VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

 

BÁO CÁO
CỦA ỦY BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Do ông Trần Quang Huy, Chủ nhiệm Uỷ ban  pháp luật của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, ngày 21-6-1985)

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Dự thảo Bộ luật hình sự đã được Hội đồng Bộ trưởng trình ra Quốc hội thảo luận nhiều lần. Phần chung của Bộ luật đã được trình ra kỳ họp thứ 3 (tháng 6-1982), kỳ họp thứ 4 (tháng 12-1982) và đến kỳ họp thứ 5 (tháng 6-1983) thì được Quốc hội thông qua sơ bộ. Phần các tội phạm của Bộ luật đã được trình ra kỳ họp thứ 5 (tháng 6-1983), kỳ họp thứ 6 (tháng 12-1983) và đến kỳ họp thứ 7 (tháng 6-1984) thì được Quốc hội thông qua sơ bộ.

Cả hai phần của Bộ luật hình sự, sau khi Quốc hội thông qua sơ bộ, đã được công bố rộng rãi để nhân dân tham gia ý kiến. Mỗi lần được Quốc hội thảo luận và nhân dân tham gia ý kiến, Hội đồng Nhà nước đã cho chỉ thị, và dự thảo lại được chỉnh lý tốt hơn. Đến nay, sau kỳ trưng cầu ý kiến vào cuối năm 1984, đầu năm 1985, toàn bộ Dự thảo Bộ luật lại được Hội đồng Nhà nước xem xét, và Ủy ban pháp luật của Quốc hội đã cùng Ban Dự thảo Bộ luật hình sự của Hội đồng Bộ trưởng chỉnh lý một lần nữa. Thay mặt Ủy ban pháp luật của Quốc hội, tôi xin báo cáo với Quốc hội về toàn bộ Dự thảo Bộ luật hình sự, để Quốc hội xem xét và quyết định.

Báo cáo này gồm bốn phần:

I- Sự cần thiết phải ban hành Bộ luật hình sự.

II- Những vấn đề chính trong nội dung Dự thảo Bộ luật hình sự.

III- Việc lấy ý kiến của cán bộ và nhân dân về Dự thảo Bộ luật hình sự.

IV- Những việc cần làm sau khi Quốc hội thông qua chính thức Bộ luật hình sự.

I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Sau khi nước ta được thống nhất về mặt Nhà nước, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, tình hình mọi mặt của đời sống xã hội đã trải qua nhiều biến đổi sâu sắc. Sự phát triển của đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi đẩy mạnh công tác lập pháp, nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý xã hội và quản lý kinh tế, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước, góp phần thực hiện khẩu hiệu "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".

Quốc hội khóa VI - Quốc hội thống nhất của cả nước - tại kỳ họp đầu tiên (tháng 7-1976), đã quyết định xây dựng Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời giao cho Hội đồng Chính phủ (nay là Hội đồng Bộ trưởng) tổ chức việc hệ thống hóa pháp luật và soạn thảo những văn bản pháp luật cần thiết.

Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VI thông qua tại kỳ họp tháng 12 năm 1980.

Để thi hành Hiến pháp mới, trong phiên họp tháng 8 năm 1981, Hội đồng Nhà nước đã thông qua kế hoạch 5 năm xây dựng pháp luật 1981 - 1985, gồm 43 văn bản thuộc các ngành luật khác nhau, trong đó văn bản quan trọng nhất là Bộ luật hình sự.

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Nhưng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, nhiều quy định trước đây không còn phù hợp nữa. Những quy định còn hiệu lực thì nói chung có nhược điểm là thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, do mỗi văn bản ban hành riêng lẻ chỉ quy định một vài tội phạm hoặc một nhóm tội phạm. Không những thế, nhiều tội phạm và hình phạt không chỉ được quy định trong văn bản pháp luật hình sự, mà còn được quy định tản mạn trong các văn bản pháp luật về tổ chức hoặc về hành chính, do đó, việc nghiên cứu và vận dụng gặp nhiều khó khăn. Khá nhiều tội phạm trong thực tế đã xảy ra, nhưng chưa có văn bản nào quy định, khiến cho công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có phần bị hạn chế. Nhược điểm lớn nhất trong lĩnh vực pháp chế của ta là chính sách hình sự của Nhà nước, cơ sở chính trị - pháp lý để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, chưa được thể hiện một cách toàn diện.

Tiếp theo việc ban hành Hiến pháp 1980 và các đạo luật mới về tổ chức bộ máy nhà nước, việc ban hành Bộ luật hình sự quy định thống nhất và có hệ thống những nguyên tắc, chính sách hình sự, cùng những vấn đề cụ thể về tội phạm và hình phạt rõ ràng đã trở thành cấp bách.

Là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản nhằm bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, Bộ luật hình sự phải phục vụ đắc lực hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau khi được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta lại phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt và chiến tranh lấn chiếm ở biên giới phía Bắc do bọn bành trướng, bá quyền... chủ động gây ra để chống lại cách mạng Việt Nam. Bộ luật hình sự đương nhiên có nhiệm vụ tích cực góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và tăng cường sức mạnh quốc phòng của Tổ quốc ta.

Cách mạng Việt Nam đang ở trong chặng đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; một nhiệm vụ khác của Bộ luật hình sự là phải góp phần bảo đảm sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh diễn ra gay go, quyết liệt giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, việc bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật, phát triển cách mạng tư tưởng và văn hóa, tăng cường trật tự quản lý, rõ ràng đã trở thành nội dung rất quan trọng của Bộ luật hình sự.

Soạn thảo Bộ luật hình sự là một công việc lớn và mới mẻ đối với chúng ta, là một công trình nghiên cứu khoa học công phu và nghiêm túc. Trong công việc đó, chúng ta đã căn cứ vào đường lối của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng, vào chính sách hình sự của Nhà nước ta từ trước đến nay, vào việc tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng và chống tội phạm trong mấy chục năm qua. Đồng thời, chúng ta cũng đã nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý hình sự tiên tiến và tham khảo kinh nghiệm phong phú về xây dựng Bộ luật hình sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đến nay, nhờ công lao tập thể của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đạt được kết quả tốt trong công việc nói trên, làm cho Dự thảo Bộ luật hình sự, về cơ bản, thể hiện rõ tính cách mạng và tính khoa học. Do đó, nếu được Quốc hội thông qua chính thức, và sau này được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành, thì Bộ luật hình sự sẽ phát huy mạnh mẽ tác dụng to lớn trên nhiều lĩnh vực.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRONG NỘI DUNG
DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Toàn bộ nội dung của Dự thảo Bộ luật đã cố gắng thấu suốt chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phải chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, xác định đúng đắn tính chất và mức độ của các tội phạm, thể hiện rõ mục đích của các loại hình phạt, quy định chính sách xử lý thích hợp đối với các tội phạm và người phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự trở thành một công cụ quan trọng phục vụ đắc lực hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Chính sách hình sự đó được thể hiện nhất quán ở cả hai Phần của Bộ luật, tập trung nhất là ở mấy vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Bộ luật hình sự thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm

Trước hết, Bộ luật hình sự xác định: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý...

Trong những yếu tố trên đây của tội phạm, tính nguy hiểm cho xã hội là yếu tố cơ bản. Nó mang tính chất giai cấp rõ rệt, chỉ rõ cần phải bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, chỉ rõ vì lợi ích của ai mà coi một hành vi là nguy hiểm. Trong chế độ ta hiện nay, tội phạm là những hành vi nguy hiểm xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xâm phạm chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là những hành vi nguy hiểm đối với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm phải là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, tức là hành vi của người có khả năng nhận thức được việc làm của mình và có khả năng điều khiển hành vi của mình. Vì vậy, trẻ em dưới 14 tuổi, những người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì được xác định là những người không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu họ có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cũng không coi là phạm tội hình sự; đối với loại người này, khi cần thiết, sẽ áp dụng những biện pháp xử lý không phải là hình phạt.

Mặt khác, dù có hành vi nguy hiểm cho xã hội, những người thuộc những trường hợp sau đây cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự: khi gặp sự kiện bất ngờ, khi phải phòng vệ chính đáng hoặc trong tình thế cấp thiết.

Đã là tội phạm thì phải được quy định trong Bộ luật hình sự. Điều 2 của Dự thảo Bộ luật xác định rõ: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Như vậy, sau khi ban hành Bộ luật hình sự, nguyên tắc tương tự sẽ không được áp dụng nữa. Trước đây, luật hình sự của Nhà nước ta chưa hoàn chỉnh, chưa dự kiến đầy đủ những tội phạm có thể xảy ra thì áp dụng nguyên tắc tương tự trong một số trường hợp là cần thiết. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng nguyên tắc tương tự dễ dẫn đến sự tùy tiện trong công tác truy tố và xét xử. Đến nay, chúng ta xây dựng Bộ luật hình sự tương đối hoàn chỉnh, thì đã có đủ điều kiện để bỏ nguyên tắc tương tự trong luật hình sự; làm như vậy là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu có tính nguyên tắc của pháp lý hình sự hiện nay trên thế giới.

2. Bộ luật hình sự thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hình phạt

Trong chế độ ta, hình phạt không phải chỉ nhằm trừng trị, mà còn nhằm mục đích phòng ngừa: phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.

Đối với bản thân người phạm tội, hình phạt nói chung phải nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Hơn bất kỳ chế độ xã hội nào khác, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ có khả năng hiện thực và to lớn nhất để giải quyết yêu cầu nhân đạo đó đối với con người. Vì vậy, chúng ta rất coi trọng việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa một cách tích cực việc tái phạm hoặc phạm tội mới.

Đối với những người khác, hình phạt phải có tác dụng răn đe, kiềm chế những người có ý đồ xấu, phòng ngừa trước việc xảy ra tội phạm, đồng thời, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đông đảo nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia phòng ngừa và chống tội phạm.

Từ quan điểm trên đây về hình phạt, Dự thảo Bộ luật hình sự quy định hệ thống hình phạt chính gồm có: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình.

Đối chiếu với hệ thống hình phạt trước đây, cải tạo không giam giữ là một hình phạt mới được quy định trong thời gian gần đây. Hình phạt này áp dụng đối với những người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, xét không cần phải cách ly khỏi xã hội, mà trái lại nên và có thể giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhận giám sát, giáo dục ngay trong môi trường xã hội, do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội sửa chữa sai lầm, đi vào con đường lương thiện.

Ngoài những hình phạt chính, Dự thảo Bộ luật hình sự quy định những hình phạt bổ sung có thể áp dụng kèm theo hình phạt chính, như cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính thì có thể áp dụng là hình phạt bổ sung.

Dự thảo Bộ luật hình sự còn quy định những biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, như tịch thu vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm; bắt trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi. Đối với người mắc bệnh tâm thần có hành vi nguy hiểm cho xã hội, Viện kiểm sát hoặc Tòa án, căn cứ vào kết luận của cơ quan giám định pháp y, có thể quyết định đưa vào một cơ sở chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.

3. Từ những quan điểm về tội phạm và hình phạt, Bộ luật hình sự xác định chính sách xử lý đối với các tội phạm và người phạm tội

Các tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Những người phạm tội có động cơ, mục đích khác nhau, dùng những thủ đoạn khác nhau, gây hậu quả khác nhau, có nhân thân khác nhau, thái độ của mỗi người trong và sau khi phạm tội cũng khác nhau. Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, tức là có nhiều người tham gia thực hiện và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người này, thì vai trò của mỗi người khi phạm tội cũng không giống nhau. Việc xử lý do đó phải phù hợp với từng người, từng tội phạm, từng hoàn cảnh phạm tội.

Xuất phát từ các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, Bộ luật hình sự đã xác định rõ chính sách xử lý hình sự.

a) Đối với các loại tội phạm

Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, từ trước đến nay cũng như từ nay về sau, bao giờ cũng phải được coi là nghiêm trọng nhất và nói chung phải bị trừng trị nghiêm khắc nhất.

Chế độ ta coi con người là vốn quý nhất và con người nói đây chủ yếu là nhân dân lao động, bộ phận có ý thức và có tính năng động cao trong lực lượng sản xuất xã hội. Vì vậy, các tội xâm phạm con người, xâm phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân phải được xử lý đích đáng.

Các tội xâm phạm đến sở hữu xã hội chủ nghĩa, khung nền và nguồn sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, nói chung cũng phải bị trừng trị thật nghiêm khắc, nhất là đối với các tội cướp, cưỡng đoạt, hủy hoại, trộm cắp, tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa gây hậu quả nghiêm trọng.

Trong tình hình hiện nay, để giữ vững kỷ cương trong công tác quản lý, rất cần chú trọng xử lý các tội phạm về kinh tế, trong đó cần nghiêm trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, v.v..

b) Đối với người phạm tội

Một mặt, cần nghiêm trị những kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, những kẻ ngoan cố chống đối, bọn lưu manh, côn đồ, những kẻ biến chất, sa đọa, lợi dụng và lạm dụng chức vụ, quyền hạn sẵn có để phạm tội, những kẻ phạm tội có tổ chức, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.

Mặt khác, cần khoan hồng đối với những người thật thà hối cải, tự thú, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Chính sách khoan hồng đó còn bao gồm những trường hợp miễn hoặc giảm việc chấp hành hình phạt đối với những người, sau một thời gian chấp hành hình phạt, đã chứng tỏ quyết tâm cải tạo. Cũng để khuyến khích người phạm tội cải tạo tốt, làm ăn lương thiện, không phạm tội mới, Dự thảo Bộ luật hình sự quy định việc xóa án sau những thời gian thử thách nhất định, và người được xóa án coi như chưa can án.

Chính sách xử lý khoan hồng được xác định trong Bộ luật hình sự thể hiện truyền thống thương người của dân tộc ta, thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chế độ ta, thể hiện lòng tin của giai cấp công nhân ta ở khả năng hiện thực về cải tạo và giáo dục những người đã trót phạm tội, thể hiện quyết tâm của Đảng ta khêu lên và thổi bùng ngọn lửa lương tri dù chỉ còn le lói trong tâm hồn của những người phạm tội, khuyến khích họ trở về con đường và cuộc sống lương thiện.

c) Đối với người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên thường là chưa được ổn định về trạng thái sinh lý, tâm lý, còn bị hạn chế về nhận thức, thiếu kinh nghiệm sống, chưa đủ khả năng đánh giá đúng đắn sự việc. Trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tuy chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, nhưng cũng còn nhiều thiếu sót và nhược điểm, ở cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, đối với người chưa thành niên phạm tội, không thể xử lý như đối với người đã thành niên phạm tội, mà phải có chính sách riêng. Chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội một mặt phải thể hiện chính sách hình sự chung; mặt khác, nó cũng phải phản ánh chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành.

Được thể chế hóa trong Dự thảo Bộ luật hình sự, chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội có những vấn đề chính sau đây:

Người dưới 14 tuổi, dù phạm tội nghiêm trọng, cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với những đối tượng này, sẽ áp dụng các biện pháp xã hội.

Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng của tội phạm và cũng tùy theo lứa tuổi.

Việc xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội lấy giáo dục, cải tạo là mục đích chủ yếu. Do đó, cần áp dụng rộng rãi các biện pháp có tính giáo dục thật sự, như buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng. Gia đình và xã hội có vai trò quan trọng và có trách nhiệm lớn trong việc thực hiện những biện pháp này.

Chỉ phạt tù có thời hạn người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp thật cần thiết phải cách ly người đó khỏi xã hội trong một thời gian. Mức án nói chung nhẹ hơn so với người đã thành niên.

Không áp dụng các hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Không giam phạm nhân chưa thành niên lẫn lộn với phạm nhân lớn tuổi, để tránh mọi ảnh hưởng xấu.

Thời hạn để giảm án, xóa án cho người chưa thành niên phạm tội ngắn hơn so với người đã thành niên.

4. Căn cứ vào chính sách hình sự và tình hình thực tế của xã hội, Bộ luật hình sự quy định cụ thể các tội phạm và hình phạt

Vận dụng chính sách hình sự đã được xác định trong Phần chung, Phần các tội phạm đã quy định các tội phạm cụ thể và các hình phạt áp dụng đối với mỗi tội phạm. Căn cứ vào tình hình tội phạm trong những năm qua, dự đoán sự diễn biến của tình hình này trong nhiều năm tới, Dự thảo Bộ luật hình sự đã cố gắng dự kiến đầy đủ những hành vi phạm tội, cố gắng không bỏ sót tội phạm, nhất là tội phạm nghiêm trọng. Trong chế độ ta, do sức mạnh của dư luận xã hội, do hiệu quả ngày càng lớn của công tác giáo dục, do khả năng ngày càng hiện thực về cải tạo con người, chúng ta có thể thu hẹp trong chừng mực hợp lý phạm vi của luật hình sự. Đối với một số hành vi phạm pháp, tuy phải kiên quyết đấu tranh để hạn chế, rồi đi đến loại trừ khỏi đời sống xã hội, nhưng nếu thấy có thể xử lý bằng các biện pháp xã hội, hành chính, dân sự cũng đạt được yêu cầu giữ gìn kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước, thì trong Bộ luật hình sự này không quy định thành tội phạm để xử lý bằng biện pháp hình sự.

Tùy theo các quan hệ xã hội mà luật hình sự phải bảo vệ, các tội phạm được phân loại, phân nhóm trong các chương, các mục thích hợp của Bộ luật hình sự. Tội phạm có mức độ nặng nhẹ khác nhau, do đó đối với mỗi tội phạm, có đặt ra nhiều khung hình phạt nặng, nhẹ khác nhau, sát hợp với từng trường hợp cụ thể.

Xuất phát từ những căn cứ đó, Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự chia thành 12 chương:

Chương I: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

Chương II: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Chương III: Các tội xâm phạm những quyền tự do dân chủ của công dân.

Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa.

Chương V: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên.

Chương VI: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân.

Chương VII: Các tội xâm phạm về kinh tế.

Chương VIII: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính.

Chương IX: Các tội phạm về chức vụ.

Chương X: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Chương XI: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.

Chương XII: Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.

Chúng tôi nghĩ rằng cách sắp xếp Phần các tội phạm như vậy là hợp lý.

III- VIỆC LẤY Ý KIẾN CỦA CÁN BỘ VÀ NHÂN DÂN
VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Dự thảo Bộ luật hình sự quy định những vấn đề có liên quan đến mọi lĩnh vực quản lý của Nhà nước, đến mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, việc trưng cầu ý kiến các ngành, các cấp trong quá trình soạn thảo Bộ luật có ý nghĩa rất quan trọng. Trước khi trình Quốc hội xem xét Phần chung cũng như Phần các tội phạm, Hội đồng Bộ trưởng đã gửi bản Dự thảo cho các cơ quan, đoàn thể ở Trung ương và các địa phương nghiên cứu, tham gia ý kiến. Các đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương cũng đã nhiều lần được hỏi ý kiến về Dự thảo Bộ luật hình sự. Nhiều đoàn đã dành thì giờ cần thiết để thảo luận kỹ bản Dự thảo và đã góp nhiều ý kiến xác đáng.

Sau mỗi lần Quốc hội thông qua sơ bộ, Dự thảo Bộ luật lại được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi. Đáng chú ý là, đối với Phần các tội phạm của Bộ luật, việc tổ chức thảo luận rộng rãi trong cán bộ và nhân dân không chỉ nhằm yêu cầu góp phần xây dựng Bộ luật, mà còn nhằm giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Do có những yêu cầu ấy, nên Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị cho các cấp ủy Đảng địa phương và các cơ quan, đoàn thể ở Trung ương tổ chức thảo luận; đồng thời, Hội đồng Nhà nước cũng có kế hoạch cụ thể về việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ và nhân dân đối với dự thảo này.

Nhiều Ban của Trung ương Đảng, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam và các đoàn thể nhân dân khác trong Mặt trận, nhiều Bộ, Uỷ ban Nhà nước và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương đã khẩn trương tổ chức thảo luận, và đã góp nhiều ý kiến xây dựng quý báu, trong đó sự đóng góp tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là rất đáng nhiệt liệt hoan nghênh.

Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp, Sông Bé, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Gia Lai - Kon tum, Phú Khánh, Nghĩa Bình, Thanh Hóa, Thái Bình, Vĩnh Phú và nhiều tỉnh khác cũng đã làm rất tốt việc tổ chức thảo luận và góp ý kiến.

Ở miền núi, đặc biệt là ở các tỉnh biên giới phía Bắc, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, đoàn thể địa phương đã khắc phục mọi khó khăn, tổ chức, thảo luận và góp ý kiến, không chỉ ở cấp tỉnh, mà còn cả ở cấp huyện, thị xã và một số xã.

Ngoài ra, còn có nhiều người gửi thư riêng góp ý kiến, trong đó có một số sinh viên Việt Nam đang học ở Cộng hòa Dân chủ Đức.

Chỉ trong vòng 4 tháng, kể từ ngày công bố bản Dự thảo được Quốc hội thông qua sơ bộ, chúng tôi đã nhận được trên 130 báo cáo và thư góp ý. Từ sau đợt trưng cầu ý kiến về dự thảo Hiến pháp mới, đây là đợt trưng cầu ý kiến được tổ chức rộng rãi nhất và được hưởng ứng nhiều nhất.

Các cơ quan, đoàn thể ở Trung ương và địa phương đã đánh giá cao ý nghĩa của việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo Bộ luật hình sự, coi đó là một đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi, là một việc làm thực tế phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong công tác tham gia quản lý nhà nước và xây dựng pháp luật; đồng thời cho rằng, Dự thảo đã được xây dựng công phu, thể hiện rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong mọi lĩnh vực.

Nhiều nơi đã tha thiết đề nghị Quốc hội sớm thông qua chính thức Bộ luật hình sự trong năm 1985, để làm cơ sở thống nhất cho việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; cho việc tiến hành đúng đắn các công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; cho việc giảng dạy về luật hình sự ở các trường Pháp lý, Công an, Kiểm sát, Tòa án.

Ý kiến của cán bộ và nhân dân về Dự thảo Bộ luật hình sự rất phong phú trên nhiều mặt, nhất là về những hiện tượng phạm tội. Nhưng Bộ luật hình sự chỉ quy định những vấn đề về nguyên tắc, chính sách, và khi quy định về tội phạm thì cũng chỉ nêu lên những dấu hiệu đặc trưng của mỗi tội, cho nên tuy không thể đưa hết những ý kiến nói trên vào Bộ luật, nhưng sau này khi xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật được Quốc hội thông qua, các cơ quan có trách nhiệm sẽ phải nghiên cứu và sử dụng những ý kiến đó.

Chúng tôi xin báo cáo những ý kiến tập trung vào mấy vấn đề sau đây:

1. Ý kiến chung là tán thành những quy định trong Dự thảo Bộ luật hình sự về tội phạm, về hình phạt, và về chính sách xử lý, cho rằng những quy định đó thể hiện tốt tính giai cấp của Bộ luật hình sự. Những mục tiêu mà Bộ luật hình sự phải bảo vệ được xác định rõ là những lợi ích cơ bản của Nhà nước, của xã hội, những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những quy định của Bộ luật hình sự, trong Phần chung cũng như trong Phần các tội phạm, thực chất là thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng ta về đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc quy định trong Bộ luật hình sự tội phạm nào là nghiêm trọng, tội phạm nào là ít nghiêm trọng, mức hình phạt nặng nhẹ khác nhau đối với mỗi loại tội phạm và mỗi loại người phạm tội chính là xuất phát từ quan điểm tăng cường chuyên chính vô sản trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.

2. Trong quá trình thảo luận, nhiều người tán thành Dự thảo Bộ luật hình sự đã xác định rõ vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, trong việc giám sát, giáo dục những người bị kết án mà không phải cách ly khỏi xã hội, trong việc giáo dục người chưa thành niên phạm tội, v.v.. Ý kiến chung là hoan nghênh những quy định của Dự thảo Bộ luật hình sự nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, đồ vật, thư tín và các quyền tự do dân chủ của công dân. Nhiều người liên hệ đến những hành vi trái pháp luật xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân xảy ra ở địa phương, nhất là ở cơ sở, như bắt người, giam giữ người, khám xét người và nhà cửa, thu giữ đồ vật của công dân một cách trái phép, v.v. và khẩn thiết đề nghị Nhà nước gấp rút đề ra những biện pháp có hiệu quả nhằm chấm dứt tình trạng đó. Xuất phát từ yêu cầu coi trọng con người dưới chế độ ta, coi trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp xác nhận, cán bộ và nhân dân đề nghị đưa hai chương quy định các tội xâm phạm con người (Chương III và Chương IV cũ) lên trên chương quy định các tội phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa (Chương II cũ).

Ý kiến này đã được tiếp thụ khi chỉnh lý bản Dự thảo trình ra Quốc hội tại kỳ họp này.

3. Tội phạm là một trong những vấn đề được nhiều người đề cập khi thảo luận Dự thảo Bộ luật hình sự.

Do đã nhiều lần tham gia ý kiến vào Dự thảo Bộ luật hình sự, nên trong đợt thảo luận cuối năm 1984 vừa qua, có ít ý kiến đề nghị thêm, bớt tội, mà phần nhiều là những ý kiến nêu những hiện tượng vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế và quản lý hành chính, vạch ra chiều hướng phát triển và mức độ nghiêm trọng của các hiện tượng đó, để khẳng định rằng những quy định về tội phạm trong Dự thảo Bộ luật hình sự là đúng đắn.

Có ý kiến đề nghị nên thêm tội bắt cóc tống tiền, vì thấy rằng từ sau ngày miền Nam được giải phóng, tội này vẫn tiếp tục xảy ra, nhưng trong Dự thảo cũ không quy định hành vi bắt cóc tống tiền thành một tội phạm riêng, mà chỉ coi là trường hợp tăng nặng của tội cưỡng đoạt tài sản công dân; để đấu tranh chống tội phạm này có hiệu quả, cần coi hành vi bắt cóc tống tiền là một tội phạm nghiêm trọng được quy định riêng trong một điều. Ý kiến này đã được tiếp thụ và được ghi thành một điều (Điều 152) trong Dự thảo, với tên gọi là "Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân".

Trong Dự thảo cũ Bộ luật hình sự, có một điều nói đến "tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải, gây hậu quả nghiêm trọng", bao gồm hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông vận tải và hành vi của người khác cản trở giao thông vận tải. Có ý kiến đề nghị tách ra thành hai điều quy định hai tội phạm khác nhau cho chính xác hơn và có tác dụng phòng ngừa mạnh mẽ hơn. ý kiến này cũng đã được tiếp thụ và trong bản Dự thảo trình Quốc hội kỳ này, có thêm một điều quy định "tội cản trở giao thông vận tải, gây hậu quả nghiêm trọng" (Điều 187).

Có ý kiến, nhất là của nhiều đồng chí trong ngành Tòa án, đề nghị thêm tội giết trẻ sơ sinh, vì trong thực tế lâu nay Tòa án vẫn phải xử tội này. Người phạm tội thường là người mẹ, do hoàn cảnh đặc biệt, ngay sau khi đẻ đã giết con mình hoặc vứt bỏ con làm cho con chết. Mức án thường là thấp, vì có chiếu cố đến nhiều tình tiết giảm nhẹ, trước hết là tình tiết do sức ép nặng nề của dư luận xã hội mà người mẹ đi vào con đường phạm tội. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, chúng tôi thấy nên ghi vấn đề này vào Dự thảo Bộ luật, nhưng không làm thành một điều riêng, mà chỉ ghi thành một khoản của Điều 101 với mức hình phạt thấp. Chúng tôi hy vọng rằng, việc ghi khoản này vào Bộ luật hình sự sẽ phát huy tác dụng răn đe tích cực, không những đối với người mẹ liều lĩnh nhất thời, mà cả đối với cái dư luận xã hội quá khắt khe kia, góp phần đẩy lùi rồi cuối cùng thủ tiêu nó, để cứu vớt những người mẹ bất hạnh, đồng thời cứu sống những cháu bé vô tội.

Có nhiều ý kiến đề nghị không nên coi những vi phạm các quy định về đăng ký hộ khẩu là tội phạm, vì đó là những vi phạm hành chính, chỉ cần giải quyết bằng biện pháp hành chính. Trong Dự thảo Bộ luật hình sự trình Quốc hội kỳ này, điều nói về "tội vi phạm các quy định về đăng ký hộ khẩu" đã được xóa bỏ.

4. Về các hình phạt, khi thảo luận Dự thảo Bộ luật hình sự, cũng có nhiều ý kiến.

 Có ý kiến cho rằng mức hình phạt được quy định đối với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của xã hội, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cần được nâng cao hơn nữa.

Có ý kiến đề nghị xem xét lại hình phạt quy định đối với quân nhân phạm tội, vì trong một số điều, hình phạt quy định quá nặng.

Có ý kiến cho rằng Dự thảo Bộ luật hình sự quy định hơi nhiều về tử hình. Thậm chí, có người đề nghị bỏ hẳn hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt của nước ta.

Uỷ ban chúng tôi đã cùng Ban Dự thảo Bộ luật hình sự của Hội đồng Bộ trưởng rà soát lại các hình phạt đã ghi trong Bộ luật. Căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước ta, căn cứ vào nguyên tắc hình sự là mức hình phạt quy định cho mỗi tội phải tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó, với những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng của nó, chúng tôi đã điều chỉnh mức hình phạt quy định đối với một số tội phạm cho hợp lý hơn. Đáng chú ý là một số điều trong Chương XI về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đã được sửa lại theo mức thấp hơn so với Dự thảo trước.

Về hình phạt tử hình, ý kiến đề nghị bỏ hẳn đi là không thực tế, không phù hợp với tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh chống tội phạm hiện nay và nhiều năm sau. Tuy nhiên, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta vẫn coi tử hình là hình phạt đặc biệt, chỉ áp dụng đối với những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, hoặc trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, tiếp thụ ý kiến phát biểu trong cuộc thảo luận vừa qua, chúng tôi đã bỏ bớt hình phạt tử hình đối với một số tội phạm.

5. Trong khi thảo luận Dự thảo Bộ luật hình sự, nhiều người và nhiều địa phương tỏ ý quan tâm đến tác dụng thực tế của Bộ luật hình sự sau khi được Quốc hội thông qua chính thức. Nếu Nhà nước ta không có những biện pháp tích cực để phát huy hiệu lực của Bộ luật hình sự ngay từ đầu, nếu không dựa vào Bộ luật hình sự để kiên quyết đấu tranh nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hiện tượng tiêu cực đang gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, thì ý nghĩa chính trị của việc ban hành Bộ luật hình sự, mà mọi người đều mong đợi, sẽ bị hạn chế.

Đây là nguyện vọng thiết tha và cũng là đòi hỏi chính đáng của cán bộ và nhân dân đối với Nhà nước ta.

IV- NHỮNG VIỆC CẦN LÀM SAU KHI QUỐC HỘI
THÔNG QUA CHÍNH THỨC BỘ LUẬT HÌNH SỰ

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Để cho Bộ luật hình sự do Quốc hội thông qua chính thức có thể phát huy mạnh mẽ tác dụng trong cả nước, chúng tôi xin có một số đề nghị sau đây:

1. Theo quy định của Hiến pháp thì các luật phải được công bố chậm nhất là 15 ngày sau khi đã được thông qua và có hiệu lực kể từ ngày công bố.

Nhưng Bộ luật hình sự là một bộ luật lớn, nhiều quy định cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể thì việc thi hành mới được bảo đảm. Vì vậy, phải có thời gian cần thiết để các cơ quan hữu quan hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo kinh nghiệm của một số nước anh em, thời gian đó thường là vào khoảng 6 tháng. Chúng tôi đề nghị 6 tháng kể từ ngày được Quốc hội thông qua chính thức, Bộ luật hình sự mới có hiệu lực.

Chúng tôi cũng đề nghị các cơ quan nhà nước có trách nhiệm, như Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sớm ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về cải tạo không giam giữ, quản chế, cấm cư trú, bắt buộc chữa bệnh, tổng hợp hình phạt, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành án, xóa án, các biện pháp tư pháp, và hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, v.v. để việc áp dụng Bộ luật hình sự được thống nhất và có hiệu quả thật sự.

2. Bộ luật hình sự cần được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong đảng viên, cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang.

Trước hết, Bộ luật hình sự nên được in và phát hành rộng rãi. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các lực lượng vũ trang, các trường học, các đơn vị kinh tế và văn hóa quốc doanh và tập thể, ở cấp Trung ương cũng như ở các địa phương, v.v. cần tổ chức một đợt học tập nghiêm túc. Các báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, nhà xuất bản, các đội tuyên truyền lưu động và các cơ quan văn hóa quần chúng, tùy theo đối tượng phục vụ và phương thức hoạt động của mình, cần có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong đồng bào các dân tộc về Bộ luật hình sự. Nên tổ chức tốt nhiều lớp bồi dưỡng báo cáo viên, v.v..

Sau đợt học tập và tuyên truyền tập trung, đương nhiên còn phải tiếp tục làm công tác tuyên truyên, giáo dục thường xuyên hằng ngày, làm cho mọi công dân thật sự nắm được nội dung chủ yếu của Bộ luật, hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của Bộ luật. Như vậy mới có thể phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo điều kiện cho họ tham gia tích cực vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

3. Bộ luật hình sự là Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng, chúng ta đã cố gắng thấu suốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể hóa những nguyên tắc mà Hiến pháp năm 1980 đã xác định. Song nó ra đời trong hoàn cảnh nước ta đang ở chặng đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; vì vậy, có thể có một số điều, khoản của Bộ luật, qua một số năm thi hành, cần được sửa đổi, bổ sung cho sát hợp với thực tế mới của đất nước. Chúng tôi đề nghị Quốc hội, sau khi thông qua chính thức Bộ luật, giao trách nhiệm cho các ngành hữu quan, trong quá trình thi hành, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung điều, khoản nào, thì kịp thời trình Quốc hội xem xét và quyết định. Trong thời gian Quốc hội không họp, thì việc sửa đổi, bổ sung những điều, khoản cụ thể của Bộ luật hình sự sẽ do Hội đồng Nhà nước quyết định, nhưng sau đó phải trình phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.

4. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng Bộ luật hình sự đã là rất quan trọng, thì trong quá trình thi hành Bộ luật lại càng quan trọng. Vì thế, chúng tôi tha thiết đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng có sự quan tâm ngay từ sau khi Quốc hội biểu quyết thông qua chính thức Bộ luật này, có những chỉ thị cần thiết cho các cấp ủy Đảng lãnh đạo tốt công tác tuyên truyền giáo dục, công tác hướng dẫn thi hành, lãnh đạo tốt các cơ quan chuyên trách như Kiểm sát, Tòa án, Công an, Tư pháp, v.v. nghiêm chỉnh chấp hành Bộ luật hình sự, kiên quyết đấu tranh phòng và chống các tội phạm theo đúng pháp luật, củng cố và nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước ta lên một bước mới.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trên đây là những vấn đề chính mà chúng tôi trình Quốc hội xem xét và quyết định.

Chúng tôi tin rằng Quốc hội sẽ có quyết định chính thức thông qua Dự thảo Bộ luật hình sự, đáp ứng lòng mong mỏi tha thiết và chính đáng của cán bộ và nhân dân ta.

Thay mặt Ủy ban pháp luật của Quốc hội, tôi xin kính chúc kỳ họp thứ 9 của Quốc hội ta thành công rực rỡ, kính chúc các đồng chí đại biểu Quốc hội dồi dào sức khỏe!

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.