VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

 

TỜ TRÌNH CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ DỰ ÁN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH  
(Do bà Nguyễn Thị Định, Trưởng ban Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình
trình bày tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VII, ngày 24-6-1986)

Thưa Chủ tịch đoàn,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Được sự ủy nhiệm của đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin báo cáo trước Quốc hội về Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình.

Luật hôn nhân và gia đình hiện đang thi hành được ban hành từ năm 1959. Việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình trong 27 năm qua đã góp phần xóa bỏ triệt để những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dựa trên các nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình, bảo vệ quyền lợi của con cái, thúc đẩy việc xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận trong đó mọi người thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ.

Luật hôn nhân và gia đình được nhân dân tự nguyện thực hiện trong thời gian lâu, nhiều quy định trong luật đã dần dần trở thành những tập quán tốt đẹp trong đời sống gia đình: quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, quan hệ dân chủ giữa cha mẹ và con ngày càng phổ biến. Những tàn dư phong kiến trong quan hệ hôn nhân và gia đình tuy còn biểu hiện ở nơi này nơi khác nhưng ngày càng bớt dần trước tình hình phát triển kinh tế và xã hội ở nước ta.

Luật hôn nhân và gia đình đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong gia đình và xã hội, đã có ảnh hưởng rất lớn trong nhân dân và giành được thắng lợi có ý nghĩa quan trọng.

Đến nay, đất nước ta thống nhất đã 11 năm, tình hình nước ta hiện nay so với năm 1959 đã thay đổi về cơ bản. Tình hình xã hội phát triển đòi hỏi phải quy định cụ thể và đầy đủ hơn trong luật pháp các quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Việc ban hành Luật hôn nhân và gia đình mới là một tất yếu khách quan để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.

Ngày 25 tháng 10 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng đã ký quyết định thành lập Ban Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình gồm các đồng chí lãnh đạo Bộ Tư pháp, Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ và do Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam làm Trưởng ban. Ban Dự thảo đã tiến hành điều tra khảo sát về hôn nhân và gia đình trong 2 năm 1982 - 1983 tại 13 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm vùng đô thị, trung du miền Bắc, đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, miền núi, biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, một số vùng tập trung dân cư theo đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo. Đoàn khảo sát đã điều tra ở 48 điểm, lấy phường, xã làm đơn vị khảo sát; ngoài ra còn khảo sát ở một số xí nghiệp, nông trường, bệnh viện phụ sản, trường đại học; đã thu thập nhiều số liệu về dân số, sinh đẻ, kết hôn, ly hôn, trẻ em mồ côi, v.v.. Trong thời gian từ 1979 đến gần đây, tổ chức nhiều hội thảo khoa học và lấy ý kiến nhiều nhà khoa học am hiểu những vấn đề có liên quan đến hôn nhân và gia đình trong các lĩnh vực y học, di truyền học, xã hội học, tâm lý học, dân tộc học, dân số học, luật học; đồng thời, có tham khảo các bộ Luật gia đình của nhiều nước xã hội chủ nghĩa.

Dự thảo đã nhiều lần được đưa ra lấy ý kiến của các cơ quan và đoàn thể ở Trung ương và một số địa phương trong năm 1985. Những ý kiến đóng góp đều được nghiên cứu để chỉnh lý Dự thảo. Sau khi Hội đồng Nhà nước nghe và cho ý kiến về Dự thảo (ngày 27 tháng 2 năm 1986), Dự thảo đã được gửi đến các Đoàn đại biểu Quốc hội, các cơ quan và đoàn thể ở Trung ương để lấy ý kiến. Tất cả những ý kiến đóng góp của các cơ quan Trung ương, của các địa phương, của các Đoàn đại biểu Quốc hội đều được nghiên cứu kỹ và tiếp thu có chọn lọc để chỉnh lý Dự thảo và đưa trình lại Hội đồng Nhà nước trong phiên họp ngày 14 tháng 6 năm 1986. Tiếp thu những ý kiến kết luận của đồng chí Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Dự thảo đã được hoàn chỉnh để đưa trình Quốc hội.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình mới được xây dựng căn cứ vào tình hình thực tế hôn nhân và gia đình hiện nay ở nước ta, căn cứ vào Báo cáo Chính trị và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V và các văn kiện Đảng (chủ yếu phần nói về cách mạng tư tưởng và văn hóa), vào các Điều 63, 64, 65 của Hiến pháp. Vì vậy, nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình mới là kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và nếp sống xã hội chủ nghĩa trong quan hệ hôn nhân và gia đình gắn với xóa bỏ những tàn dư của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến còn tồn tại, những tục lệ lạc hậu và ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong hôn nhân và gia đình.

Luật hôn nhân và gia đình mới được xây dựng trên các nguyên tắc:

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng;

- Bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con cái;

- Bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Nhiệm vụ và những nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình mới quyết định nội dung những quy định trong luật.

Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình mới đưa trình Quốc hội gồm 58 điều chia làm 10 chương quy định ba vấn đề lớn: hôn nhân, quan hệ giữa cha mẹ và con, đỡ đầu. Hôn nhân gồm các vấn đề: kết hôn, nghĩa vụ và quyền của vợ chồng, ly hôn. Quan hệ giữa cha mẹ và con gồm các vấn đề: nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con, xác định cha mẹ cho con, nuôi con nuôi. Đó là hai vấn đề chủ yếu trong Dự thảo được quy định trong 6 chương gồm 42 điều (chương II đến chương VII).

Dưới đây chúng tôi xin báo cáo một số điểm về hôn nhân và quan hệ giữa cha mẹ và con trong dự thảo:

a) Hôn nhân: Về tuổi kết hôn, có ý kiến đề nghị tăng tuổi kết hôn lên 20 tuổi đối với nữ, 22 tuổi đối với nam; 22 tuổi đối với nữ, 25 tuổi đối với nam nhằm hạn chế phát triển dân số. Dự thảo vẫn giữ tuổi kết hôn 18 tuổi đối với nữ, 20 tuổi đối với nam như đã quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 được thi hành đã 27 năm và được nhân dân thực hiện như một tập quán. Điều tra khảo sát về hôn nhân và gia đình cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp kết hôn dưới tuổi luật định ở nông thôn, nhất là ở miền núi. Quy định tuổi kết hôn tối thiểu cần xem xét nhiều mặt, có chú ý đến tập quán trong nhân dân các dân tộc. Tăng tuổi kết hôn không phải là biện pháp cơ bản để hạn chế dân số mà còn có thể dẫn đến những diễn biến phức tạp.

Về tài sản của vợ chồng dự thảo quy định: tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được tặng hoặc thừa kế chung (Điều 14).

Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được tặng hoặc thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng (Điều 16).

Quy định như trên phù hợp với sự phát triển của xã hội, tâm lý chung của nhân dân, vợ hoặc chồng có thể tùy ý giữ tài sản riêng hoặc nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

Trong vấn đề hôn nhân, dự thảo còn quy định hai vấn đề mới:

1. Hủy việc kết hôn trái pháp luật: việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn quy định trong Luật hôn nhân và gia đình sẽ bị Tòa án nhân dân hủy (Điều 9). Quy định này nhằm bảo đảm tuân thủ nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nhận thức của nhân dân về hôn nhân xã hội chủ nghĩa đã được nâng cao hơn trước nên Bộ luật hình sự đã quy định: những hành vi cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tảo hôn và tổ chức tảo hôn là tội phạm có thể bị trừng trị về mặt hình sự (các Điều 143, 144, 145 Bộ luật hình sự), nhằm đẩy mạnh việc xóa bỏ triệt để những tàn dư của chế độ hôn nhân phong kiến.

2. Việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài được quy định trong Điều 53 nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình do giao lưu quốc tế phát triển.

b) Quan hệ giữa cha mẹ và con: Trong tình hình hiện nay, quan hệ giữa cha mẹ và con cần được quy định cụ thể và chi tiết nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Vì vậy vấn đề này được quy định trong một chương của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 với 8 điều (Chương IV: Điều 17 đến Điều 24) đã được phát triển trong dự thảo thành ba chương với 21 điều (Chương IV, V, VI). Dự thảo quy định cụ thể và đầy đủ những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con: quyền nuôi dưỡng con, quyền giáo dục con, quyền đại diện cho con chưa thành niên trước pháp luật để bảo vệ quyền lợi của con, quyền quản lý tài sản của con chưa thành niên (trong trường hợp con có tài sản riêng), nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con chưa thành niên gây ra. Những quyền của cha mẹ cũng đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con.

Về nuôi con nuôi, Dự thảo phát triển Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thành một chương gồm 6 điều. Dự thảo ghi rõ mục đích nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt (Điều 34). Dự thảo quy định cụ thể mức tuổi của người được nhận làm con nuôi (dưới 16 tuổi), chênh lệch tuổi giữa người nuôi và con nuôi (20 tuổi trở lên), tôn trọng nguyện vọng của người được nhận làm con nuôi: đối với trẻ em ở tuổi thiếu niên (9 tuổi trở lên) đã nhận thức được việc mình làm con nuôi thì phải có sự đồng ý của các em.

Dự thảo quy định: ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu trong trường hợp cháu không còn cha mẹ; cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con; anh chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn con, không còn cha mẹ (Điều 27). Quy định này phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam đùm bọc, thương yêu nhau, giữa những người thân thuộc, quan tâm đến con chưa thành niên không còn cha mẹ, ông bà nhiều tuổi không còn con cái.

Trên tinh thần kế thừa luật pháp về hôn nhân và gia đình từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, nhất là Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Pháp lệnh ngày 14-11-1979 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Dự thảo quy định cụ thể và tương đối đầy đủ những quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa ở nước ta và phát triển những luật pháp đó trong tình hình mới.

Một số chính sách được quán triệt và thể hiện trong những quy định của dự thảo:

1. Chính sách dân tộc: Dự thảo ghi nhận những tiến bộ trong hôn nhân của các dân tộc thể hiện ở hôn nhân hòa hợp giữa nam, nữ thuộc các dân tộc khác nhau, xóa bỏ kỳ thị dân tộc trong hôn nhân (Điều 1), xóa bỏ tập quán lạc hậu cản trở quyền ly hôn, ở việc đòi bồi hoàn sính lễ khi ly hôn (Điều 42). Hôn nhân và gia đình gắn nhiều với phong tục tập quán; vì vậy, để việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình mới sát với tình hình thực tế ở vùng dân tộc, Dự thảo quy định: Hội đồng Nhà nước có thể căn cứ vào tinh thần cơ bản của Luật này và tình hình cụ thể mà quy định những điều khoản thích hợp (Điều 56).

2. Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: Chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình là một chính sách lớn hiện nay được thể hiện ở Điều 2 và Điều 11 quy định nghĩa vụ của vợ chồng thực hiện kế hoạch hoá gia đình (sinh đẻ có kế hoạch), bảo đảm mỗi cặp vợ chồng không quá hai con.

3. Chính sách bảo vệ bà mẹ và trẻ em: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ chấm dứt đã 11 năm nhưng vẫn còn để lại nhiều hậu quả trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đối với nhân dân ta: những trẻ em mồ côi cha mẹ, những người vợ góa, những người mẹ đơn thân. Dự luật ghi rõ: "Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ" (trong đó có người mẹ đơn thân (Điều 3); Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi làm con nuôi; con liệt sĩ được nhận làm con nuôi vẫn hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ (Điều 38). Những quy định về đỡ đầu nhằm bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha mẹ chết hoặc cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện chăm nom, giáo dục con.

4. Vai trò của các tổ chức xã hội đối với hôn nhân và gia đình: Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với hôn nhân và gia đình thể hiện quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Dự thảo quy định Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có trách nhiệm tổ chức việc giáo dục vận động nam, nữ thanh niên nói riêng và nhân dân nói chung thực hiện Luật hôn nhân và gia đình, và được can thiệp trong những trường hợp cần thiết vào quan hệ hôn nhân và gia đình nhằm bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình, củng cố đạo đức xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của trẻ em, của bà mẹ (các Điều 9, 31, 39, 51).

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Về ý nghĩa và tầm quan trọng của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Luật lấy vợ, lấy chồng sắp đưa ra Quốc hội là một cuộc cách mạng, là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa... Luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ tức là giải phóng phần nửa xã hội... Luật này quan hệ đến tương lai của gia đình, của xã hội, của giống nòi"[1]. "Luật này sẽ có ảnh hưởng tốt đến nòi giống và thực hiện "nam nữ bình quyền"[2].

Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình mới được Quốc hội thông qua và được thi hành sẽ tiếp tục sứ mạng của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam, nữ. Việc thực hiện Luật hôn nhân và gia đình mới sẽ góp phần xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong phạm vi cả nước.

Xin trình Quốc hội dự Luật hôn nhân và gia đình để Quốc hội xem xét.


 

[1]. Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo Luật hôn nhân và gia đình ngày 10-10-1959. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, t. II-1980, tr.110, 112.

[2]. Lời phát biểu trong phiên họp ngày 15-4-1960 kỳ họp 12, Quốc hội khóa I, Công báo số 24 ngày 13-6-1960, tr. 452, 453.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.