VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

 

BÁO CÁO CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP VỀ GIÁ - LƯƠNG - TIỀN
TẠI KỲ HỌP THỨ 9, QUỐC HỘI KHÓA VII, NGÀY 25-6-1985

 

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Được sự Ủy nhiệm của đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin báo cáo với Quốc hội về những chủ trương, biện pháp về giá - lương - tiền theo tinh thần Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Trong kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng đã báo cáo với Quốc hội về chủ trương, biện pháp cải tiến chế độ tiền lương theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12 năm 1983). Công việc này trong thực tế đã không triển khai được, một phần vì thiên tai liên tiếp hai năm 1983 - 1984 làm cho mùa màng bị thiệt hại nặng, nhưng phần quan trọng hơn, vì tiền lương bao hàm nhiều mối quan hệ rất phức tạp, chủ trương cải tiến chế độ tiền lương lúc ấy chưa đặt vấn đề lương trong tổng thể các mối quan hệ giá - lương - tiền và tổng thể cơ chế quản lý kinh tế, nhiều mâu thuẫn, vướng mắc không xử lý được nếu không xử lý đồng bộ các vấn đề có liên quan. Vì lẽ đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định dành hẳn kỳ họp lần thứ 8 để xem xét và xử lý đồng bộ vấn đề giá - lương - tiền. Hội nghị đã phân tích sâu sắc tình hình giá cả, tiền lương, tài chính, tiền tệ và một số lĩnh vực khác có liên quan như sản xuất, thương nghiệp, quản lý và làm chủ thị trường, cơ chế kế hoạch hóa và quản lý, v.v.; đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, sai sót trên các lĩnh vực này và đã đi tới nhất trí cao về những chủ trương, biện pháp giải quyết mà thực chất là cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài chính và tiền tệ để bãi bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Tiếp theo các nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 và lần thứ 7, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục cụ thể hóa các nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng, tạo ra chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong nền kinh tế và đời sống xã hội ở nước ta. Với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này, chúng ta sẽ chấm dứt thời kỳ điều khiển nền kinh tế bằng những mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, biểu hiện đặc trưng của cách quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang thời kỳ điều khiển nền kinh tế trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế khách quan, thông qua kế hoạch hóa gắn với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Sau đây, tôi xin trình bày nội dung chủ yếu của Nghị quyết quan trọng này.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH GIÁ - LƯƠNG - TIỀN

I- Trải qua 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nền kinh tế nước ta không có điều kiện phát triển; để bảo đảm nhu cầu về chiến đấu và đời sống của nhân dân, chúng ta đã phải dựa một phần quan trọng vào viện trợ của các nước anh em và nhờ đó giá cả, tiền lương cũng như tài chính, tiền tệ cơ bản giữ được ổn định. Chế độ bao cấp có ý nghĩa cần thiết trong hoàn cảnh kháng chiến trở thành một thói quen trong lối sống và cách quản lý kinh tế - xã hội.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, điều kiện kinh tế - tài chính của nước ta thay đổi căn bản: viện trợ không hoàn lại về cơ bản không còn nữa; số vốn vay dài hạn của các nước anh em và bè bạn phần lớn là dành cho các công trình thiết bị toàn bộ, muốn nhập khẩu nguyên liệu, nhiên liệu và hàng tiêu dùng thì phải đẩy mạnh xuất khẩu; từ năm 1981 trở đi, không còn sự ưu đãi về giá hàng nhập nữa, giá hàng nhập do đó tăng lên hơn gấp đôi, khối lượng vật tư hàng hóa nhập khẩu (trừ phần nhập của Liên Xô) giảm nhiều. Mặc dù chúng ta đã ra sức phát triển sản xuất trong nước và đã đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi, nhất là trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình then chốt của nền kinh tế quốc dân, nhưng số của cải do sản xuất trong nước tăng thêm vẫn chưa nhiều hơn số của cải từ các nguồn bên ngoài giảm đi. Hai cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động... ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc đã gây cho ta nhiều thiệt hại. Dân số tiếp tục tăng nhanh. Vì vậy mà thu nhập quốc dân sử dụng bình quân đầu người, sau khi đã giảm đột ngột 20% năm 1975, vẫn tiếp tục giảm mỗi năm 2 - 3%. Trong khi đó thì nhu cầu quốc phòng và chi về xây dựng cơ bản vẫn phải duy trì ở mức cao.

Trước tình hình đó, đáng lẽ Trung ương Đảng và Chính phủ phải có một số chủ trương, biện pháp chuyển hướng mạnh mẽ, kịp thời: sắp xếp lại sản xuất và xây dựng; định lại chính sách tài chính quốc gia lấy nguồn động viên trong nước làm cơ sở; bãi bỏ chế độ phân phối bao cấp; xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, v.v.. Nhưng chúng ta đã tỏ ra thiếu nhạy bén, mặt khác, cũng còn nặng tư tưởng ỷ lại vào viện trợ bên ngoài, chậm đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế.

II- Trung ương Đảng và Chính phủ đã có một số chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm cải tiến công tác phân phối, lưu thông như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 12-1979), Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị (tháng 6-1980), Chỉ thị số 109 của Bộ Chính trị (tháng 5-1981), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa V (tháng 12-1982), Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư (tháng 10-1980), Nghị quyết số 25-CP và số 26-CP của Hội đồng Chính phủ (tháng 01-1981), v.v.. Các chỉ thị, nghị quyết trên đã góp phần đáng kể tháo gỡ một số vướng mắc cho sản xuất kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết một số vấn đề bức bách về giá cả và tiền lương.

Tuy nhiên, các chỉ thị, nghị quyết trên còn có những mặt hạn chế rất cơ bản:

1. Chúng ta vẫn nhằm giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác trên cơ sở tiếp tục duy trì quan liêu, bao cấp, chưa đặt vấn đề xử lý giá, lương trên quan điểm triệt để xóa bỏ quan liêu, bao cấp.

Trong sản xuất, kinh doanh, chúng ta tiếp tục kế hoạch hóa và quản lý theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp, đơn thuần dựa vào cấp phát và giao nộp, cấp phát và giao nộp bất kể với giá nào, lãi thì Nhà nước thu, lỗ đã có Nhà nước chịu, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, giả tạo. Cơ chế ấy đặt các cơ sở sản xuất - kinh doanh trong tình trạng bị gò bó, trở nên thụ động, ỷ lại, không kích thích, đồng thời cũng không ràng buộc họ phải quan tâm đến năng suất, chất lượng, hiệu quả; đặt các cơ sở sản xuất - kinh doanh vào một thứ trật tự hành chính quan liêu, không cần biết đến hiệu quả kinh tế, vì vậy mà cơ sở nào ít nhiều năng động, nhạy bén, muốn đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh có hiệu quả thì ít nhiều đều phải "xé rào".

Trong phân phối, chúng ta tiếp tục duy trì chế độ cung cấp hiện vật với giá rất thấp, đến mức gần như cho không. Diện cung cấp tràn lan. Trong tiền lương thì chỉ có bộ phận lương bằng tiền là gắn với lao động, còn bộ phận lương bằng hiện vật lớn hơn nhiều thì làm việc hay không làm việc đều được hưởng như nhau. Biên chế nhà nước vì thế mà ngày càng phình to ra, nhưng hiệu quả thì ngày càng giảm. Trong các hình thức bao cấp thì bao cấp qua giá là có quy mô rộng lớn hơn cả: vật tư hàng hóa nhà nước bán ra phổ biến là không bù đắp nổi chi phí sản xuất, có khi dưới giá trị tới 5 - 10 lần; hàng chục tỷ đồng chênh lệch giá biến thành nguồn thu nhập bổ sung của nhiều lớp người, thậm chí biến thành miếng đất nuôi dưỡng thị trường tự do và chợ đen, làm giàu cho bọn gian thương và những phần tử thoái hóa, biến chất trong bộ máy nhà nước.

2. Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị đề ra nội dung cải tiến phân phối, lưu thông bao gồm ba bước:

- Bước một: Ổn định tình hình kinh tế và đời sống, thực hiện cân bằng ngân sách và tiền mặt, chuẩn bị các điều kiện để cải cách giá và lương.

- Bước hai: Cải cách giá bán lẻ và giá thu mua, cải cách tiền lương.

- Bước ba: Cải cách giá bán buôn, hoàn chỉnh hệ thống phân phối, lưu thông.

Thực tiễn cho thấy phương hướng và chủ trương chung về điều chỉnh phân phối - lưu thông theo Nghị quyết trên là đúng đắn và cần thiết, nhưng việc chia ra ba bước như trên là không đúng: không thể ổn định được tình hình kinh tế và đời sống, cân bằng được ngân sách và tiền mặt, nếu vẫn duy trì bao cấp qua giá và lương.

Phát hiện ra thiếu sót ấy, tháng 5 năm 1981, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 109: đưa hệ thống giá nhà nước lên sát giá trị hàng hóa, phù hợp với sức mua của đồng tiền, thu hẹp diện bao cấp, giảm số lượng mặt hàng cung cấp bằng hiện vật đi đôi với phụ cấp tiền lương cho công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang.

Thực hiện các nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị, năm 1981, Nhà nước đã điều chỉnh tương đối toàn diện hệ thống giá (trừ giá cung cấp, chủ yếu đối với 9 mặt hàng thiết yếu). Mặt bằng giá năm 1981 được nâng lên 5 - 7 lần đã phản ánh tương đối sát giá trị hàng hóa, sức mua thực tế của đồng tiền và giá thị trường lúc ấy.

Việc điều chỉnh giá năm 1981 đã góp phần mở rộng hoạt động của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thu mua, nắm hàng vào tay Nhà nước, điều chỉnh tỷ giá công - nông hợp lý hơn; làm cho các xí nghiệp quốc doanh từ chỗ bị lỗ đã bắt đầu có lãi; giảm bớt khó khăn cho ngân sách nhà nước.

Lẽ ra sau đó cần phải thực hiện nhất quán phương hướng này, thông qua nhiều bước liên tục mà xây dựng hệ thống giá và lương mới, xây dựng cơ chế quản lý mới, nhằm triệt để xóa bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang kinh doanh, hạch toán. Song, rất tiếc là chúng ta đã dừng lại nửa vời, để rồi rơi trở lại khuyết điểm cũ.

Cuộc điều chỉnh giá và lương năm 1981, cả về chủ trương, phương án cụ thể và tổ chức thực hiện có nhiều thiết sót, chủ yếu là:

1. Do chưa quán triệt quan điểm xóa bỏ quan liêu, bao cấp, chưa nhận rõ căn bệnh sâu xa của cơ chế quản lý kinh tế là quan liêu, bao cấp cho nên đã cải tiến giá và lương một cách nửa vời. Trong chính sách giá, chưa tính đủ các yếu tố chi phí sản xuất vào giá thành, còn duy trì bù lỗ tràn lan và hạch toán kinh tế giả tạo; chỉ đạo giá vẫn theo khuynh hướng mua theo giá thấp và bán theo giá thấp, không chủ động vận dụng quy luật giá trị và sử dụng các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, làm cho kế hoạch không gắn với kinh doanh và hạch toán kinh tế, kết quả chẳng những không lãnh đạo được thị trường mà còn bị thị trường chi phối, lấn át. Trong chính sách lương, vẫn duy trì cung cấp hiện vật là chính, duy trì giá cung cấp giả tạo, phụ cấp tiền lương không tương ứng và không theo kịp mức tăng giá; trong chính sách phân phối nói chung vẫn duy trì bao cấp tràn lan, vi phạm nghiêm trọng quy luật phân phối theo lao động.

2. Sau khi điều chỉnh giá và lương, vẫn tiếp tục áp dụng cơ chế "tĩnh" đối với giá và lương, trong khi tình hình kinh tế chung đòi hỏi một cơ chế "động", kết quả là: hệ thống giá nhà nước lại tiếp tục tách rời giá trị, bù lỗ sản xuất - kinh doanh ngày càng lớn, sức mua của tiền lương danh nghĩa ngày càng giảm.

3. Tiến hành điều chỉnh giá, lương một cách đơn độc, chắp vá, chậm đề ra và thực hiện đồng bộ một số biện pháp tạo tiền đề cho việc ổn định giá và lương như: sắp xếp và tổ chức lại sản xuất cho có hiệu quả, tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải tạo và quản lý thị trường, điều chỉnh chính sách tài chính quốc gia, v.v..

Từ những khuyết điểm nói trên, chúng ta cần rút ra những bài học cho thời gian tới. Bài học bao trùm là: phải dứt khoát bãi bỏ quan liêu - bao cấp, tiến hành từng bước vững chắc, nhưng kiên quyết, triệt để, không dừng lại nửa vời.

III- Do những khuyết điểm như trên, tình hình giá cả tiếp tục diễn biến xấu. Giá nhà nước hiện nay đã trở nên thấp dưới giá trị 5 - 10 lần.

Lần điều chỉnh giá năm 1981, tuy mạnh, nhưng vẫn chưa đủ mức. Lúc đó, chúng ta đã chủ động để ngoài giá thành một bộ phận quan trọng tiền lương và khấu hao tài sản cố định, ngại rằng nếu tính đủ sẽ vượt quá sức chịu đựng của người tiêu thụ. Qua bốn năm đồng tiền tiếp tục xuống giá, ngay bộ phận được tính vào giá thành cũng ngày càng thu nhỏ lại. Đến nay, chỉ còn 20 - 30% tiền lương và 15 - 20% khấu hao tài sản cố định được phản ánh vào giá thành sản phẩm công nghiệp. Còn giá bán vật tư nhập khẩu, tuy lúc ấy đã được tính gần sát với giá vốn hàng nhập, nhưng qua bốn năm giá hàng xuất tăng lên, trị giá đồng rúp và đồng đôla tính bằng tiền Việt Nam tăng lên 9 - 10 lần, thì giá bán vật tư nhập khẩu giữ nguyên như cũ đã biến thành một thứ giá tượng trưng, gần như cho không.

Hệ thống giá thấp (dưới giá trị) của Nhà nước đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng:

1. Thu nhập của khu vực kinh tế quốc doanh tính chung lại chỉ đủ trả lương cho công nhân, viên chức của bản thân khu vực ấy ở mức rất thấp, không đủ tái sản xuất sức lao động; hoàn toàn không có đóng góp cho Nhà nước, không có tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

2. Máy móc, thiết bị, nhà xưởng ngày càng hao mòn, hư hỏng vì thu về khấu hao tài sản cố định không đủ chi về sửa chữa, chưa nói đến tái tạo, khôi phục tài sản cố định. Trong thực tế, chúng ta đang ăn dần cả vào vốn.

3. Xuất khẩu càng nhiều thì ngân sách bù lỗ càng lớn. Để kiếm được 1 đồng rúp hay 1 đồng đôla chúng ta phải chi phí trên dưới 150 đồng Việt Nam, nhưng hàng nhập về chỉ bán trên dưới 20 đồng Việt Nam. Trên thực tế, một bộ phận tiền vay nợ nước ngoài đã được dùng để tiêu dùng và bao cấp thông qua giá hàng nhập quá rẻ.

4. Chính sách giá thấp mang tính chất bao cấp là nguồn gốc gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực, rối ren trong xã hội. Vật tư hàng hóa của Nhà nước trở thành đối tượng mua đi bán lại kiếm chênh lệch giá một cách phổ biến. Công nhân, viên chức được cung cấp hiện vật, nông dân nhận được hàng "đối lưu" cũng ít nhiều biến thành người tiếp sức cho thị trường tự do. Mỗi năm có hàng vạn tấn xăng dầu, hàng chục vạn tấn phân bón, hàng trăm triệu kilôoát giờ điện trao cho nông dân sử dụng mà Nhà nước không nhận lại được số nông sản "đối lưu" tương ứng, ngoài khoản tiền thanh toán có ý nghĩa tượng trưng.

Trong khi Trung ương chậm điều chỉnh giá vật tư và hàng công nghiệp thì nhiều địa phương đã sớm chuyển qua kinh doanh (nhất là sau Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương), chủ động điều chỉnh giá bán một bộ phận vật tư hàng hóa theo sức mua của thị trường địa phương, thu về cho ngân sách địa phương một phần khoản chênh lệch giá. Chỉ từ tháng 9 năm 1984, Trung ương mới điều chỉnh giá bán lẻ một số hàng công nghiệp; giá bán lẻ này cũng mới chỉ phản ánh tỷ giá kết toán khoảng 60 - 65 đồng/rúp. Còn vật tư, thiết bị, năng lượng, cước vận tải mà Trung ương cung cấp cho địa phương và cơ sở thì vẫn theo mức giá rất thấp quy định từ năm 1981. Đây là khoản bao cấp lớn nhất đối với toàn xã hội mà ngân sách Trung ương đang gánh chịu.

Mặt khác, số ngoại tệ do địa phương, ngành và cơ sở thu được do tự xuất - nhập cũng đã được tính theo nguyên tắc giá hàng nhập trang trải đủ vốn hàng xuất, còn thu lãi tùy theo mặt hàng, với tỷ giá trên dưới 200 đồng/đôla, chứ không phải 12 đồng/đôla như tỷ giá và giá hàng do Trung ương quy định. Kết quả là các địa phương đẩy mạnh được xuất - nhập, thu được chênh lệch xuất - nhập khẩu, tạo ra nguồn thu khá lớn cho ngân sách địa phương, có thêm điều kiện để mở mang xây dựng cơ bản, nắm hàng, làm chủ thị trường và tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân, viên chức, giảm bớt khó khăn về đời sống hiện nay.

Giá nhà nước giữ ở mức quá thấp (nhất là giá cung cấp) đã ảnh hưởng tiêu cực đến lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ và ngân sách nhà nước và việc phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, trở ngại cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa vươn lên làm chủ thị trường.

Quỹ vật tư và hàng công nghiệp trong tay Nhà nước dùng để đối lưu với khối lượng thu mua nông, lâm, hải sản không phải quá thiếu, nhưng do giá quá thấp và do tổ chức phân tán, điều hành kém nên khó đáp ứng được nhu cầu của nông nghiệp và nông dân; phần hàng phải mua theo giá thỏa thuận cũng vì vậy tăng lên qua từng vụ, gây thêm mất cân đối tiền - hàng, khó khăn thêm cho tiền mặt và ngân sách.

5. Đối với xí nghiệp thì việc nhận bù lỗ về vật tư, về hàng cung cấp cho công nhân, viên chức để đổi lại việc giao nộp sản phẩm theo giá thấp là những sợi dây trói buộc xí nghiệp vào cơ chế hành chính quan liêu, thủ tiêu quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh và hạch toán kinh tế của xí nghiệp. Các yếu tố của giá thành cũng như bản thân sản phẩm sản xuất ra được định giá không đúng với giá trị thực của nó: nguyên liệu nhập khẩu thì rẻ hơn nguyên liệu cùng loại sản xuất trong nước, vật tư cơ bản do Nhà nước cung ứng thì giá không đáng bao nhiêu so với vật liệu phụ, khấu hao máy móc thiết bị và chi phí về tiền lương chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong giá thành, thứ phẩm và phế phẩm bán ra thị trường thì giá cao hơn chính phẩm giao cho thương nghiệp quốc doanh, kế hoạch phụ thì mang lại lợi nhuận cho xí nghiệp nhiều hơn kế hoạch chính, v.v.; điều đó làm cho định hướng của xí nghiệp bị sai lệch, mọi tính toán về hiệu quả kinh tế bị sai lệch. Xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân, điều này càng tai hại hơn nữa.

IV- Cũng như giá cả, tiền lương từ lâu đã thành vấn đề nóng bỏng trong đời sống xã hội nước ta.

Tiền lương là nguồn sống chủ yếu của 6 triệu người. Nếu kể cả những người mà họ phải nuôi dưỡng thì đó là nguồn sống chủ yếu của 12 triệu người tức 1/5 dân số nước ta.

Tiền lương không chỉ là vấn đề đời sống. Nó còn là yếu tố của sản xuất và là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đối với sản xuất. Tiền lương cũng gắn liền với việc tăng cường quốc phòng và an ninh, gắn liền với việc phát triển văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, y tế, khoa học và kỹ thuật, gắn liền với việc phát triển đồng đều kinh tế và văn hóa các vùng trong nước, gắn liền với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Tiền lương có những bất hợp lý như sau:

1. Tính chất bao cấp rất nặng

Tiền lương hiện nay bao gồm hai bộ phận: bộ phận cung cấp bằng hiện vật và bộ phận bằng tiền. Bộ phận cung cấp bằng hiện vật có giá trị lớn hơn 2 - 3 lần bộ phận bằng tiền, nhưng vì hiện vật được tính theo giá cách đây 25 năm cho nên cũng xem như phát không. Việc cấp phát hiện vật không căn cứ vào kết quả lao động: hễ có tên trong biên chế là được cấp phát tem phiếu lĩnh hiện vật, bất kể có làm việc hay không, làm việc nhiều hay ít.

Số hiện vật cung cấp cho người ăn theo, tiền nhà ở, điện nước... cũng không tính vào lương mà hoàn toàn do ngân sách "bao".

Chế độ cung cấp hiện vật và tính chất bao cấp của nó làm cho tiền lương không còn là một công cụ phân phối theo lao động, một đòn bẩy kích thích lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả; mặt khác, lại vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của người lao động đối với đồng lương và thu nhập của mình, gây ra nhiều lãng phí và tiêu cực.

2. Tính chất bình quân và bất hợp lý rất nặng

Công nhân được chia thành 5 loại, tùy theo lao động nhẹ hay nặng. Cùng một loại lao động thì mức cung cấp hiện vật là như nhau. Mỗi bậc thợ (lành nghề hay không lành nghề) chỉ chênh nhau một số tiền không đáng kể. Các loại cán bộ, sĩ quan, viên chức cũng vậy.

Tiền lương tuy bằng nhau, nhưng số lượng hiện vật mà mỗi người được cấp thì lại chênh nhau rất lớn, tùy thuộc vào số lượng người ăn theo. Người ăn theo sống ở thành phố thì được cung cấp hiện vật, sống ở nông thôn thì không được.

Công nhân, viên chức làm việc ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp, công nhân các ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hóa - nghệ thuật, cán bộ y tế, giáo viên, v.v. không được khuyến khích một cách thỏa đáng.

3. Tiền lương thực tế ngày càng giảm

Từ khi vật tư hàng hóa nhập khẩu giảm thì mức cung cấp hiện vật cho công nhân, viên chức cũng giảm. Năm 1980, cung cấp hiện vật chỉ thực hiện được 65% mức quy định. Vài năm gần đây, ngay việc cung cấp mấy mặt hàng thiết yếu cũng nhiều khi không đủ, không kịp thời, nhất là ở các thành phố, trung tâm công nghiệp và vùng biên giới miền Bắc.

Bộ phận lương bằng tiền không được điều chỉnh tương ứng với mức tăng giá năm 1981, và sau đó phụ cấp lương không tăng kịp thời và thỏa đáng, trong lúc giá nhà nước từ cuối năm 1984 có điều chỉnh, và nhất là giá thị trường biến động mạnh.

Do những nguyên nhân trên, tiền lương thực tế liên tục bị giảm sút, không đủ tái sản xuất sức lao động, làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong nội bộ giai cấp công nhân, làm cho chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa các ngành, nghề và giữa các vùng trở nên rất bất hợp lý.

4. Chế độ tiền lương, tiền thưởng rối ren

Chế độ sở hữu toàn dân và chế độ phân phối theo lao động đòi hỏi một chế độ tiền lương, tiền thưởng thống nhất trong phạm vi cả nước. Song, do cách giải quyết vá víu trong mấy năm qua, nhất là do chậm sửa đổi chế độ tiền lương, buộc các địa phương, xí nghiệp phải tìm nhiều cách tăng thêm thu nhập tiền lương cho công nhân, viên chức của mình nhằm kích thích lao động, giảm bớt khó khăn về đời sống của công nhân viên chức, cho nên trong nước hiện nay tồn tại nhiều cách trả lương, trả thưởng, nhiều mức tiền lương, tiền thưởng. Tình trạng bất hợp lý, do đó, càng tăng thêm:

- Trong thu nhập về tiền lương, phần phụ cấp và tiền thưởng lớn hơn lương cơ bản, ở một số nơi lớn gấp 5 - 7 lần lương cơ bản, làm cho lương cơ bản không còn tác dụng khuyến khích công nhân viên chức nâng cao trình độ nghề nghiệp của mình.

- Thu nhập về tiền lương ở các ngành sản xuất - kinh doanh cao hơn hẳn các ngành khoa học - kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, y tế và các lực lượng vũ trang; ở các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, kinh doanh xuất nhập khẩu, thương nghiệp, v.v. cao hơn hẳn các ngành công nghiệp nặng, xây dựng, v.v..

- Trong khi một số địa phương khai thác được nguồn hàng, tăng tiêu chuẩn cung cấp hiện vật cho công nhân, viên chức, một số địa phương khác tăng phụ cấp bằng tiền hoặc lập ra hệ thống lương mới trên cơ sở chuyển bù giá vào lương, thì ở những địa phương nguồn hàng eo hẹp, ngân sách địa phương eo hẹp, nhất là ở những tỉnh Tây Nguyên, miền núi, biên giới, ngay mức cung cấp hiện vật eo hẹp cũng lo chưa đủ.

V- Tài chính - tiền tệ cũng mang nặng tính quan liêu, bao cấp và khó khăn kéo dài.

1. Giá cả, tiền lương như trên tất yếu dẫn đến cơ quan Tài chính, Ngân hàng cũng mang tính chất bao cấp, điển hình là cơ chế chi đủ, thu đủ áp dụng đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh: trên cơ sở giá thành và phí lưu thông được duyệt, Nhà nước chi đủ mọi khoản, còn lãi bao nhiêu Nhà nước thu, lỗ bao nhiêu Nhà nước chịu. Vốn xây dựng cơ bản, vốn cố định, vốn lưu động đều do Nhà nước cấp phát, xí nghiệp có quyền đòi, nhưng không bị ràng buộc gì về trách nhiệm phải sử dụng sao cho có hiệu quả. Ngay cả vốn tín dụng vay của Ngân hàng về thực chất cũng mang tính chất cấp phát. Tình trạng lãng phí vốn, sử dụng vốn không có hiệu quả trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân.

Nhiều khoản chi về tiêu dùng của nhân dân cũng do ngân sách nhà nước bao cấp thông qua mức giá rất thấp, gần như cho không. Trường hợp ngân sách nhà nước có hạn, bao không đủ, thì sự nghiệp phục vụ thu hẹp lại, chất lượng phục vụ giảm.

Bao cấp gắn liền với hành chính quan liêu. Từ máy móc, thiết bị, vật tư, tiền vốn, tín dụng đến một số hàng tiêu dùng thông thường, một số dịch vụ thông thường đều phải qua nhiều cấp hành chính xét duyệt, gây ra thủ tục phiền hà và tệ cửa quyền.

Cơ chế tài chính, ngân hàng như trên không tạo điều kiện và không kích thích các đơn vị cơ sở, các ngành, các địa phương mở rộng sản xuất - kinh doanh, tăng thêm thu nhập, điều này càng làm cho những khó khăn về tài chính, tiền tệ chậm được khắc phục.

2. Chính sách tài chính quốc gia chậm được sửa đổi cho phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới khiến cho tình trạng mất cân đối kéo dài và ngày càng nghiêm trọng.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, đặc biệt từ năm 1978 trở đi, tình hình nước ta có nhiều thay đổi lớn: bọn bành trướng và bá quyền... công khai trở mặt, gây chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; bọn đế quốc và phản động bao vây kinh tế ta; nguồn viện trợ và vay nợ giảm, nợ đến hạn trả ngày càng lớn; từ năm 1981 trở đi, không còn sự ưu đãi về giá hàng nhập nữa; công nghiệp quốc doanh từ năm 1979 trở đi gặp khó khăn lớn về nguyên liệu, nhiên liệu, v.v.. Trước tình hình đó, chúng ta đã không kịp thời điều chỉnh chính sách tài chính quốc gia: không kịp thời tăng cường động viên các nguồn thu trong nước, điều chỉnh sự phân phối thu nhập quốc dân giữa các tầng lớp dân cư; chậm sắp xếp lại sản xuất và xây dựng nhằm tập trung ưu tiên cho những công trình và sản phẩm quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân và những sản phẩm đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách; không kiên quyết bố trí lại các nhu cầu chi theo tinh thần chỉ tiêu dùng trong phạm vi của cải làm ra, thu hẹp và bãi bỏ chế độ phân phối bao cấp; chậm nghiên cứu và ban hành những chính sách đòn bẩy nhằm thúc đẩy sản xuất - kinh doanh theo hướng hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, v.v..

Việc buông lỏng quản lý và cải tạo thị trường trong một thời gian dài, buông lỏng cuộc đấu tranh giữa hai con đường và đấu tranh địch - ta, để cho thị trường tự do và "chợ đen" phát triển, hàng nhập lậu xâm nhập thị trường trong nước, kẻ địch trà trộn vào các hoạt động trên để phá rối, phá hoại, v.v. càng làm cho tình hình thị trường, giá cả, tài chính, tiền tệ xấu thêm.

Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng đã ra nhiều pháp lệnh, nghị quyết, (đặc biệt quan trọng là hai Pháp lệnh về thuế, thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp) nhằm sửa đổi, bổ sung các chủ trương chính sách về tài chính, làm cho tình hình tài chính tiền tệ năm 1983 bước đầu có chuyển biến tích cực.

Nhưng, sang năm 1984 và 1985, do thiên tai liên tiếp, giá lương thức và nông sản tăng liên tục với mức cao, một số ngành công nghiệp gặp khó khăn vì thiếu nguyên liệu nông sản và nguyên liệu nhập khẩu (vì ngoại tệ phải dành để nhập khẩu lương thực), giá nhà nước chậm được điều chỉnh, công tác quản lý và cải tạo thị trường chậm được triển khai, tổ chức lưu thông hàng hóa có nhiều bất hợp lý, cạnh tranh nhau mua bán đẩy giá lên cao, v.v. đã làm cho ngân sách và tiền mặt chuyển biến xấu.

*
*        *

Tình hình trên đây chứng tỏ chính sách giá - lương - tiền trong mấy năm qua, mặc dù có một số đổi mới từng phần, nhưng cơ bản vẫn mang nặng tính quan liêu, bao cấp, trước hết là ở cấp Trung ương.

Cơ chế giá - lương - tiền thiếu tính năng động cần thiết, chưa thích ứng với nền kinh tế đang ở trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất chưa hợp lý, kinh tế còn nhiều thành phần, còn diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường, giữa địch và ta.

Việc điều chỉnh giá - lương - tiền 4 năm qua tiến hành không đồng bộ trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, từ sản xuất đến phân phối, lưu thông và tiêu dùng, không gắn việc điều chỉnh giá - lương - tiền với tổ chức lại sản xuất và làm chủ thị trường, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Khi điều chỉnh giá thì không đồng thời điều chỉnh thỏa đáng tiền lương, cũng không điều chỉnh, sửa đổi chính sách và cơ chế về tài chính - tiền tệ một cách tương ứng. Nhìn chung, việc điều chỉnh giá - lương - tiền cũng như toàn bộ công tác kế hoạch hóa và quản lý chưa thoát ra khỏi cơ chế quan liêu, bao cấp.

Rõ ràng là, công tác chỉ đạo và điều hành giá - lương - tiền cũng như cơ chế quản lý kinh tế nói chung không nhạy bén, không sâu sát và kiên quyết, thiếu sự nhất trí trong tư tưởng và hành động, do đó vừa có tình trạng tập trung quan liêu là chủ yếu, lại vừa có tình trạng buông lỏng, phân tán, kỷ luật và pháp luật nhà nước không nghiêm, nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng.

PHẦN THỨ HAI

MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ GIÁ - LƯƠNG - TIỀN

Căn cứ vào tình hình nói trên và nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra, việc giải quyết các vấn đề giá - lương - tiền phải nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

1. Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần), khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành, nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, nhằm phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

2. Ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên chức là lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối, lưu thông, làm chủ thị trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.

3. Góp phần tạo dần nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

4. Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và tập thể, phát triển kinh tế gia đình.

5. Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá hoại; đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.

Quan liêu bao cấp là căn bệnh của toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, đặc biệt trên các lĩnh vực giá cả, tiền - lương, tài chính, tín dụng, thương nghiệp. Cho nên, lúc này xóa quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hóa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cả nước.

Nội dung xóa quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền hiện nay chủ yếu là:

1. Tính đủ chi phí hợp lý vào giá thành sản phẩm, giá cả phải bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thỏa đáng và Nhà nước từng bước có tích lũy; xóa bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý.

Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá, khắc phục tình trạng "thả nổi" giá cả cũng như việc định giá và quản lý giá cứng nhắc.

Thực hiện đúng đắn việc phân công, phân cấp trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hóa chủ yếu có tính toàn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về những vật tư và hàng hóa có tính địa phương. Trên cơ sở phân công, phân cấp hợp lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.

2. Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc dân.

Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, thực hiện phân phối theo lao động.

Thực hiện trả lương bằng tiền có quỹ hàng hóa bảo đảm, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hóa.

Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước có tính đến sự khác biệt hợp lý giữa các vùng, các ngành; ưu đãi thỏa đáng các ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, có yêu cầu nghiệp vụ, kỹ thuật cao, các ngành giáo dục, y tế, văn hóa - nghệ thuật. Quán triệt chính sách ưu đãi đối với các lực lượng vũ trang.

3. Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa phương và đơn vị cơ sở, gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hóa và quản lý. Chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và cơ sở sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hóa. Tất cả các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xóa bỏ mọi khoản bù lỗ bất hợp lý của ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương) về các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời, và phải được xem xét thật nghiêm ngặt.

Xóa bỏ các khoản chi của ngân sách Trung ương và địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan, các khoản chi tiêu không đúng chế độ Nhà nước; xiết chặt kỷ luật tài chính, phấn đấu tích cực thực hiện cân bằng ngân sách trong thời gian ngắn; tạo điều kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu ổn định và phát triển; Trung ương không bao cấp cho địa phương.

4. Công tác tín dụng phải nhanh chóng chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế của đồng vốn làm tiêu chuẩn hàng đầu. Làm tốt các chức năng của ngân hàng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành, địa phương, cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Để làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, làm chủ phân phối - lưu thông, cần chủ động kế hoạch hóa phát hành; phấn đấu sớm chấm dứt lạm phát cho chi tiêu ngân sách.

5. Xét về quy mô và mức độ, đây là một cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền, một sự sắp xếp lại các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các địa phương, giữa Trung ương, địa phương và cơ sở, giữa các thành phần kinh tế, giữa tích lũy và tiêu dùng...; tức là liên quan đến cuộc sống của toàn dân, đến toàn bộ nền sản xuất xã hội, không phải chỉ đơn thuần là trong nội bộ kinh tế quốc doanh. Đặt vấn đề đó trong tình hình kinh tế đang trong quá trình chuyển biến, chưa ổn định, thì thấy cần phải làm ngay, làm tích cực, khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán kỹ lưỡng các phương án vững chắc gắn liền với việc xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới.

Các chủ trương và việc tổ chức thực hiện ngay trong mỗi bước phải đồng bộ, quán triệt quan điểm xóa bỏ quan liêu, bao cấp, phải dựa trên những phương án và kế hoạch hành động được tính toán chu đáo phù hợp với thực tế, không những dự kiến được mặt tích cực mà phải lường trước cả những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra để có biện pháp tích cực đề phòng và khắc phục.

Vì vậy, phải chống thái độ do dự, chần chừ hoặc nóng vội, giản đơn trong suy nghĩ và hành động.

PHẦN THỨ BA

NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP LỚN

I- VỀ GIÁ CẢ

Căn cứ vào những mục tiêu và phương hướng đã nói trên, việc điều chỉnh mặt bằng giá cả (bao hàm cả việc điều chỉnh các quan hệ tỷ giá) và cơ chế quản lý giá phải dựa trên các nguyên tắc sau đây:

- Xác định giá phải phù hợp với giá trị (mà thực thể là lượng lao động xã hội cần thiết) và với sức mua thực tế của đồng tiền.

Định giá phải trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu.

- Trong điều kiện nước ta từ sản xuất nhỏ còn phổ biến tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp còn là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá lúa làm chuẩn để tính toán các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá.

- Quản lý giá phải có phân công, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với tình hình thực tế.

1. Tính đúng và đủ các yếu tố chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm công nghiệp. Đồng thời, phải loại bỏ ngay các chi phí bất hợp lý, bất hợp lệ làm cho giá bị "vống lên" một cách giả tạo.

Trong vấn đề tính đúng và đủ giá thành sản phẩm, điều hết sức quan trọng là phải trị giá lại vật tư nhập khẩu (80 - 90% vật tư chủ yếu của ta là nhập khẩu). Muốn vậy, cần xác định đúng tỷ giá kết toán nội bộ trên cơ sở lấy giá trị dân tộc và quan hệ trong nước làm chính, chủ động phản ánh giá cả quốc tế vào hệ thống giá nội địa thông qua tỷ giá kết toán nội bộ. Tỷ giá kết toán mới phải bảo đảm kinh doanh xuất - nhập khẩu bình thường có lãi; phải sát thực tế, trên cơ sở tổ chức lại, hình thành từng bước cơ cấu xuất - nhập khẩu có hiệu quả ngày càng cao và tăng cường quản lý xuất - nhập khẩu theo đúng nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương và Nhà nước thống nhất quản lý ngoại hối, chống cạnh tranh mua bán đẩy giá vốn xuất lên; có chính sách đúng đắn về thu bù chênh lệch ngoại thương và thực hiện thuế xuất - nhập khẩu.

Tỷ giá kết toán mới phải khắc phục tình trạng bù lỗ xuất khẩu tràn lan (trừ bộ phận trợ giá hàng xuất theo chính sách), phải bảo đảm vật tư, hàng hóa nhập khẩu bán trong nước thu đủ vốn mua hàng xuất để tái tạo và phát triển vốn xuất khẩu, Nhà nước nói chung không lỗ. Phần vốn các nước anh em viện trợ và cho vay phải xem là một nguồn vốn đầu tư vào xây dựng cơ bản và dự trữ Nhà nước.

Phân biệt tỷ giá hối đoái đồng rúp và đồng đôla với đồng tiền của ta. Tỷ giá đồng đôla phải được tính toán và chỉ đạo tương đối linh hoạt. Tỷ giá hối đoái phải do Nhà nước Trung ương định, có điều chỉnh từng thời kỳ cho phù hợp; các ngành, các cấp không được tự tiện thay đổi. Trong kinh doanh ngoại thương cần chuyển sang cơ chế kết hối ngoại tệ qua ngân hàng dựa vào hệ thống tỷ giá kết toán mới; thực hiện mua ngoại tệ khi nhập khẩu và bán ngoại tệ sau khi xuất khẩu.

Đối với xuất - nhập khẩu trực tiếp của các địa phương, phải có cơ chế chỉ đạo tỷ giá tương đối linh hoạt, khuyến khích các địa phương mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất - nhập; nhưng địa phương phải chấp hành đúng chính sách giá của Nhà nước, chế độ phân cấp quản lý giá, và phải thực hiện đúng giá và khung giá do Trung ương quy định.

2. Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên cơ sở giá thành tính đủ chi phí, có lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể hiện chính sách kinh tế của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho Nhà nước.

Giá bán buôn công nghiệp đối với vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng phải thể hiện chính sách tích lũy và tiêu dùng của Đảng và Nhà nước: đối với tư liệu sản xuất, Nhà nước không thu quốc doanh hoặc thu có mức độ (đặc biệt đối với tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp Nhà nước không thu quốc doanh, cá biệt có thể còn bù lỗ, xem như một chính sách đầu tư cho nông nghiệp); đối với hàng công nghiệp tiêu dùng, Nhà nước có thu quốc doanh thỏa đáng tùy theo loại hàng. Nhìn chung, việc điều chỉnh giá bán buôn không được làm giảm nguồn thu của Nhà nước mà phải làm cho công nghiệp và Nhà nước ngày càng có thu tài chính lớn hơn. Điều chỉnh giá bán buôn sẽ dẫn đến kết quả Trung ương thu lại phần "chênh lệch giá" lâu nay địa phương và cơ sở hưởng do Trung ương cung cấp vật tư, năng lượng theo giá thấp.

Giá bán vật tư hàng hóa nhập khẩu phải phù hợp với các quan hệ giá cả và chính sách giá trong nước; đồng thời, khuyến khích sản xuất vật tư trong nước thay thế hàng nhập khẩu và sử dụng tiết kiệm vật tư nhập khẩu.

Trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh những vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng chủ yếu, Nhà nước Trung ương định giá thống nhất cho những loại hàng này (một số mặt hàng có chênh lệch mức độ theo vùng).

Phải tính đủ trong giá thành sản phẩm các chi phí về tiền lương, khấu hao tài sản cố định và giá trị vật tư, nhất là vật tư nhập khẩu, bảo đảm lợi nhuận thỏa đáng cho các đơn vị sản xuất - kinh doanh và tích lũy cần thiết cho Nhà nước, điều chỉnh giá bán hàng công nghiệp lên cho sát giá trị, nhưng phải xử lý chặt chẽ các yếu tố hình thành nên mức giá mới để nói chung nền kinh tế và xã hội chấp nhận được. Có thể có một số loại hàng hóa Nhà nước chủ động điều chỉnh lên cho phù hợp với giá vốn mới, nhưng không thể một lúc đưa đồng loạt giá bán lẻ của Nhà nước vượt lên trên giá thị trường với mức độ lớn. Vì làm như vậy sẽ dẫn đến những hệ quả hết sức phức tạp đối với sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và cơ sở, đối với đời sống và các mặt kinh tế, xã hội. Do vậy, phải quán triệt các nguyên tắc và chủ trương nêu ở phần trên, xác định một cách đúng đắn các yếu tố V, C1, C2, đặc biệt là tỷ giá kết toán - yếu tố rất quan trọng trong việc xác định mặt bằng giá mới và tỷ giá công - nông.

Tỷ giá kết toán phải được tính trên cơ sở thu mua chủ yếu theo hợp đồng kinh tế với giá cả hợp lý, người sản xuất bù đắp được chi phí và có lãi thỏa đáng, theo tỷ giá công - nông đúng đắn; đối với hàng công nghiệp xuất khẩu phải trên cơ sở tổ chức sản xuất và lưu thông hợp lý; sản xuất hàng xuất khẩu có chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, việc tổ chức quản lý xuất - nhập khẩu phải được chấn chỉnh theo nguyên tắc xóa bỏ bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Nhất thiết phải sắp xếp lại sản xuất công nghiệp, sắp xếp lại công tác xuất - nhập khẩu cho có hiệu quả hơn, chấn chỉnh lưu thông, tính đúng định mức, loại bỏ chi phí sản xuất và chi phí lưu thông bất hợp lý và bất hợp lệ. Điều chỉnh tỷ giá kết toán lên cho phù hợp với tình hình kinh tế - tài chính và sức mua của đồng tiền, khuyến khích xuất khẩu, nhưng nhất định không chấp nhận giá và tỷ giá bị "vống" lên do tranh mua, tranh bán, xuất - nhập khẩu với bất cứ giá nào. Cùng với việc tính lại giá bán buôn, đi vào hạch toán kinh tế, phải xử lý một loạt vấn đề về cơ cấu và tổ chức sản xuất, quản lý, ở tầm kinh tế quốc dân cũng như ở từng ngành và từng cơ sở theo quan điểm triệt để xóa bỏ bao cấp, thực hiện kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đối với những xí nghiệp và sản phẩm bị lỗ, phải xem xét lại mặt hàng, nếu cần thì phải chuyển hướng sản xuất, thậm chí đóng cửa xí nghiệp. Phải sắp xếp hệ thống lưu thông (cung ứng vật tư, nội thương, ngoại thương...), xóa ngay các khâu trung gian không cần thiết, để hàng hóa có thể đi từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng (kể cả tiêu dùng trực tiếp và tiêu dùng cho sản xuất) bằng con đường ngắn nhất với giá cả hợp lý. Làm tốt các biện pháp trên cho phép tính tỷ giá kết toán và giá vật tư ở mức thỏa đáng mà vẫn không gây ra những đảo lộn lớn đối với sản xuất, kinh doanh, thị trường và giá cả.

3. Giá bán lẻ

Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hóa, có tính đến quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng, và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng và đối tượng tiêu dùng.

Hàng công nghiệp tiêu dùng nói chung phải có tích lũy thỏa đáng cho ngân sách, trừ một vài mặt hàng thiết yếu thì tích lũy ít hoặc không tích lũy; đối với một số mặt hàng thuộc loại cơ bản, thiết yếu nhất, Nhà nước không tích lũy, thậm chí có thể bù lỗ theo chính sách xã hội (ví dụ, thuốc chữa bệnh, sữa cho trẻ em, sách giáo khoa...).

Theo chính sách như trên, trên cơ sở nắm hàng và làm chủ thị trường, thực hiện Nhà nước độc quyền kinh doanh và thống nhất quản lý, Nhà nước thực hiện nhất quán cơ chế một giá bán lẻ; Trung ương định một giá kinh doanh thống nhất cho những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu (có những mặt hàng Trung ương định giá khung), có phân biệt thỏa đáng về mức giá theo vùng, nhất là về lương thực - thực phẩm, và một số loại vật tư, hàng hóa đòi hỏi vận chuyển xa, chi phí vận tải lớn.

Giá bán lẻ hàng công nghiệp để tính lương cơ bản phải thống nhất cả nước. Giá một số sản phẩm lương thực, thực phẩm như gạo, thịt, v.v. tính theo vùng có mức giá thấp nhất. Mức chênh lệch giữa giá bán lẻ lương thực, thực phẩm ở các vùng khác cao hơn giá tính lương cơ bản được xử lý bằng cách tính vào khoản phụ cấp đắt đỏ theo khu vực. Để hạn chế tác động phức tạp do giá cả còn có thể biến động và để thực hiện việc kế hoạch hóa và hạch toán kinh tế, cần ổn định giá bản lẻ tính lương trong một thời gian nhất định và có quy định thống nhất cho các vùng trong cả nước. Khi tình hình đòi hỏi phải thay đổi, Nhà nước sẽ chủ động tính toán, điều chỉnh giá và lương cho phù hợp.

Việc thực hiện chính sách và cơ chế giá bán lẻ như trên đòi hỏi tính toán và cân đối quỹ hàng hóa trên từng địa phương và khu vực, cân đối với quỹ tiền đưa ra; nhất thiết không "thả nổi" công nhân, viên chức để thị trường điều tiết thu nhập của họ; phải cải tạo và quản lý chặt chẽ thị trường tự do, xóa đầu cơ, buôn lậu. Phải xiết chặt kỷ luật nhà nước về tài chính và giá cả đối với tất cả các tổ chức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nhất là thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán; nghiêm trị mọi hành vi tăng giá trái phép.

4. Xác định giá mua nông sản trên cơ sở tính lại giá thành, bảo đảm cho người sản xuất bù lại đủ chi phí, có lãi hợp lý. Tỷ lệ lợi nhuận trong nông nghiệp ở mức 40 - 50% tính trên chi phí lao động.

Chính sách giá mua nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường lối phát triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, thể hiện quan hệ công - nông cùng làm chủ, quan hệ tích lũy - tiêu dùng đúng đắn, làm cho cả công nghiệp và nông nghiệp đều phát triển và đóng góp đúng mức cho Nhà nước, đời sống nông dân, công nhân đều được cải thiện và có tương quan thỏa đáng.

Nông sản nói chung, đặc biệt lúa, là sản phẩm chung của nông dân và công nhân; giá thành nông sản bao hàm cả những yếu tố của bản thân nông nghiệp và của công nghiệp; giá nông sản bao hàm nội dung quan hệ công - nông. Cho nên, giá thành nông sản phải được tính toán căn cứ vào những yếu tố năng suất tự nhiên, hao phí lao động của nông dân và giá công nghệ phẩm (cả vật tư và hàng tiêu dùng thiết yếu).

Để tính đủ giá thành nông sản, chi phí các vật tư chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp do Nhà nước cung ứng (của Trung ương cũng như địa phương) được tính theo giá mới ổn định từng thời kỳ (tính đủ chi phí sản xuất và lưu thông). Phần vật tư nông dân tự lo (không phải hàng Nhà nước tuồn ra ngoài) tính theo giá thực tế. Muốn có giá thành nông sản hợp lý và tương đối ổn định, phải tập trung hàng công nghiệp (nhất là tư liệu sản xuất) để cung ứng cho nông dân thông qua hợp đồng kinh tế, không để tình trạng hiện nay là Nhà nước chỉ bảo đảm 40 - 50% vật tư cho nông dân sản xuất, còn lại họ phải mua trên thị trường (phần quan trọng cũng là hàng Nhà nước thống nhất quản lý như xăng, dầu, phân bón... bị lọt ra ngoài).

Tiền công trong giá thành sản phẩm nông nghiệp tùy thuộc vào giá trị ngày công tính trên cơ sở số ngày công trên 1ha, năng suất và sản lượng trên 1ha, trừ hao phí vật chất và thuế phải nộp; thu nhập của nông dân, kể cả kinh tế gia đình, cần xác định tương đương với thu nhập của công nhân nông trường (tính theo vùng). Giá trị ngày công cũng phụ thuộc nhiều vào giá bán lẻ hàng công nghiệp tiêu dùng của Nhà nước.

Đối với những vùng điều kiện thiên nhiên không thuận lợi (đất đai, thời tiết...) và cơ sở vật chất - kỹ thuật thấp kém, đời sống còn nhiều khó khăn, Nhà nước có chính sách giá mua cao hơn, đi đôi với chính sách đầu tư.

Đối với những vùng có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, cần có chính sách thu một phần địa tô chênh lệch I vào Nhà nước thông qua chính sách giá và thuế.

Giá mua nông sản phẩm phải khuyến khích các sản phẩm chủ yếu ở những vùng mà Nhà nước có quy hoạch tạo vùng chuyên canh, khuyến khích các vùng kinh tế mới và khuyến khích thâm canh, tăng vụ; đặc biệt chú trọng những vùng chuyên trồng lúa.

Muốn định giá mua nông sản hợp lý theo vùng, trước tiên phải tính đúng giá thành theo vùng, có tham khảo giá thị trường từng vùng và đặt trong mối quan hệ đúng đắn giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông dân và công nhân. Giá đó phải tính đủ giá trị và trao đổi "ngang giá" với hàng công nghệ của Nhà nước.

Để định giá mua nông sản trên cơ sở tính đủ và tính đúng giá trị, thực hiện trao đổi sản phẩm công - nông theo nguyên tắc ngang giá, phải xử lý quan hệ tỷ giá công - nông một cách đúng đắn. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và cũng rất phức tạp.

Thực tế mấy năm gần đây chỉ rõ, ta chỉ giữ được tỷ giá trao đổi một số sản phẩm như phân bón hóa học, xăng dầu, v.v. lấy lúa; còn lại các sản phẩm khác thì Nhà nước (nhất là Trung ương) hoặc là giữ giá hoặc là tăng giá vật tư và hàng công nghiệp tiêu dùng không kịp với tốc độ tăng giá mua, đặc biệt là giá mua thỏa thuận bằng tiền (chiếm tỷ trọng 30 - 40% thu mua lúa và 80 - 90% thu mua sản phẩm chăn nuôi và cây công nghiệp) làm cho tỷ giá công - nông trở nên bất hợp lý và bị rối loạn. Tình hình trên làm cho sự mất cân đối công - nông vốn gay gắt về hiện vật lại thêm khó khăn về tài chính. Nếu điều chỉnh lại giá và tỷ giá công - nông thì quỹ hàng công nghiệp của Nhà nước không đến nỗi mất cân đối lớn với khối lượng mua nông sản như hiện nay. Từ cuối năm 1984, việc chuyển hàng tiêu dùng sang bán theo giá kinh doanh thương nghiệp đã góp phần điều chỉnh một mức độ nhất định quan hệ giá trị giữa hàng công nghiệp và nông sản phẩm, nhưng chưa khắc phục được hoàn toàn tình trạng bất hợp lý về tỷ giá công - nông, không bảo đảm cho công nghiệp có lãi cần thiết để tái sản xuất mở rộng, thậm chí nhiều ngành công nghiệp và vận tải lỗ lớn.

Mặt khác, cũng phải khắc phục ngay tình trạng buông lỏng cải tạo và quản lý thị trường, quản lý nội bộ khu vực kinh tế quốc doanh, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, "phết phẩy" qua nhiều khâu, đẩy giá lên một cách giả tạo, vừa xâm phạm lợi ích của nông dân, vừa làm thiệt hại tài chính nhà nước, làm sai lệch quan hệ tỷ giá - công - nông. Không ít trường hợp nông dân "kêu" vì không được mua hàng đúng giá và tỷ giá do Nhà nước quy định.

Trong việc xử lý quan hệ công - nông, quan hệ tích lũy - tiêu dùng, để xóa bao cấp, phải đưa thêm vào giá thành sản phẩm công nghiệp hàng chục tỷ đồng và điều chỉnh giá bán buôn, cước vận tải lên nhiều lần so với hiện nay. Đối với kinh tế quốc doanh, việc tăng giá bán buôn chủ yếu là hạch toán nội bộ; nhưng đối với kinh tế tập thể và kinh tế cá thể thì nó sẽ có tác động phức tạp. Vì giá mới của hàng công nghiệp và vật tư nông nghiệp tăng lên cho nên phải xác định quan hệ tỷ giá mới hợp lý giữa hàng công nghiệp và nông sản, trên cơ sở tính đúng và đủ chi phí sản xuất và lợi nhuận thỏa đáng cho cả công nghiệp lẫn nông nghiệp.

Đồng thời, phải tổ chức lại sản xuất công nghiệp, tổ chức vận tải và hệ thống lưu thông, tăng cường quản lý, xiết chặt định mức, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất để có giá sản phẩm công nghiệp hợp lý, vừa bù đắp được chi phí, vừa có tích lũy cần thiết cho Nhà nước, đồng thời xã hội có thể chấp nhận được.

Phải tăng cường thâm canh trong nông nghiệp, phát triển ngành, nghề ở nông thôn; đồng thời, phải phân bố lại lực lượng lao động, để tăng tỷ suất hàng hóa trao đổi lấy hàng công nghiệp; qua đó mà mở rộng thị trường trong nước, kích thích sản xuất cả công nghiệp lẫn nông nghiệp.

Phải tổ chức lại các hệ thống vật tư, thương nghiệp, tín dụng, vận tải, v.v. bảo đảm sự trao đổi sản phẩm trực tiếp giữa nông dân và các tổ chức kinh tế nhà nước chủ yếu thông qua hợp đồng kinh tế theo giá và tỷ giá do Nhà nước quy định; cấm tư nhân buôn bán các sản phẩm quan trọng mà Nhà nước thống nhất quản lý.

Thực hiện ngay việc Nhà nước thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh lương thực và các nông sản chủ yếu. Thực hiện cơ chế một giá mua thống nhất (có phân biệt theo vùng và được điều chỉnh theo từng vụ sản xuất) trên cơ sở thỏa thuận giữa Nhà nước và nông dân. Thông qua hợp đồng kinh tế, Nhà nước nắm hầu hết lương thực, hàng hóa và đại bộ phận nông sản hàng hóa chủ yếu khác. Giá mua lúa do Bộ Chính trị phê chuẩn.

5. Cơ chế quản lý giá

Phải thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (Trung ương và địa phương) quy định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định giá trên cơ sở làm chủ kế hoạch sản xuất, phân phối, lưu thông đối với những sản phẩm quan trọng, cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.

Thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý giá giữa các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương. Giá những vật tư quan trọng, giá mua những nông, lâm, hải sản chủ yếu, giá bán những hàng tiêu dùng thiết yếu phải do Trung ương quy định thống nhất cho cả nước (có phân biệt theo vùng); có mặt hàng Trung ương quy định khung giá để địa phương vận dụng cho phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Đối với những hàng hóa có tính địa phương thì giá cả do chính quyền địa phương hoặc cơ sở sản xuất quyết định.

Sau khi đã tính lại giá thành và định hệ thống giá mới, thực hiện phân công, phân cấp hợp lý, phải xiết chặt kỷ luật giá; mọi sự thay đổi giá phải trong khuôn khổ của pháp luật nhà nước.

II- VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG

Chính sách tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, xóa bỏ bao cấp, từng bước khắc phục tính chất bình quân, chênh lệch bất hợp lý, phải nhằm ổn định và từng bước cải thiện đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang; phải khôi phục lại trật tự về tiền lương, tiền thưởng trong phạm vi cả nước.

1. Cơ sở để giải quyết vấn đề tiền lương và đời sống là phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, cải tạo và phát huy năng lực các thành phần kinh tế. Bởi vậy, phải có phương án và biện pháp đẩy mạnh sản xuất và tăng năng suất, mở mang ngành, nghề, kể cả dịch vụ, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, để có quỹ hàng hóa đủ bảo đảm mức sống hợp lý. Trên cơ sở phát triển sản xuất, Nhà nước phải nắm tuyệt đại bộ phận lực lượng hàng hóa trong xã hội để phân phối một cách có kế hoạch và theo chính sách.

Yêu cầu cấp bách là bảo đảm lực lượng hàng hóa cần thiết cho các địa bàn trọng điểm, nhất là các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung và vùng biên giới phía Bắc. Để giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm là yêu cầu bức thiết nhất hiện nay, cần thực hiện các biện pháp sau đây:

- Đẩy mạnh sản xuất, thâm canh, tăng vụ; tăng cường đầu tư cho các vùng trọng điểm sản xuất lương thực, chú trọng tăng nhanh lương thực hàng hóa ở miền Bắc để đáp ứng nhu cầu tại chỗ với mức độ cao hơn.

- Thực hiện chính sách Nhà nước độc quyền kinh doanh và thống nhất quản lý lương thực, tập trung tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa vào tay Nhà nước trên cơ sở giải quyết thỏa đáng vấn đề đầu tư, cung ứng vật tư, phân phối hàng tiêu dùng thiết yếu và giá cả.

- Giải quyết tốt vấn đề vận tải, nhất là vận tải Nam - Bắc.

- Kết hợp xuất - nhập đổi hạt với xuất khẩu một phần lương thực để nhập thêm vật tư cần thiết cho sản xuất lương thực, bảo đảm cân đối lương thực vững chắc.

Để có nguồn thực phẩm chủ động, cần nhanh chóng phát triển các vành đai thực phẩm chung quanh các thành phố lớn và khu công nghiệp tập trung. Chú trọng phát triển các cơ sở chăn nuôi quốc doanh, mở rộng hình thức quốc doanh gia công cho các hợp tác xã và gia đình để nắm được nguồn thực phẩm hàng hóa chủ động, đáp ứng nhu cầu tại chỗ, giảm bớt chi phí vận tải và hao hụt.

2. Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động (kể cả phần nuôi người ăn theo). Trong điều kiện lực lượng hàng hóa và nguồn vốn tài chính của Nhà nước hiện nay, cần thực hiện yêu cầu này từng bước; nhưng ngay trong bước đầu tiên, tiền lương thực tế của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang phải được cải thiện so với hiện nay.

Với mức chi tiêu về ăn chiếm khoảng 70%, tiền lương tối thiểu phải bảo đảm cung cấp ít nhất 2.000 calo/ngày cho người lao động. Căn cứ vào mức nhu cầu đã được xác định như trên, tính lại tiền lương tối thiểu theo mặt bằng giá mới, lấy đó làm cơ sở để tính hệ thống lương cơ bản thống nhất cho cả nước.

Trong tình hình hiện nay cần giữ mức chênh lệch giữa các thang lương, bảng lương với hệ số lương trung bình bằng 1,3 lần và lương cao nhất bằng 3,5 lần lương tối thiểu. Khi nào có nguồn tài chính khá hơn, sẽ mở rộng dần chênh lệch giữa các bậc lương.

3. Xóa bỏ giá cung cấp quá thấp hiện nay, tính lại tiền lương danh nghĩa theo giá bán lẻ mới và trả lương bằng tiền

Tiền lương cơ bản theo ngành, nghề và cấp bậc công việc được quy định thống nhất cho cả nước, căn cứ vào giá nhà nước ở vùng có giá sinh hoạt thấp nhất.

 Ngoài tiền lương cơ bản còn có những khoản phụ cấp như sau: phụ cấp khu vực do Trung ương quy định cho những vùng có nhiều khó khăn (miền núi, biên giới, hải đảo...) cần thu hút nhiều lao động đến; phụ cấp đắt đỏ do Trung ương quy định thống nhất cho từng vùng, tùy theo chênh lệch giữa mức giá tính lương cơ bản với mức giá bán lẻ Nhà nước định theo vùng và chỉ số sinh hoạt từng quý.

Tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ và các khoản phụ cấp khác (theo chế độ quy định) được hạch toán vào quỹ lương và vào giá thành sản phẩm.

Ở những địa phương nào, tình hình cung - cầu đối với một số mặt hàng chủ yếu (lương thực, chất đốt và một vài mặt hàng thực phẩm thiết yếu) còn căng thẳng, thì tạm thời còn phải dùng sổ hoặc phiếu mua hàng để bảo đảm cung cấp theo định lượng.

Từ nay, các ngành, các cấp và cơ sở không được tùy tiện định ra các chế độ phụ cấp bằng tiền hoặc hiện vật ngoài quy định của Nhà nước.

4. Điều kiện bảo đảm thực hiện chế độ tiền lương mới có hiệu quả là bố trí đủ quỹ hàng và quỹ tiền, đồng thời, Nhà nước làm chủ thị trường và giá cả, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa tổ chức tốt việc lưu thông hàng hóa, ổn định từng bước sức mua của đồng tiền.

Đồng thời với việc giải quyết vấn đề tiền lương, các xí nghiệp và cơ quan nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích phát triển kinh tế gia đình dưới các hình thức thích hợp (chăn nuôi, trồng trọt, thủ công nghiệp, làm gia công...) để công nhân, viên chức có thêm thu nhập chính đáng.

III- VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ

1. Điều chỉnh giá - lương tác động rất lớn đến tài chính và ngân sách nhà nước, làm cho tài chính và ngân sách nhà nước phản ánh đúng đắn và chân thực hơn hiệu quả của nền sản xuất xã hội của ta (bao gồm cả trong sản xuất và trong phân phối, lưu thông). Đây chính là một cơ sở rất tốt để tiến lên xây dựng chính sách tài chính quốc gia phù hợp với chặng đường phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta.

Điều chỉnh giá sẽ làm thay đổi lớn tổng mức và cơ cấu của tài chính nhà nước (nhất là của ngân sách) và các mối quan hệ giữa Nhà nước và đơn vị sản xuất - kinh doanh, giữa Trung ương và địa phương, giữa Nhà nước với dân cư. Đi đôi với việc thay đổi tỷ giá kết toán nội bộ và điều chỉnh giá, Nhà nước cần quản lý tài chính chặt chẽ, tăng thu, tiết kiệm chi một cách nghiêm ngặt mới có đủ nguồn vốn đáp ứng các yêu cầu chi tiêu cần thiết tăng lên; tích cực phấn đấu sớm thực hiện cân bằng ngân sách và chấm dứt phát hành cho chi tiêu ngân sách.

Cụ thể là:

- Trên cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành và phí lưu thông mà tính toán kỹ và nắm chắc nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

- Tăng cường kỷ luật tài chính, kỷ luật giao nộp đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Cải tiến chế độ thu quốc doanh mang tính chất bao cấp hiện nay (Nhà nước thu đủ, chi đủ), bảo đảm nguồn thu ổn định của Nhà nước, không phụ thuộc vào giá thành thực tế của xí nghiệp.

- Rà soát lại chính sách thuế, điều chỉnh mức thuế, bổ sung các loại thuế mới.

- Soát xét lại chính sách tiêu dùng, xóa bỏ các chế độ chi tiêu mang nặng tính chất bao cấp, không phù hợp với khả năng tài chính của Nhà nước.

2. Điều chỉnh giá - lương theo hướng xóa bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở xác định và thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, làm cho giá cả, tiền lương, tài chính, tín dụng, v.v. phát huy tốt hơn các chức năng thước đo hiệu quả và đòn bẩy kích thích các đơn vị cơ sở phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh và buộc phải làm ăn có tính toán hiệu quả kinh tế.

Toàn bộ chế độ tài chính xí nghiệp (theo Nghị quyết số 156-HĐBT) cần được xem xét lại và sửa đổi cho phù hợp với mặt bằng giá - lương mới và quán triệt tinh thần xóa bao cấp, khuyến khích người sản xuất đi vào kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi xí nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả thì mới có lãi và mới có điều kiện phát triển.

Chuyển đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp sang hình thức tín dụng, đồng vốn bỏ ra nhất thiết phải đem lại hiệu quả kinh tế cần thiết.

Sau khi điều chỉnh giá nhà nước, các xí nghiệp phải hạch toán lại giá thành và doanh lợi, phản ánh đúng đắn hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Những trường hợp lỗ theo chính sách thì Nhà nước bù; những trường hợp lỗ do quản lý kém, làm ăn với bất cứ giá nào, thì phải tìm biện pháp sắp xếp lại sản xuất, chấn chỉnh quản lý để tăng năng suất, hạ giá thành, giảm bớt lỗ và tiến lên có lãi; nếu không thì buộc phải chuyển hướng sản xuất hoặc chuyển thành hợp tác xã, hoặc giải thể.

3. Điều chỉnh giá - lương lần này tác động lớn đến mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Nguồn thu của ngân sách địa phương sẽ giảm đi (vì đại bộ phận chênh lệch giá - giữa giá vật tư Nhà nước cung cấp và giá kinh doanh thương nghiệp ở địa phương - không còn nữa), trong khi các yêu cầu chi lại tăng lên (thí dụ chi cho tiền lương). Do đó, Nhà nước cần xem xét lại các tỷ lệ điều tiết cho ngân sách địa phương để bảo đảm các nhu cầu chi tiêu cần thiết trên tinh thần triệt để tiết kiệm.

Chế độ phân cấp quản lý ngân sách giữa Trung ương và địa phương phải được giải quyết trên quan điểm ba cấp cùng làm chủ, bảo đảm sự nhất trí giữa các loại lợi ích (xã hội - tập thể - cá nhân), tạo điều kiện và buộc các địa phương phấn đấu tối đa khai thác các tiềm năng của địa phương để tăng nguồn thu đáp ứng các nhu cầu của mình. Trung ương sẽ không bao cấp đối với địa phương.

4. Áp dụng đồng bộ các loại biện pháp để thu hút tiền nhàn rỗi, đẩy nhanh tốc độ vòng quay đồng tiền, nắm và kiểm soát lượng tiền mặt trong lưu thông:

- Chuyển hoạt động của ngân hàng sang cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

- Cải tiến chế độ gửi tiền tiết kiệm, chính sách công trái, xổ số.

- Cải tiến chính sách lãi suất tiền gửi và tín dụng.

- Tăng cường chế độ mở tài khoản và gửi tiền ở ngân hàng đối với các hợp tác xã và hộ sản xuất, kinh doanh.

- Khai thác tồn kho, đẩy mạnh bán ra để thu tiền về.

- Mở rộng hoạt động của các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân.

- Tăng cường kỷ luật sử dụng tiền mặt trong khu vực Nhà nước và kinh tế quốc doanh, hạn chế "tọa chi".

PHẦN THỨ TƯ

TỔ CHỨC VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

Điều chỉnh giá - lương - tiền phải theo đúng đường lối, chính sách, thể hiện trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Hội đồng Bộ trưởng và phải được tổ chức và chỉ đạo chặt chẽ để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, khai thác các tiềm năng ở cơ sở, địa phương, ngành, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống và tăng tích lũy cho Nhà nước. Thực tiễn điều chỉnh một bộ phận giá - lương ở các địa phương và cơ sở trong thời gian vừa qua theo phương hướng của Nghị quyết các Hội nghị lần thứ 6 và lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho phép rút ra những kinh nghiệm tốt bổ sung cho việc nghiên cứu phương án và chuẩn bị tổ chức thực hiện điều chỉnh giá - lương - tiền trong cả nước. Cuộc sống đòi hỏi bức thiết phải điều chỉnh giá - lương - tiền gắn với điều chỉnh và sắp xếp lại sản xuất, tạo động lực đẩy sản xuất lên. Nhưng cũng phải nhận rõ tình hình kinh tế - tài chính trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn:

- Trình độ sản xuất và quy mô xuất - nhập khẩu với năng suất, chất lượng, hiệu quả hiện nay quá thấp.

- Quỹ hàng trong tay Nhà nước chưa đáp ứng vững chắc nhu cầu tăng lương và cải thiện một bước đời sống công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang, cũng như yêu cầu đối lưu với nông dân để thu mua nông sản.

- Nguồn tài chính của Nhà nước hết sức ngặt nghèo, bội chi và lạm phát chưa chấm dứt ngay được.

- Công tác cải tạo và quản lý thị trường tuy có tiến bộ, nhưng chưa chuyển biến cơ bản, tư nhân vẫn còn nắm một bộ phận quan trọng hàng hóa và tiền mặt.

- Tổ chức và bộ máy quản lý, đặc biệt là quản lý phân phối, lưu thông (vật tư, nội thương, ngoại thương...) còn nhiều bất hợp lý, vừa quan liêu, bao cấp vừa thiếu trật tự và kỷ luật, hiệu lực quản lý thấp.

Do vậy, phải kiên quyết điều chỉnh giá - lương - tiền theo chủ trương nêu ở trên, song, phải xác định các chủ trương, biện pháp cụ thể lựa chọn phương án thích hợp để thực hiện điều chỉnh có kết quả vững chắc đạt các mục tiêu đề ra.

1. Trước mắt, phải tiếp tục hoàn chỉnh các phương án trên cơ sở tính toán tổng hợp kinh tế quốc dân. Khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để có thể bắt đầu thực hiện trong thời gian từ nay đến cuối năm.

Do tính chất nhạy cảm và công phạt đối với sản xuất, lưu thông và đời sống, việc điều chỉnh giá - lương phải được cân nhắc kỹ trên tổng thể, cũng như phải tính toán kỹ với các cơ sở, địa phương, ngành về các sản phẩm quan trọng để xác định mức và phạm vi tăng giá; rà soát kỹ quan hệ giữa giá bán buôn, giá thu mua, giá bán lẻ, không để có những sai khớp lớn trong tính toán cũng như khi thực hiện.

2. Việc chuẩn bị lực lượng (hàng hóa, tiền, làm chủ thị trường, tăng cường bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ...) là rất cần thiết và có ý nghĩa quyết định.

Phải khẩn trương sắp xếp lại sản xuất ở từng ngành, địa phương và cơ sở.

Cần xác định trách nhiệm của tất cả các ngành (từ các bộ quản lý sản xuất, lưu thông đến các cơ quan tổng hợp), các cấp chính quyền trong việc bảo đảm lực lượng hàng và tiền, nghiêm túc và trung thực trong tính toán và thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về điều chỉnh giá - lương. Đặc biệt, các bộ Nội thương, Lương thực cùng các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chuẩn bị kỹ lực lượng hàng hóa, hết sức chú trọng việc tập trung hàng hóa cho các địa bàn trọng điểm (thành phố, khu công nghiệp...), Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phải chuẩn bị và phân phối đủ tiền mặt và vốn cho các địa phương và cơ sở.

Phải tổ chức, sắp xếp lại ngay hệ thống lưu thông vật tư, hàng hóa, tăng cường hệ thống vận tải, phát triển mạnh mẽ và rộng khắp thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, làm chủ thị trường... Ngay từ bây giờ, cần ráo riết tăng cường quản lý thị trường, tăng cường quản lý thu thuế công thương nghiệp, tăng cường quản lý giá, ráo riết truy quét và trừng trị bọn đầu cơ, nâng giá, phao tin đồn nhảm gây rối thị trường.

Cần rà soát lại đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trên lĩnh vực phân phối, lưu thông: kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hóa, tham ô, vô trách nhiệm; lựa chọn và bố trí cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, phù hợp với cơ chế mới.

3. Cuộc điều chỉnh phân phối, lưu thông có ý nghĩa và tác động không những đối với kinh tế mà còn đối với đời sống chính trị của toàn xã hội.

Vì vậy, các cấp lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở phải coi việc thực hiện cuộc điều chỉnh này là công tác trung tâm đột xuất, quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản, thực hiện tốt các yêu cầu, chủ trương, biện pháp điều chỉnh giá - lương - tiền.

Cần phải quản lý hết sức chặt chẽ và giữ bí mật khi chuẩn bị các phương án cụ thể. Khi thực hiện, phải tổ chức tuyên tuyền, giải thích rộng rãi cho toàn Đảng, cho công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, mục tiêu, chủ trương điều chỉnh. Phát động phong trào quần chúng từ cơ sở làm chủ sản xuất và phân phối, lưu thông, nghiêm chỉnh thi hành các chính sách, pháp luật Nhà nước, ủng hộ Nhà nước thực hiện tốt các chủ trương điều chỉnh, đấu tranh chống tiêu cực, chống địch phá hoại.

4. Trên cơ sở các phương án sẽ được Bộ Chính trị thông qua, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng phải vạch ra một chương trình hành động chặt chẽ và điều hành các ngành, các cấp thực hiện một cách kiên quyết, thống nhất, đồng bộ và rất có kỷ luật.

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trên đây, chúng tôi đã trình bày nội dung chủ yếu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này về giá - lương - tiền là sự đúc kết kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua trên lĩnh vực này, là sự chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách của Đảng ta không những về giá cả, tiền lương, mà cả về tài chính, tiền tệ, thương nghiệp, cơ chế kế hoạch hóa và quản lý, nhằm triệt để xóa bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển lên một bước mới.

Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, với Nghị quyết cực kỳ quan trọng này, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, nhân dân ta sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt tới những thắng lợi mới.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.