VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

 

THUYẾT TRÌNH
CỦA UỶ BAN KINH TẾ, KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH VÀ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
(Do ông Nguyễn Đăng, Quyền Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khóa VII, ngày 26-12-1986
)

Để thẩm tra các báo cáo về kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước mà Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội tại kỳ họp này, Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội đã cùng với thường trực Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực khác của Quốc hội làm việc với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Uỷ ban Vật giá Nhà nước. Qua nghiên cứu, xem xét Uỷ ban chúng tôi xin trình Quốc hội những ý kiến về các vấn đề sau đây:

I- Về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1986.

II- Về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1987.

III- Về tình hình tài chính quốc gia.

I- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1986

Năm 1986, là năm mở đầu kế hoạch nhà nước 5 năm 1986-1990, năm tiến hành Đại hội đại biểu đảng bộ các cấp, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1986, mặc dù có những khó khăn, thiệt hại do thiên tai kéo dài, các cân đối về vật tư, nguyên liệu, năng lượng, ngoại tệ thiếu hụt nghiêm trọng, tác hại của sai lầm về giá, lương, tiền chưa khắc phục được bao nhiêu, nhưng nhờ sự cố gắng của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở và nhân dân nên sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Tuy tốc độ chậm, nhưng so với năm 1985, tổng sản phẩm tăng 4,2%, thu nhập quốc dân sản xuất tăng 4,3%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 5,6%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 1,4%; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 5 đến 8%.

Tuy nhiên, còn có những mặt yếu kém như: sản xuất tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra. Một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch như sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu đạt thấp. Hiệu quả sản xuất và đầu tư đạt thấp. Chất lượng sản phẩm vẫn sa sút nghiêm trọng gây lãng phí nguyên liệu và thiệt hại cho người tiêu dùng.

Trong xây dựng cơ bản, tổng số vốn đầu tư năm 1986 được Quốc hội phê chuẩn là 21,3 tỷ đồng. Trong báo cáo trước kỳ họp 11 của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng định cắt giảm vài ba tỷ đồng. Nhưng do kế hoạch điều chỉnh làm chậm, cộng với giá xây dựng biến động, mặt khác các công trình ngoài kế hoạch ở địa phương vẫn tiếp tục, nên không những không giảm được mà đến nay đã ước chi đến 29 tỷ đồng (tăng hơn 7,7 tỷ đồng). Sự phân tán, tùy tiện, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội cơ bản còn lớn.

Đây là vấn đề mà Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Uỷ ban chúng tôi rất quan tâm, đã nhiều lần kiến nghị và lưu ý Hội đồng Bộ trưởng, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện đúng những quy định của Đảng và yêu cầu của Quốc hội.

Phân phối lưu thông vẫn đang trong tình trạng rối ren và diễn biến theo chiều hướng xấu. Giá cả tiếp tục biến động phức tạp. Đồng tiền mất giá nhanh, tâm lý người tiêu dùng không muốn giữ tiền mặt, tìm cách mua hàng dự trữ để bảo đảm, làm tăng thêm tình trạng căng thẳng về hàng hóa, vốn đã thiếu so với nhu cầu. Nhiều nơi, nhiều ngành và cơ sở vẫn tìm cách buôn bán hàng hóa, vật tư để hưởng chênh lệch giá, tùy tiện đẩy giá lên cao, không chấp hành nghiêm kỷ luật giá, kế hoạch và hợp đồng, tác động xấu đến hoạt động sản xuất và kinh doanh.

Công tác xuất nhập khẩu tuy có phát triển, nhưng vẫn còn phân tán, hỗn độn. Sự phân cấp trong quản lý xuất, nhập khẩu giữa Trung ương và địa phương chưa rành rẽ, không kiên quyết thực hiện chủ trương, chính sách đã có để bảo đảm nguyên tắc thống nhất quản lý ngoại thương, ngoại hối. Thực tế là Nhà nước Trung ương không nắm và chi phối được ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu cho nhu cầu thiết yếu của sản xuất. Tình trạng tranh mua, tranh bán tiếp diễn, đẩy giá mua hàng xuất khẩu lên cao. Việc cho nhập hàng cao cấp và hàng xa xỉ để hưởng chênh lệch giá gây nên ảnh hưởng xấu góp phần làm đồng tiền trong nước mất giá nhanh, lạm phát tăng. Chính sách xuất khẩu chưa thực sự khuyến khích người và đơn vị làm hàng xuất khẩu, nhất là xuất khẩu cho khu vực xã hội chủ nghĩa.

Đời sống người lao động chân chính, chiến sĩ lực lượng vũ trang ở biên giới, ở chiến trường xa, các đối tượng hưởng chính sách xã hội tiếp tục gặp khó khăn. Hội đồng Bộ trưởng không nghiêm túc thực hiện phụ cấp trượt giá hàng quý; các khoản phụ cấp ngoài lương, tiền thưởng… mỗi nơi làm một khác, gây thêm rối ren, thiếu công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Trong nông dân, nói chung thiếu nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; ước tính có trên dưới 20% số hộ sống khó khăn, thiếu thốn, dân nghèo thành thị và lao động trẻ thiếu việc làm, đời sống gieo neo, vất vả. Ngược lại, một số đông người buôn bán, một số cán bộ, nhân viên thoái hóa, biến chất có mức sống quá chênh lệch, nhất là bọn đầu cơ, tham ô, ăn cắp lớn thì sống xa hoa, phè phỡn. Chúng chưa bị đánh trúng và nghiêm trị một cách kiên quyết, kịp thời.

Tóm lại, Uỷ ban chúng tôi tán thành với nhận định của Hội đồng Bộ trưởng đánh giá thực trạng của tình hình, về những kết quả đã đạt được, những mặt yếu kém trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1986, và xin nhấn mạnh thêm một số điểm để làm rõ hơn nguyên nhân của tình hình:

1.  Tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn có mặt diễn biến xấu, khó khăn và phức tạp, trước hết là do những tác hại của sai lầm về giá, lương, tiền, do hậu quả nặng nề của thiên tai và do các mất cân đối lớn trong kế hoạch, trong ngân sách và tiền mặt chưa được xử lý đúng và có hiệu quả.

Việc xử lý tình hình trên còn lúng túng, thiếu tập trung, đồng bộ và dứt điểm; chưa có phương án toàn diện xuất phát từ tổng thể nền kinh tế quốc dân và sát với thực tiễn; thiếu các biện pháp đặc biệt, cấp bách có hiệu lực trong tình hình đặc biệt.

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị rất chậm. Các ngành ở Trung ương chưa cụ thể hóa một cách rõ ràng và đầy đủ các chính sách, chưa hướng dẫn kịp thời và đồng bộ nên các cấp và cơ sở còn nhiều lúng túng và thiếu những điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện.

2.  Về công tác kế hoạch, Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách ngay trong bản thuyết trình trình Quốc hội trong kỳ họp 10 và trong báo cáo với Hội đồng Nhà nước về tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 1986, đã lưu ý Hội đồng Bộ trưởng về nhiều mất cân đối chưa được xử lý, nhiều chỉ tiêu chính của kế hoạch còn bấp bênh, chưa vững chắc. Sự phân tán thể hiện ngay từ trong kế hoạch như: việc quản lý và phân phối vật tư không gắn chặt với kế hoạch sản xuất và nắm sản phẩm; để cho nhiều ngành giữ lại sản phẩm để bán lấy ngoại tệ, tự giải quyết nhu cầu nhập nguyên liệu, phụ tùng. Khuyết điểm này trong thực tế tiếp tục làm cho nền kinh tế mất cân đối thêm, rối ren hơn.

3.  Hiệu lực của sự chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của Hội đồng Bộ trưởng vẫn rất yếu và thấp; sự quản lý tập trung thống nhất không cao, không đủ mạnh trong hoạt động thực tiễn. Một số chủ trương cụ thể chưa được bàn bạc nhất trí và hành động nhất quán. Trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật nhà nước không được chấp hành nghiêm chỉnh. Các vụ việc vi phạm về chính sách, vi phạm về quyền làm chủ tập thể của nhân dân, ức hiếp quần chúng…, phát hiện được không ít, song xử lý chưa thật nghiêm minh và kịp thời. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ phần tử thoái hóa biến chất, bọn có sai phạm lớn vẫn sống ngoài pháp luật, chưa được phát hiện và trừng trị.

Thực tế là vẫn buông lỏng chuyên chính vô sản trên nhiều mặt, không quán triệt đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng tập trung quan liêu trong công tác quản lý, điều hành còn nặng. Mặt khác, tình trạng phân tán vô tổ chức trong hoạt động kinh tế vẫn còn phổ biến. Chính cơ chế quản lý còn nặng tính chất tập trung quan liêu, vừa gò bó cấp dưới, vừa làm giảm hiệu lực quản lý tập trung là nguyên nhân trực tiếp làm rối loại trật tự, kỷ cương. Công tác thanh tra, kiểm soát yếu và kém hiệu lực. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý thị trường còn bị xem nhẹ và thiếu thường xuyên liên tục.

II- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1987

Năm 1987, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, là năm có vị trí cực kỳ quan trọng trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, góp phần tạo ra bước quyết định trong việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội.

Uỷ ban chúng tôi nhận thấy kế hoạch nhà nước năm 1987 đã rút được một phần kinh nghiệm của các năm trước, một số chỉ tiêu đã cố gắng cho sát hơn với thực tế, đã coi trọng việc tập trung hơn vào một số mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu.

Tuy nhiên, trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng và với tinh thần kiên quyết sửa chữa sai lầm đã qua, bảo đảm sự nhất trí về chủ trương và hành động từ trên xuống dưới, Uỷ ban chúng tôi xin đặc biệt lưu ý Hội đồng Bộ trưởng là: các cân đối lớn cũng như nhiều cân đối cụ thể của kế hoạch nhà nước năm 1987, đặc biệt là cân đối ngoại tệ, cân đối vật tư kỹ thuật, mức thu chi và bộ chi ngân sách nhà nước, bội chi tiền mặt, mức hãm tốc độ tăng giá, v.v. đều chưa đủ cơ sở, chưa đủ căn cứ tính toán được vững chắc, cần được tiếp tục nghiên cứu thêm.

Với tinh thần ấy, Uỷ ban chúng tôi xin trình Quốc hội một số ý kiến sau đây:

Yêu cầu chung của kế hoạch nhà nước năm 1987 là chuyển hướng, sắp xếp tạo ra một bước ổn định nền kinh tế - xã hội nước ta, nhất là ổn định một bước tình hình giá, lương, tiền và đời sống của nhân dân lao động, trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới toàn bộ chính sách kinh tế, tài chính và có được những biện pháp cấp bách, đặc biệt có hiệu lực.

Cần phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và toàn bộ các chính sách kinh tế năm 1987 là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng, khả năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Do đó, về cơ bản, Uỷ ban chúng tôi tán thành những chủ trương, biện pháp mà Hội đồng Bộ trưởng đã đề ra, nhưng chúng tôi xin kiến nghị và lưu ý Hội đồng Bộ trưởng một số vấn đề như sau:

1.  Xây dựng và khẩn trương triển khai thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu) là nhiệm vụ trung tâm của tất cả các cấp, các ngành nhằm đạt được những phương hướng và mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 1986-1990, đồng thời, cũng là tạo tiền đề cho việc ổn định và phát triển nền kinh tế - xã hội trong những năm sau.

Để thực hiện được thắng lợi ba chương trình lớn đó, điều quan trọng đầu tiên là các cấp, các ngành phải chuyển biến thật sự trong việc coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Trong năm 1987 và trong những năm trước mắt, sản xuất lương thực và thực phẩm phải được ưu tiên thành một chương trình đồng bộ quan trọng nhất, trực tiếp góp phần ổn định giá cả và tiền tệ, ổn định đời sống nhân dân. Nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những yêu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật - chất kỹ thuật, về cung cấp các loại vật tư - kỹ thuật, trước hết là phân bón, thuốc trừ sâu. Làm được việc này đòi hỏi Hội đồng Bộ trưởng phải có những biện pháp chỉ đạo thật kiên quyết, đồng bộ, tập trung để bảo đảm vật tư, tiền vốn, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp. Uỷ ban chúng tôi nhận thấy dự kiến của Hội đồng Bộ trưởng nâng tỷ trọng đầu tư cho các ngành nông, lâm, thủy lợi từ 24,5% năm 1986 lên 28,5% năm 1987 là chưa thỏa đáng đối với vị trí của ngành Nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu. Trước mắt, trong khi cơ chế mới chưa được ban hành, cần tập trung mọi điều kiện và khẩn trương giải quyết các điều kiện sản xuất cho vụ đông xuân này nhằm bảo đảm lương thực để trang trải cho những nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống; đồng thời, chú ý phát triển mạnh cây công nghiệp ngắn ngày, nhất là các cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị cao làm nguồn nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm và xuất khẩu.

- Cần có những biện pháp và chính sách thỏa đáng, trong đó cần sửa lại giá gia công, cung ứng lương thực, vật tư, nguyên liệu, thuế, v.v. cho phù hợp với tình hình hiện nay, để đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, nhất là những mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước, nguyên liệu tại chỗ, tận dụng phế liệu; khuyến khích phục hồi các nghề truyền thống, đẩy mạnh sản xuất của các hợp tác xã thủ công nghiệp, phát triển mạnh thủ công nghiệp trong khu vực nông nghiệp và khuyến khích tư nhân và gia đình làm hàng tiêu dùng.

Muốn phát triển công nghiệp nhẹ, cần trước hết dựa vào việc tổ chức lại sản xuất, đầu tư chiều sâu và đầu tư đồng bộ để tận dụng công suất thiết bị, máy móc của các cơ sở hiện có; coi trọng các cơ sở có năng lực và hiệu suất chế biến cao; huy động được một phần năng lực của công nghiệp quốc phòng tham gia sản xuất hàng tiêu dùng.

Đồng thời, cần có chính sách đúng đắn huy động rộng rãi nguồn vốn và kỹ thuật của nhân dân, kể cả Việt kiều, để phát triển các cơ sở làm ra nguyên liệu và cơ sở chế biến dưới nhiều hình thức, quy mô nhỏ và vừa.

- Nhiệm vụ ổn định và phát triển một bước về kinh tế, xã hội năm 1987 có làm được nhanh hay chậm, một phần quan trọng phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mà khâu quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.

Trong chương trình xuất khẩu, cần tính toán cụ thể và chính xác hiệu quả kinh tế của từng mặt hàng để tạo cho được các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, các sản phẩm xuất khẩu có lợi nhất, vừa có kim ngạch cao, vừa có điều kiện ổn định và góp phần phát triển cả về sản xuất và thị trường tiêu thụ. Cần khắc phục tình trạng kích giá, tranh mua hàng xuất khẩu, đồng thời khắc phục tình trạng nhập khẩu không hợp lý. Đi đôi với các biện pháp hành chính và tổ chức, cần có chính sách thuế xuất, nhập khẩu.

Cần chuyển mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương, Trung ương thống nhất quản lý xuất nhập khẩu theo kế hoạch, pháp luật và chính sách. Cần sớm đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và bổ sung chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, bảo đảm cho các đơn vị làm hàng xuất khẩu theo sát nhu cầu, thị hiếu, giá cả và các điều kiện kinh doanh khác trên thị trường thế giới; bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho người sản xuất và các địa phương có hàng xuất khẩu.

Cần sắp xếp lại hợp lý các tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu, loại bỏ những khâu trung gian và những thủ tục phiền hà. Ngân hàng Ngoại thương thống nhất việc quản lý ngoại hối, nhưng phải bảo đảm đúng quyền sử dụng ngoại tệ của các chủ tài khoản ngoại tệ theo đúng chính sách của Nhà nước. Cần có cơ chế điều chỉnh kịp thời tỷ giá kết toán nội bộ về ngoại tệ và tỷ giá hối đoái phi mậu dịch, kiều hối.

Đồng thời, phải chấn chỉnh và phân công trách nhiệm rõ ràng công tác kinh doanh thương nghiệp trong nước, bảo đảm cho các ngành có chức năng như lương thực, thực phẩm, vật tư, nội thương… thống nhất quản lý và kinh doanh các mặt hàng lương thực, nông sản, hải sản, hàng công nghệ phẩm, vật tư - kỹ thuật, v.v..

2.  Để có thể ổn định được một bước tình hình kinh tế - xã hội, Uỷ ban chúng tôi cho rằng cần phải ổn định được một bước vấn đề giá - lương - tiền. Không thực hiện được yêu cầu quan trọng và cấp bách này thì khó nói tới việc hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch năm 1987 và 5 năm 1986-1990.

Cần phải soát xét lại một cách đầy đủ các chính sách giá và sớm giải quyết các quan hệ về giá nhằm khuyến khích sản xuất phát triển mạnh mẽ và đẩy mạnh việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Cần phải có biện pháp tích cực và có hiệu quả khắc phục từng bước tính tự phát của giá thị trường tự do.

Để từng bước ổn định được giá, trong năm 1987, cần có những biện pháp có hiệu quả để hãm bớt tốc độ tăng giá, có làm tốt được việc này thì mới có thể tạo ra những tiền đề về kinh tế - xã hội và tâm lý cho việc đẩy mạnh quá trình sửa đổi.

Cần phấn đấu tạo điều kiện để thi hành chính sách một giá. Tuy nhiên trong tình hình cụ thể hiện nay, ở những nơi, những lúc nhất định, đối với một số ít mặt hàng thiết yếu mà cung cầu căng thẳng, giá cả biến động mạnh, Nhà nước chưa đủ lực lượng để kìm giá lại, thì tạm thời áp dụng chính sách hai giá trong việc mua nông sản và bán lẻ hàng tiêu dùng. Cần sớm ban hành cơ chế định giá và quản lý giá đúng đắn nhằm tạo điều kiện cho thương nghiệp quốc doanh thoát khỏi tình trạng khó mua, khó bán.

Về tài chính, tiền tệ, cần có những biện pháp tích cực và kiên quyết để chấm dứt tình trạng quản lý tài chính quá phân tán trong thời gian qua. Cần sớm chấm dứt chế độ bao cấp qua ngân sách, như bù lỗ tràn lan, cấp phát vốn mà không ràng buộc trách nhiệm vật chất với hiệu quả sử dụng vốn. Cần sớm sửa đổi chế độ phân cấp ngân sách giữa Trung ương và địa phương theo hướng bảo đảm tập trung hợp lý nguồn thu để Trung ương có thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời, khuyến khích các địa phương chủ động khai thác tiềm năng của địa phương mình để tăng thu theo đúng chế độ tài chính thống nhất.

3.  Về vấn đề bảo đảm đời sống của nhân dân lao động, trước hết là đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang, và các đối tượng hưởng chính sách, trong đó có những cán bộ về hưu:

- Có biện pháp để bảo đảm tiền lương thực tế của người ăn lương trong khi quỹ hàng hóa nhà nước chưa đủ và giá cả chưa ổn định. Nhà nước cần nắm chắc quỹ hàng lương thực, thực phẩm và hàng thiết yếu khác và có phương thức bán thích hợp bảo đảm cho người ăn lương mua được hàng hóa cần thiết. Cần có chủ trương và cách làm thống nhất, có quy chế và kiểm tra chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng, giải quyết đời sống, tránh tùy tiện để gây ra sự mất công bằng xã hội.

- Giải quyết kịp thời vấn đề phụ cấp trượt giá, chế độ trợ cấp cho người ăn theo, ăn giữa ca đối với các cơ sở sản xuất…, cố gắng không để đời sống giảm sút. Đề nghị sửa đổi một số mức lương hoặc tiền thưởng không hợp lý nhằm khuyến khích đối với công nhân kỹ thuật lành nghề, bậc cao, cán bộ khoa học - kỹ thuật có cống hiến quan trọng đối với sản xuất nghiên cứu khoa học.

Nhà nước cố gắng đến mức cao nhất bảo đảm cho người lao động có thu nhập thỏa đáng trên kết quả lao động của mình; đồng thời có biện pháp có hiệu quả ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc các nguồn thu nhập bất chính.

III- VỀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH QUỐC GIA

1.  Về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1985

Dự toán ngân sách nhà nước năm 1985 được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ 8 năm 1984, với tổng số thu dự kiến 156.000 triệu đồng tiền cũ, tổng số chi dự kiến: 162.000 triệu đồng tiền cũ, số bội chi: 6.000 triệu đồng tiền cũ (tính theo tiền mới là 600 triệu đồng). Tại kỳ họp thứ 10, Hội đồng Bộ trưởng báo cáo trước Quốc hội ước thực hiện ngân sách nhà nước năm 1985 với tổng số thu là 19.650 triệu đồng tiền mới. Tổng số chi: 27.150 triệu đồng mới, bội chi 7.500 triệu đồng tiền mới.

Tại kỳ họp này, Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1985 như sau:

- Tổng số thu: 25.341.457.801 đồng tiền mới,

- Tổng số chi: 34.609.999.042 đồng tiền mới,

- Ngân sách nhà nước bội chi: 9.268.541.241 đồng tiền mới.

Qua báo cáo tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1985, chúng tôi thấy:

Năm 1985, trong tình hình nền kinh tế - tài chính của ta có nhiều khó khăn, mất cân đối gay gắt, các ngành, các cấp và nhân dân ta đã có nhiều cố gắng chủ động đẩy mạnh sản xuất và giải quyết đời sống.

Tuy nhiên, từ tháng 9 năm 1985, do có sai lầm trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách mới về giá - lương - tiền, lại thêm có những khó khăn thiệt hại lớn do thiên tai bão lụt, nên giá cả thị trường và tiền tệ có nhiều biến động xấu, phức tạp. Sản xuất của nhiều cơ sở bị ngừng trệ một thời gian dài, phân phối, lưu thông bị ách tắc, các nguồn thu, trong đó có các nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước đều bị giảm sút, các khoản chi cho yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định đời sống, bảo đảm an ninh - quốc phòng đều tăng. Mặt khác, công tác quản lý kinh tế - tài chính và tiền mặt còn nhiều yếu kém, việc sửa đổi các chính sách, chế độ tài chính, ngân hàng làm quá chậm, quản lý thị trường và cải tạo công thương nghiệp còn buông lỏng để thị trường luôn biến động, giá cả không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đến đời sống cán bộ, nhân dân. Do đó, số bội chi đã tăng quá lớn so với số bội chi đã được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ 8 (từ 600 triệu đồng lên trên 9 tỷ đồng).

Uỷ ban chúng tôi đề nghị Quốc hội xem xét và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1985.

2.  Về ngân sách nhà nước năm 1986

Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa VII, Hội đồng Bộ trưởng trình dự toán ngân sách nhà nước năm 1986:

Tổng số thu: 50.000 triệu đồng,

Tổng số chi: 58.000 triệu đồng,

Bội chi: 8.000 triệu đồng.

Trong bản thuyết trình ở kỳ họp đó, Uỷ ban chúng tôi nhận định: năm 1986, tình hình ngân sách và tiền mặt còn thiếu hụt nghiêm trọng, tình hình lưu thông tiền tệ còn diễn biến phức tạp, nên đã nói rõ là các nguồn thu, nguồn chi và số bội chi chưa được tính toán có cơ sở đầy đủ và vững chắc.

Tại kỳ họp thứ 11, Hội đồng Bộ trưởng đã tính lại và đề nghị dự toán ngân sách như sau:

Tổng số thu 54.000 triệu đồng,

Tổng số chi 62.000 triệu đồng,

Bội chi: 8.000 triệu đồng.

Trong thuyết trình trước kỳ họp 11 của Quốc hội, Uỷ ban chúng tôi vẫn cho rằng những con số thu, chi và bội chi đã được Hội đồng Bộ trưởng dự tính lại vẫn chưa phản ánh được sự thật, vẫn là mối băn khoăn có cơ sở tính toán của chúng tôi về những khả năng, điều kiện và mức độ bảo đảm những con số ấy.

Tại kỳ họp Quốc hội lần này, theo báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng, ngân sách nhà nước năm 1986 ước thực hiện như sau:

Tổng số thu: 83.400 triệu đồng,

Tổng số chi: 93.400 triệu đồng,

Số bội chi: 15.000 triệu đồng.

Số bội chi này tăng gần hai lần so với số bội chi đã được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ 10. Nếu kể cả số vay mượn, tạm ứng giữa tài chính và ngân hàng thì con số bội chi ngân sách nhà nước năm 1986 lên đến khoảng 22 tỷ đồng.

Qua xem xét tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1986, Uỷ ban chúng tôi có một số nhận xét như sau:

1.  Như vậy là, Hội đồng Bộ trưởng đã không thực hiện được cả dự toán đầu tiên và dự toán tính lại trình Quốc hội. Có những khó khăn khách quan, như chúng ta đã biết, song việc điều hành của Hội đồng Bộ trưởng cần được xem xét để rút ra những kinh nghiệm và biện pháp có hiệu lực hơn trong năm ngân sách sắp tới. Ngay từ khi Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 1986 (kể cả con số đã tính toán lại), Uỷ ban chúng tôi đã lưu ý Hội đồng Bộ trưởng về những hậu quả do sai lầm về giá - lương - tiền, nhất là tình hình giá cả và chính sách giá đã và đang tiếp tục gây ra những hậu quả xấu cho sản xuất, phân phối lưu thông và đời sống nhân dân, nhưng các chính sách xử lý, sửa chữa về sai sót đó lại chậm được ban hành và thiếu hiệu quả.

2.  Nhà nước không điều tiết đúng mức thu nhập của tư thương, không tước đoạt những nguồn thu nhập bất chính. Chưa tập trung các nguồn thu quan trọng vào trong ngân sách và phân phối đúng các nguồn vốn vật tư, hàng hóa có trong tay.

Các nguồn thu trong nước tuy có vượt kế hoạch, nhưng thấp so với tình hình thời giá ngày càng tăng, nguồn thu từ kinh tế quốc doanh, một nguồn thu lớn chủ yếu cho ngân sách lại đang có nhiều khó khăn, bế tắc do thiếu vật tư, nhiên liệu; có chênh lệch giá phát sinh nhưng Nhà nước không tập trung thu được vào ngân sách. Khả năng thu từ kinh tế tập thể và cá thể (chủ yếu là thuế công thương nghiệp) còn khá lớn do mức thu không phù hợp với mức đăng ký doanh thu của các hộ kinh doanh, do giá cả thay đổi, trong khi đó Pháp lệnh thuế công thương nghiệp lại sửa đổi quá chậm, nên số thất thu quá nhiều, chỉ riêng không thu thêm được thuế môn bài cũng mất gần 1 tỷ đồng.

Trong khi các nguồn thu bị hạn chế như vậy, thì nhiều nguồn chi còn mang tính bao cấp, vượt quá nguồn thu. Chi cho lương, phụ cấp lương, chi bù lỗ, bù giá chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng số chi. Nhiều khoản chi khác đều tăng nhanh, tăng nhiều. Các biện pháp tăng thu, giảm chi, tiết kiệm chi thực hiện còn thiếu kiên quyết và kém hiệu quả. Việc bội chi ngân sách ngày một tăng đã là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới lạm phát ở mức độ cao chưa từng có.

3. Về ngân sách nhà nước năm 1987

Về dự toán ngân sách nhà nước năm 1987 Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội như sau:

Tổng số thu: 120.000 triệu đồng,

Tổng số chi: 130.000 triệu đồng,

Số bội chi: 10.000 triệu đồng.

Với mức bội chi ngân sách như trên, mức bội chi tiền mặt ước tính khoảng 30 tỷ đồng.

Năm 1987, tình hình ngân sách và tiền mặt còn diễn biến phức tạp, vẫn thiếu hụt nghiêm trọng và sẽ còn bị chi phối bởi những khó khăn về kinh tế - tài chính của nhiều năm qua. Đặc biệt, những chủ trương, chính sách về kinh tế - tài chính hiện nay về căn bản vẫn dựa trên cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp, đang tác động xấu đến sản xuất và thu chi ngân sách nhà nước. Do đó, sau khi nghe báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về ngân sách nhà nước năm 1987, Uỷ ban chúng tôi vẫn thấy các nguồn thu, nguồn chi, và số bội chi chưa được tính toán có cơ sở đầy đủ và chưa vững chắc, chưa phản ánh và lường được sự biến động sẽ phát sinh của nền kinh tế - xã hội. Do đó, xin lưu ý Hội đồng Bộ trưởng phải có chính sách thật đặc biệt để bảo đảm kế hoạch thu chi và giữ mức bội chi ngân sách năm 1987 không được vượt quá 10% tổng số chi ngân sách nhà nước. Nhằm mục đích đó, Uỷ ban chúng tôi xin có một số kiến nghị như sau:

1.  Trên cơ sở xây dựng và hoàn chỉnh từng bước chính sách tài chính quốc gia, cần đổi mới chính sách, chế độ tài chính, trước hết là chính sách đẩy mạnh thu, như sửa đổi vấn đề thu quốc doanh, sửa đổi bổ sung chính sách thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp, thuế vườn, thuế xuất nhập khẩu, thuế hải quan…, vấn đề tận thu các khoản thuế, nhất là thuế công thương nghiệp và thuế nông nghiệp đã được Quốc hội nêu và nhắc từ các kỳ họp trước. Vậy, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng có biện pháp sửa chữa và đổi mới thật sự về vấn đề này.

Ngoài ra, cần có những chính sách để huy động được nhiều nguồn vốn, trong đó chú trọng đến chính sách mở rộng kiều hối để thu thêm ngoại tệ cho đầu tư vào trong nước nhằm phát triển sản xuất, tăng thêm sản phẩm cho xã hội và có thêm nguồn thu cho ngân sách, có chính sách mở rộng du lịch và các hoạt động dịch vụ khác để góp phần giải quyết nguồn ngoại tệ cho quốc gia.

2.  Hội đồng Bộ trưởng cần sớm xử lý và xử lý có hiệu quả các hậu quả sai lầm và các “rối” về giá, trước hết là đề nghị Hội đồng Bộ trưởng có biện pháp nghiêm ngặt chấm dứt việc tùy tiện nâng giá. Đây cũng là điều mà Quốc hội mong muốn Hội đồng Bộ trưởng có sự chuyển biến thật sự. Thực hiện cơ chế giá linh hoạt theo nguyên tắc lấy nguồn thu tăng lên (khi cần thiết) của hàng công nghiệp bán kinh doanh, bù đắp phần chi tăng lên do phải điều chỉnh giá mua nông sản không để ảnh hưởng đến ngân sách. Khi có chênh lệch giá xuất hiện thì phần chênh lệch giá này phải được điều toàn bộ vào ngân sách nhà nước và quy định rõ tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thực hiện bù giá vào lương cho cán bộ, công nhân viên chức.

Phải tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ công tác tín dụng và các chế độ quản lý tiền mặt để giảm đáng kể bội chi tiền mặt góp phần ổn định tài chính, tiền tệ và giá cả.

3.  Trên cơ sở của việc đổi mới một bước cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đồng thời, chống tản mạn, cục bộ, địa phương, cần sớm sửa đổi cơ chế và chính sách xuất nhập khẩu, kiên quyết thực hiện cho được nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, ngoại hối, tập trung nguồn ngoại tệ của cả Trung ương và địa phương vào việc nhập những loại vật tư, nguyên liệu thiết yếu nhất, tạo thêm điều kiện cho việc ổn định, phát triển sản xuất và ổn định phân phối lưu thông. Đi đôi với vấn đề này, cần kiên quyết tinh giản biên chế, sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, lao động hợp lý và bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các tổ chức kinh tế, cơ sở. Đây là vấn đề ngoài xã hội và trong Quốc hội cũng rất quan tâm, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, trước hết là Hội đồng Bộ trưởng có biện pháp kiên quyết có hiệu lực để đổi mới tình hình, không thể để kéo dài được nữa.

4.  Cần kiên quyết chuyển hướng và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, sửa lại cơ cấu đầu tư bao cấp tràn lan, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tập trung cho được các nguồn vốn vào kế hoạch (kể cả vốn của các địa phương). Cần chuyển một số công trình đầu tư bằng ngân sách Trung ương sang đầu tư bằng vốn tự có, vốn khấu hao cơ bản để lại, vốn vay ngân hàng. Ngân sách nhà nước tập trung trước hết và chủ yếu đầu tư chiều sâu và đồng bộ hóa để bảo đảm việc thực hiện ba chương trình lớn: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu và những công trình chuyển tiếp quan trọng.

5.  Cần quy định lại chế độ phân cấp quản lý ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Đồng thời, cần bảo đảm chấp hành nghiêm ngặt kỷ luật tài chính, xử lý thích đáng các trường hợp tồn quỹ quá lớn, quá mức, tọa chi tiền mặt quá mức, không thực hiện đúng kế hoạch giao nộp sản phẩm và lợi nhuận cho ngân sách, chống tình trạng lập quỹ riêng.

Tình hình tài chính nhà nước đang rất khó khăn. Đề nghị Hội đồng Bộ trưởng quản lý thật chặt chẽ vấn đề này, không dung thứ những hành động cố tình vi phạm kỷ luật tài chính quốc gia, trong khi Đảng đang kêu gọi phải ổn định cho được tình hình các mặt, trong đó có tình hình tài chính.

6.  Cần cụ thể hóa chính sách tiết kiệm và vận động thành phong trào khuyến khích mọi người tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng và trong tiêu dùng. Chính sách tiết kiệm phải được thấu suốt trong kế hoạch hóa và các đòn bẩy kinh tế để dành vốn tích lũy, mở rộng sản xuất, khuyến khích việc tiêu dùng các loại hàng sản xuất trong nước, hạn chế tiêu dùng những loại hàng dành cho xuất khẩu. Đi đôi với vấn đề này, cần có những biện pháp đặc biệt chống bọn buôn lậu, làm ăn phi pháp.

Cần cấm việc nhận các loại hàng xa xỉ phẩm, quản lý chặt chẽ và hạn chế nhập các loại hàng tiêu dùng cao cấp; cấm nhập các loại hàng mà trong nước đã có nhiều cơ sở sản xuất hàng loạt ổn định và bảo đảm được nhu cầu. Chỉ cho phép nhập những mặt hàng phục vụ cho đời sống của người lao động mà trong nước không có khả năng sản xuất.

Thưa các đồng chí đại biểu,

Năm 1987, với khí thế mới đón mừng và thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sẽ có những phong trào cách mạng rộng lớn để phấn đấu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1987 làm đà cho việc hoàn thành kế hoạch 5 năm 1986-1990. Qua đó, chúng ta tin rằng Đảng ta sẽ được củng cố trong sạch, Nhà nước ta vững mạnh, xã hội ta lành mạnh và có sự đổi mới về mọi mặt. Với tinh thần ấy, Uỷ ban chúng tôi xin có một số kiến nghị:

Hội đồng Bộ trưởng và các ngành, các cấp cần thực sự đổi mới phong cách làm việc, chỉ đạo và điều hành tạo nên sự nhất trí cao, nói và làm theo nghị quyết của cấp trên và của tập thể, thực hiện kiên quyết, vững chắc và dứt điểm những khâu trọng yếu của kế hoạch nhà nước, của việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.

Việc sửa chữa những sai lầm, gỡ “rối” các vấn đề giá - lương - tiền là hết sức cấp bách, có nhiều khó khăn, cần phải bình tĩnh, đồng bộ, không nóng vội, nhưng cũng không thể trì hoãn. Do vậy, phải tập trung được mọi trí tuệ, tài năng để làm việc, làm thật sự, làm đến nơi đến chốn, chỉ đạo chặt chẽ, có kiểm tra đôn đốc, lắng nghe ý kiến của cán bộ và nhân dân, động viên được mọi người đoàn kết chung sức, chung lòng cùng với Đảng và Nhà nước khắc phục khó khăn, cản ngại để thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định đời sống.

Theo quan điểm cơ bản của Đảng ta “lấy dân làm gốc” mọi việc phải để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thì ngay trong năm 1987, chúng ta phải phát động được phong trào cách mạng mạnh mẽ của quần chúng thi đua thực hiện kế hoạch nhà nước, phát huy được mọi năng lực, tiềm tàng của xã hội, của đất nước, hướng vào việc thực hiện thắng lợi ba chương trình kinh tế lớn.

Vấn đề tổ chức và cán bộ là khâu có tính chất quyết định để bảo đảm cho các chủ trương, chính sách được tổ chức thực hiện tốt. Theo tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng, trong năm tới chúng ta phải củng cố và kiện toàn bộ máy, bố trí đúng những cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để đảm đương nhiệm vụ.

Tóm lại, Uỷ ban chúng tôi đề nghị Hội đồng Bộ trưởng thật sự có sự đổi mới trong công tác chỉ đạo và điều hành, bảo đảm cho kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1987 được thực hiện tốt, tạo đà phấn khởi và giữ được lòng tin cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào cả nước.

Trên đây là một số vấn đề Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách trình Quốc hội xem xét và quyết định.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.