ĐỀ XUẤT CÓ QUY ĐỊNH RÕ RÀNG VỀ BẢO TÀNG TƯ NHÂN, BẢO TÀNG SỐ ĐỂ THUẬN TIỆN CHO VIỆC QUẢN LÝ

14/03/2024

Đóng góp vào dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), nhiều đại biểu, chuyên gia cho rằng, cần có quy định rõ ràng về bảo tàng số, bảo tàng ảo trên không gian mạng cũng như đưa ra tiêu chí, điều kiện cụ thể để thành lập bảo tàng tư nhân...

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA

SỬA ĐỔI LUẬT DI SẢN VĂN HÓA: TẠO HÀNH LANG PHÁP LÝ VỮNG CHẮC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC

Sáng 14/3, tại Hà Nội, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tiếp tục tổ chức Tọa đàm góp ý kiến cho dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phan Viết Lượng chủ trì Tọa đàm. Tham dự Tọa đàm có các thành viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục cùng các chuyên gia, nhà khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa, di sản văn hóa.

Toàn cảnh cuộc Tọa đàm góp ý kiến cho dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). 

Tại cuộc Tọa đàm, các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học đều khẳng định: Sau hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Nhờ đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng hiệu quả, với những thành tựu đáng ghi nhận: Đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.621 di tích quốc gia và 130 di tích quốc gia đặc biệt (trên tổng số 40.000 di tích đã được kiểm kê); khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, 534 di sản được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận/ghi danh, bao gồm: 09 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 15 di sản văn hóa phi vật thể (trong đó 13 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 02 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp); 09 di sản tư liệu (03 di sản tư liệu thế giới, 06 di sản tư liệu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương)…

Hệ thống bảo tàng đã phát triển từ một vài bảo tàng được xây dựng từ thời Pháp thuộc thành một hệ thống gồm 197 bảo tàng (127 bảo tàng công lập và 70 bảo tàng ngoài công lập) đang bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị trên 4 triệu hiện vật - là di vật, cổ vật quý giá mang đặc trưng văn hóa của địa phương, vùng miền, quốc gia. Hiện nay, đã có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia, trong đó 168 hiện vật, nhóm hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị tại các bảo tàng.

Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một
số hạn chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Do đó, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa là hết sức cần thiết để
bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Chưa có quy định rõ về số lượng, tiêu chí về các hiện vật cũng như các điều kiện cụ thể để mở bảo tàng tư nhân

Góp ý vào dự dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), các chuyên gia, nhà khoa học tập trung vào Chương V đề cập về Bảo tàng. Đây là chương mới, được tách ra từ Mục 3 Chương IV Luật Di sản văn hóa hiện hành, gồm 14 điều (từ Điều 61 đến Điều 74). Các nội dung có kế thừa, điều chỉnh, bổ sung cụ thể hơn hoặc quy định mới, qua đó hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động bảo tàng, với các nội những nội dung chủ yếu là: Hệ thống bảo tàng Việt Nam; Nhiệm vụ của bảo tàng; Điều kiện để thành lập bảo tàng công lập và cấp phép hoạt động bảo tàng ngoài công lập; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật và trưng bày trong nhà, ngoài trời của bảo tàng công lập; Thành lập bảo tàng công lập và cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động bảo tàng ngoài công lập; Xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng công lập và thẩm quyền xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng công lập; Tiêu chuẩn xếp hạng bảo tàng; Hoạt động sưu tầm, tư liệu thông tin về hiện vật và di sản văn hóa phi vật thể; Hoạt động kiểm kê hiện vật; Hoạt động bảo quản hiện vật; Hoạt động trưng bày hiện vật và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; Hoạt động truyền thông; Hoạt động dịch vụ của bảo tàng.

Các đại biểu, chuyên gia tham gia cuộc Tọa đàm.

Đề cập về hoạt động của Bảo tàng, nhiều chuyên gia cho rằng, hiện nay có nhiều quy định về bảo tàng còn chồng chéo với nhau nên khi áp dụng vào trong thực tiễn còn chưa có sự thống nhất. Bên cạnh đó, Ban soạn thảo dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) cần có sự soi chiếu các công ước, quy định của quốc tế về bảo tàng để cơ sự điều chỉnh trong Luật sao cho phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế.

Hiện nay, bảo tàng công lập đang hoạt động và được hỗ trợ nhiều chính sách để phát triển. Tuy nhiên, ở nước ta cũng có nhiều bảo tàng ngoài công lập, bảo tàng tư nhân. Vậy việc xếp hạng bảo tàng ngoài công lập, bảo tàng tư nhân sẽ như thế nào, điều kiện và tiêu chí để xếp hạng cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để dễ dàng quản lý.

Ngoài bảo tàng có những hiện vật, tư liệu đang được trưng bày thì cũng có bảo tàng sử dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trên không gian mạng để phản ánh các vấn đề văn hóa, đưa thông tin, hình ảnh về các hiện vật, sự kiện lịch sử… Do đó, trong dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), cần có quy định rõ ràng hơn về các loại bảo tàng số, bảo tàng ảo có sử dụng công nghệ thông tin để phục vụ Nhân dân.

Mặt khác, hiện nay có nhiều cá nhân, doanh nghiệp sựu tầm nhiều tư liệu, hiện vật muốn mở bảo tàng tư nhân. Tuy nhiên, trong dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) chưa có quy định rõ về số lượng, tiêu chí về các hiện vật cũng như các điều kiện cụ thể cấp giấy phép để cho các cá nhân, doanh nghiệp xin mở bảo tàng. Vì vậy, trong dự án Luật cần lưu ý đến điều này vì cũng là góp phần để các cơ quan chức năng dễ dàng quản lý hoạt động của bảo tàng tư nhân…

Nếu cho phép kinh doanh bảo vật quốc gia sẽ dẫn tới nguy cơ bị lợi dụng cho mục đích trục lợi

Trong khuôn khổ Tọa đàm, các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học còn cho ý kiến về Bảo vật quốc gia. Theo đó, nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định “Bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật và không được kinh doanh” tại điểm c khoản 1 Điều 40 Dự thảo 4 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) là hạn chế quyền tự do định đoạt tài sản đối với những chủ sở hữu chung, sở hữu riêng bảo vật quốc gia, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ Luật Dân sự: “Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng, không được lấy bất cứ ly do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.

Theo quy định của Bộ Luật Dân sự: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật” (Điều 158) và “Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản” (khoản 1 Điều 163). Dự thảo Luật Di sản văn hóa về cơ bản bảo đảm quyền sở hữu di sản văn hóa theo quy định của pháp luật về dân sự.

Tuy nhiên, bảo vật quốc gia là một loại tài sản đặc thù, là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học, đã trải qua một quá trình lựa chọn kỹ càng từ địa phương lên trung ương và được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận. Vì vậy, nếu đưa bảo vật quốc gia vào hoạt động kinh doanh (như những hàng hóa thông thường khác) sẽ làm giảm giá trị đặc biệt của bảo vật quốc gia và mất đi ý nghĩa cao quý, vinh dự của một danh hiệu có tính biểu tượng về lịch sử, văn hóa, khoa học của đất nước. Mặt khác, ngoài giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học, bảo vật quốc gia sẽ có giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều so với trước khi được công nhận. Do đó, nếu cho phép kinh doanh bảo vật quốc gia, sẽ dẫn tới nguy cơ bị lợi dụng việc đề nghị công nhận bảo vật quốc gia cho mục đích trục lợi. Với những lý do trên, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã quy định “Bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật và không được kinh doanh”.

Cũng tại cuộc Tọa đàm, các đại biểu, chuyên gia còn đóng góp ý kiến về các nội dung: Bảo vệ các di tích sau khai quật, giám định bảo vật, phương án bảo vệ các di vật, bảo vật sau khi khai quật, khai quật khảo cổ phải phù hợp với quy hoạch…

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Phan Viết Lượng phát biểu kết luận tại cuộc Tọa đàm.

Phát biểu kết luận cuộc Tọa đàm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Phan Viết Lượng đánh giá cao những ý kiến ​​đóng góp, kiến ​​nghị, đề xuất của các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học đối với dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Những ý kiến đóng góp đều rất thiết thực, hữu ích, là cơ sở quan trọng để cơ quan soạn thảo và thẩm tra tiếp tục nghiên cứu, rà soát các điều khoản một cách chặt chẽ góp phần cho việc sửa đổi dự án Luật một cách kỹ lưỡng, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Theo chương trình xây dựng luật và pháp lệnh, dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 tới. Vì vậy, tất cả những đóng góp của các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học tại cuộc Tọa đàm sẽ tiếp tục được tập hợp, tiếp thu tối đa trong quá trình phản biện, thẩm tra, hoàn thiện dự án Luật.

** Một số hình ảnh tại cuộc Tọa đàm:

Các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học tham dự Tọa đàm.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Phan Viết Lượng phát biểu kết luận tại cuộc Tọa đàm, đánh giá cao những đóng góp, đề xuất của các đại biểu, chuyên gia rất thiết thực cho dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)...

Bích Lan - Đình Thành