòi hỏi những điều kiện bảo đảm lợi nhuận của các công ty của nước tài trợ tham gia ODA như điều kiện về tư vấn, thiết kế, nhân công, về công nghệ, thiết bị vật tư... của nước tài trợ, mặc dù nước nhận có thể tự cung cấp hoặc mua được với giá thấp hơn. Ba là xuất khẩu ô nhiễm môi trường sang nước tiếp nhận. Cũng có nhà kinh tế nghiên cứu về ODA đã ví là ODA như là sát thủ kinh tế hoặc bẫy ODA...

Kinh nghiệm thành công của Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan có 3 điều kiện. Thứ nhất là tiền vay được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả, hạ tầng của họ khi đã được xây dựng thì chất lượng rất tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài hạn, không phải ngay lập tức hay một thời gian ngắn đã phải làm lại, cải tiến hay mở rộng. Thứ hai là sử dụng có chọn lựa. Chính phủ các nước này chỉ vay tiền để đầu tư vào hạ tầng thiết yếu để phục vụ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, chú trọng đầu tư hướng tới khu vực tư nhân, khu vực xuất khẩu để kích thích, cạnh tranh, nhất là có ngoại tệ để trả nợ. Không vay để đầu tư vào những dự án nhỏ lẻ, tràn lan và càng không vay để theo đuổi những siêu dự án, trong khi các dự án để bảo đảm hạ tầng thiết yếu trong nước còn chưa đủ. Thứ ba là họ cũng đặt kế hoạch chấm dứt nhận ODA trong một tương lai không xa. Thực tế Hàn Quốc dừng nhận ODA sau 20 năm và hoàn toàn tốt nghiệp ODA sau 30 năm, có ý thức tốt nghiệp ODA thì mới luôn quan tâm đến việc hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng nó. Đây là những nghiên cứu, những khuyến cáo và kinh nghiệm quý mà chúng ta rất cần lắng nghe, chọn lọc và tiếp thu.

Chúng tôi có 3 kiến nghị:

Thứ nhất là đề nghị QH cần tiến hành giám sát tối cao và ban hành luật về ODA. Thứ hailà kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng, chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng trong ODA. Thứ ba là sử dụng có chọn lọc, hạn chế và có lộ trình chấm dứt ODA trong một tương lai gần.

(Theo Đại biểu Nhân dân)